Truy tìm Dracula - Chương 77 + 78
Chương 77
“Cha đã ở lại thị trấn Les Bains ba tuần lễ, cùng với cảnh
sát địa phương và một đội đặc nhiệm được gọi từ Paris đến để sục sạo
những vách đá và khu rừng. Ông bà nội con bay đến Pháp và dành ra hàng giờ để
chơi đùa với con, cho con ăn uống, đẩy xe cho con loanh quanh khắp thị trấn -
cha nghĩ vậy. Trong lúc ấy cha phải điền vào hết biểu mẫu này đến biểu mẫu khác
trong các văn phòng buồn tẻ nhỏ bé. Cha đã gọi những cuộc điện thoại vô vọng, tìm
kiếm từng từ trong tiếng Pháp để diễn tả tình trạng khẩn cấp của nỗi đau mất
mát trong mình. Ngày này tiếp ngày nọ, cha sục sạo các khu rừng dưới chân vách
núi, đôi khi cùng với nhóm người của một thanh tra cảnh sát mặt lạnh như tiền,
đôi khi chỉ một mình cha cùng với những giọt nước mắt lưng tròng.
“Thoạt đầu, cha mong được nhìn thấy Helen còn sống, bước về
phía cha với nụ cười phớt lạnh quen thuộc, nhưng sau cùng niềm hy vọng đó giảm
xuống chỉ còn là một nửa nỗi khao khát cay đắng được nhìn thấy hình hài vỡ nát
của mẹ, hy vọng sẽ vô tình vấp vào hình hài ấy đâu đó giữa những tảng đá hoặc
bụi rậm. Nếu cha có thể mang thi hài mẹ về nhà - hoặc về Hungary như đôi khi
cha nghĩ, mặc dù làm thế nào để vào được đất nước Hungary đang bị quân đội Liên
Xô kiểm soát vẫn là một câu hỏi hóc búa - thì cha vẫn phải giữ lại gì đó của mẹ
để tỏ lòng tôn kính, để chôn cất, để một cách nào đó chấm dứt việc này và được
một mình còn lại với nỗi khổ đau của mình. Cha hầu như không dám thừa nhận là
muốn tìm thấy thi hài của mẹ còn vì một mục đích khác nữa: để chắc chắn xem cái
chết của mẹ có phải là hoàn toàn tự nhiên, hoặc liệu mẹ có cần cha hoàn thành
cái nhiệm vụ cay đắng mà cha đã thực hiện vì thầy Rossi. Tại sao cha không thể
tìm được xác Helen chứ? Thỉnh thoảng, nhất là vào buổi sáng, cha cảm thấy mẹ
đơn giản chỉ bị té ngã, mẹ không bao giờ chủ ý muốn từ bỏ chúng ta - con và
cha. Rồi cha lại tin rằng ở một nơi nào đó trong những cánh rừng, chắc hẳn mẹ
cũng đã có được một nấm mồ đơn sơ của một người vô tội, cho dù cha sẽ chẳng bao
giờ tìm thấy. Nhưng đến trưa, cha lại nhớ đến tâm trạng kỳ lạ, nỗi buồn rầu
thất vọng của mẹ.
“Cha biết rằng mình sẽ khổ đau trong suốt phần đời còn lại,
nhưng việc đến thi hài của mẹ cha cũng không tìm thấy đã dằn vặt cha ghê gớm.
Ông bác sĩ ở địa phương đã cho cha một liều thuốc an thần, cha uống vào mỗi đêm
để có thể chợp mắt và để phục hồi đủ sức lực tiếp tục lùng sục các khu rừng vào
ngày hôm sau. Khi đám cảnh sát trở nên bận rộn với những chuyện khác, cha vẫn
tiếp tục sục sạo một mình. Thỉnh thoảng cha lôi từ trong bụi cây ra những phần
khác của khu di tích: những mẩu đá, các ống khói vỡ vụn, và một lần cha đã tìm
thấy một phần của đầu máng xối có hình đầu người đã vỡ nát - liệu Helen có rơi
xa thế này chăng? Hiện vẫn còn một vài đầu máng xối như vậy trên các bức tường
tu viện.
“Sau cùng, ông bà nội con đã thuyết phục cha không nên cứ
lùng sục mãi như vậy, rằng cha nên mang con trở về New York một thời gian, rằng
bất cứ lúc nào cha cũng có thể quay trở lại để tìm kiếm. Qua mạng lưới của cảnh
sát Pháp, cảnh sát toàn châu Âu đã được báo vụ việc; nếu Helen còn sống - ông
bà nội con nói bằng giọng nhẹ nhàng - thì sẽ có người tìm thấy. Cuối cùng, cha
đành nhượng bộ không phải chỉ vì những lời trấn an kia mà vì chính những khu
rừng, những vách đá dựng đứng nhìn muốn chóng mặt, vì đám cây cối bụi rậm dày
đặc, quần áo và cả áo khoác của cha rách tả tơi khi luồn lách giữa chúng, những
thân cây to kinh khủng và cao ngút trời, bầu không gian im lặng nặng nề như phủ
chụp toàn thân mỗi khi cha dừng lại, mò mẫm, hoặc đứng bất động chỉ trong vài
phút.
“Trước khi rời khỏi nơi đó, cha đã xin ông tu viện trưởng
cầu kinh ban phước lành cho Helen ở ngay rìa cuối dãy hành lang, nơi Helen đã
nhảy xuống. Ông đã tổ chức một buổi lễ, tụ tập các tu sĩ xung quanh mình, đưa
cao lên giữa trời hết thứ thánh vật này đến thánh vật khác - dù thực sự chúng
có là gì thì cũng chẳng có ý nghĩa gì đối với cha - và cầu nguyện, hướng lên
một khoảng mênh mông mà ngay lập tức đã nuốt chửng tiếng ông. Ông bà nội cùng
đứng với cha, bà nội đưa tay chùi vội lên mắt, con ngọ nguậy trong tay cha. Cha
ôm chặt lấy con, trong những tuần lễ đó cha hầu như đã quên bẵng mái tóc của
con mềm mại ra sao, đôi chân con khi không vừa ý thì quẫy đạp thế nào. Quan
trọng hơn cả, con vẫn còn sống, con vẫn đang phả hơi thở vào cằm cha, đôi tay
vẫn đang bám quanh cổ cha, vừa tin cậy vừa trìu mến. Khi cha bất chợt bật lên
một tiếng nức nở, con đã chụp vào tóc cha, kéo tai cha. Bồng con trong tay, cha
thầm nguyện sẽ cố phục hồi phần nào cuộc sống, một cuộc sống theo nghĩa nào
đó.”
Chương 78
Barley và tôi ngồi nhìn nhau, trước mớ bưu thiếp của mẹ tôi.
Giống như những lá thư của cha, chúng quá ít thông tin để tôi có thể hiểu nhiều
hơn về tình hình hiện tại. Điều chính yếu, cái điều như đang cháy bỏng sôi sục
trong đầu tôi chính là ngày tháng ghi trên các tấm bưu thiếp. Mẹ tôi đã viết
chúng sau ngày bà mất.
“Cha em đã đến tu viện đó,” tôi buột miệng.
“Đúng vậy,” Barley đáp. Tôi gom các tấm thiệp lại đặt lên
mặt đá cẩm thạch của chiếc bàn phấn.
“Đi nào,” tôi nói, lục trong xắc tay của mình lấy ra con dao
bạc nhỏ vẫn nằm nguyên trong vỏ bao và thận trọng đút vào túi áo.
Barley chồm tới, hôn lên má tôi. Nụ hôn làm tôi ngạc nhiên.
“Đi nào,” anh nói.
Con đường dẫn đến tu viện Thánh Matthieu hóa ra dài hơn so
với trí nhớ của tôi, bụi bặm và nóng nực dù đã là cuối buổi chiều. Ở thị trấn
Les Bains không có taxi - ít ra là trước mắt không thấy chiếc nào cả - vì vậy
chúng tôi đành phải cuốc bộ, sau khi nhanh chóng vượt qua các trang trại, chúng
tôi đến một bìa rừng. Từ đó, con đường bắt đầu lên dốc. Bước vào rừng, giữa
những gốc ô liu, thông, và những thân sồi cao vút, không khác gì bước vào một
thánh đường; chúng tôi trầm giọng xuống giữa cái không gian lờ mờ và mát lạnh
đó, mặc dù cũng chẳng nói gì nhiều. Giữa lúc đang lo lắng, tôi vẫn cảm thấy
đói, lúc nãy thậm chí chúng tôi còn không kịp chờ món cà phê. Barley bỏ chiếc
mũ lưỡi trai xuống lau trán.
“Mẹ không thể sống sót với một cú rơi như vậy,” tôi nói, cảm
thấy cổ họng như đang bị bóp nghẹt.
“Đúng vậy.”
“Cha em chưa bao giờ băn khoăn - ít nhất là trong các lá thư
của ông - liệu mẹ có bị ai đó đẩy xuống hay không.”
“Đúng vậy thật,” Barley hưởng ứng, đội lại mũ lên đầu.
Tôi im lặng một lát. Chỉ có tiếng bước chân chúng tôi trên
nền đá lát gập ghềnh - con đường đến chỗ đó vẫn còn lát đá. Dù tôi không muốn
nói ra những điều này nhưng không hiểu sao chúng vẫn tuôn ra: “Giáo sư Rossi
viết là hành động tự tử đưa con người vào nguy cơ có thể trở thành... trở
thành...”
“Anh nhớ điều đó,” Barley đáp đơn giản. Tôi ước gì mình đã
không nói ra câu này. Con đường bây giờ quành lên cao hơn. “Có thể có ai đó sẽ
lên đây bằng xe,” Barley nói thêm.
Nhưng chẳng có chiếc xe nào xuất hiện và chúng tôi càng lúc
càng đi nhanh hơn, vì vậy sau một lúc thay vì trò chuyện cả hai đều hổn hển.
Khi ra khỏi cánh rừng, ở khúc quanh sau cùng, những bức tường quanh tu viện làm
tôi thoáng ngạc nhiên; tôi không nhớ khúc quanh đó, hoặc khoảng trời đột ngột
mở ra trên đỉnh núi, buổi chiều mênh mông bao quanh chúng tôi. Tôi chỉ nhớ
khoảnh đất bằng phẳng bên dưới cổng trước, hôm nay không có chiếc xe nào đậu ở
đó. Khách du lịch đâu hết rồi nhỉ? Tôi thầm hỏi. Một lát sau, chúng tôi đã đến
gần hơn để đọc được tấm bảng: sửa chữa, tháng này không tiếp khách. Nhưng thế
cũng không đủ làm cho bước chân chúng tôi chậm lại. “Đi tiếp nào,” Barley thốt
lên, rồi cầm lấy tay tôi, tôi cảm thấy nhẹ lòng, vì tay tôi đã bắt đầu run lên.
Hiện tại, những bức tường phía trước xung quanh cổng đầy
những giàn giáo. Một máy trộn xi măng di động đứng chắn trên lối đi - xi măng
ư? ở nơi chốn này? Chúng tôi rụt rè đưa tay kéo chiếc chuông sắt khi nhận ra
các cánh cửa dưới cổng đóng kín nhưng không khóa. Tôi chẳng thích đột nhập vào
chút nào, chẳng thích cái thực tế không thấy có dấu vết gì của cha mình. Có thể
cha vẫn còn dưới thị trấn Les Bains hoặc một nơi nào khác. Có thể nào cha đang
sục sạo dưới chân vách đá kia như đã từng sục sạo những năm trước đây, hàng
trăm thước sâu tít phía dưới kia, khuất tầm mắt chúng tôi? Tôi bắt đầu thấy hối
tiếc vì đã đi thẳng đến tu viện trong lúc bốc đồng. Hơn nữa, dù có lẽ phải một
giờ nữa mới đến hoàng hôn, mặt trời vẫn nhanh chóng chìm dần ở phía Tây dãy
Pyrénées, trông thấy rõ đang khuất dần sau những đỉnh núi cao nhất. Cánh rừng
mà chúng tôi vừa ra khỏi đã chìm trong bóng tối ảm đạm, và chẳng bao lâu những
tia nắng đỏ cuối cùng của ban ngày cũng biến mất trên những bức tường tu viện.
Chúng tôi bước vào bên trong, thận trọng, rồi đi ngược lên
khoảnh sân trong và khu hành lang. Đài phun nước bằng cẩm thạch đỏ róc rách
chảy ở giữa sân. Tôi nhớ có những cột hình xoắn ốc xinh xắn, khu hành lang dài
hun hút, một vườn hồng ở cuối sân. Ánh nắng chiều vàng cũng không còn nữa, thay
vào đó là những hình bóng nhờ nhờ tối. Không thấy người nào cả. “Anh có nghĩ
chúng ta nên quay trở lại Les Bains?” tôi thì thầm vào tai Barley.
Khi Barley có vẻ như sắp trả lời thì chúng tôi chợt nghe một
âm thanh - tiếng cầu kinh, vọng ra từ nhà thờ bên kia dãy hành lang. Các cánh
cửa đều đóng kín nhưng chúng tôi có thể nghe rõ ràng buổi lễ đang diễn ra bên
trong, với những khoảng lặng nửa chừng. “Tất cả mọi người đang ở trong đó,”
Barley thốt lên. “Có thể cha em cũng ở trong đó.”
Nhưng tôi không tin. “Nếu có ở đây, hẳn ông ấy cũng đã đi
xuống rồi...” Tôi dừng lại và quan sát quanh sân. Đã gần hai năm từ lần tôi
cùng cha tới thăm viếng nơi này nên trong chốc lát tôi chưa thể nhớ ra lối vào
khu hầm mộ ở đâu. Đột nhiên, tôi nhận ra lối cửa vào, dường như nó đã mở sẵn
gần bức tường khu hành lang mà tôi không chú ý. Bây giờ tôi đã nhớ ra những con
thú kỳ lạ được tạc thẳng vào đá quanh lối cửa vào đó: sư tử và điểu sư, rồng và
chim, những con thú quái dị mà tôi không nhận dạng được, những đứa con lai giữa
thiện và ác.
Barley và tôi nhìn về phía nhà thờ, các cánh cửa vẫn đóng
chặt im lìm, chúng tôi rón rén bước ngang qua khoảng sân tiến về lối cửa vào
khu hầm mộ. Đứng lặng ở đó một lát, dưới ánh mắt trừng trừng của những con thú
đã hóa đá kia, tôi chỉ nhìn thấy trong đó cái bóng tối mà chúng tôi sẽ bước
vào, tôi cảm thấy tim mình như chùng xuống. Rồi tôi chợt nhớ lại là cha mình có
thể ở dưới đó - thực ra là có thể đang lâm vào một rắc rối kinh khủng nào đó.
Và Barley vẫn đang nắm lấy tay tôi, cao lớn, lặng thinh và đầy tự tin bên tôi.
Tôi gần như mong anh sẽ lên tiếng càu nhàu về những điều kỳ quái mà gia đình
tôi tự lao vào, nhưng anh vẫn nghiêm nghị bên cạnh tôi, cũng như tôi, ở tư thế
sẵn sàng cho bất kỳ chuyện gì. “Bọn mình không có đèn,’ anh thì thầm.
“Mình có thể vào nhà thờ xin một cây,” tôi nêu ý kiến hơi
thừa.
“Anh có bật lửa đây.” Barley lấy bật lửa ra khỏi túi. Tôi
không biết anh hút thuốc. Anh bật quẹt lên, soi trên các bậc thang, chúng tôi
cùng nhau bước xuống, vào trong bóng tối.
Thoạt tiên, quả đúng là tối om om, chúng tôi cảm thấy những
bậc cấp cổ xưa dưới chân mình rất dốc, và sau đó tôi nhìn thấy ánh sáng lập lòe
đầu kia mái vòm sâu thẳm - không phải bật lửa của Barley, vài giây anh mới bật
lửa một lần - tôi sợ chết khiếp. Không hiểu vì sao, cái thứ ánh sáng mờ mờ ảo
ảo kia có vẻ như còn tồi tệ hơn cả bóng tối. Barley nắm chặt tay tôi đến độ tôi
cảm thấy như tay mình không còn cảm giác. Phần cầu thang ở dưới cùng uốn cong
và khi đến đoạn quanh cuối cùng tôi mới chợt nhớ đến điều cha nói, rằng chỗ này
có thể là gian giữa của nhà thờ trước đây. Ở đây có cỗ quan tài đá khổng lồ của
cha tu viện trưởng, cây thánh giá mờ mờ chạm khắc ở gian hậu cung cổ kính, mái
trần hình vòm thấp lè tè trên đầu chúng tôi, một trong những công trình kiến
trúc cổ xưa nhất theo phong cách Roman còn tồn tại ở châu Âu.
Tuy nhiên, tôi chỉ nhớ thoáng qua điều đó, bởi ngay sau đó
một cái bóng ở bên kia cỗ quan tài đá liền tách mình ra khỏi một cái bóng đen
hơn và đứng thẳng dậy: một người đang cầm ngọn đèn lồng. Đó là cha. Gương mặt
cha trông tiều tụy dưới ánh đèn chập chờn. Tôi nghĩ, cha cũng nhận ra chúng tôi
ngay khi chúng tôi nhìn thấy ông và thốt lên “Chúa ơi!” Chúng tôi nhìn nhau
sửng sốt. “Con làm gì ở đây?” cha trầm giọng, hỏi, nhìn từ tôi đến Barley, đưa
cao ngọn đèn lồng trước mặt chúng tôi. Giọng cha dữ dội - đầy giận dữ, sợ hãi,
yêu thương. Tôi bỏ tay Barley ra chạy đến bên cha, vòng qua cỗ quan tài. Cha ôm
tôi trong vòng tay. “Lạy Chúa Jesus,” cha nói, vuốt ve mái tóc tôi một lát.
“Con không nên đến nơi này chút nào.”
“Con đã đọc chương cuối cùng ở trung tâm lưu trữ tại
Oxford,’ tôi thì thầm. “Con sợ rằng cha đã...” Tôi không thể nói hết câu. Giờ
khi chúng tôi đã tìm thấy cha, và cha vẫn còn sống, trông vẫn là cha, tôi lại
run lên.
“Con phải ra khỏi đây ngay,” cha nói, nhưng rồi lại kéo tôi
sát hơn. “Không, trễ quá rồi - cha không muốn các con ra ngoài đó một mình.
Chúng ta chỉ còn vài phút trước khi mặt trời lặn. Đây,” - cha dúi cây đèn vào
tay tôi - “con cầm lấy, còn cháu” - cha hướng về Barley - giúp ta đẩy cái nắp
hòm này.” Barley bước đến ngay, mặc dù tôi nghĩ mình nhìn thấy đầu gối anh run
run, và giúp cha tôi chầm chậm đẩy trượt nắp cỗ quan tài ra. Tôi đã nhìn thấy
cha dựng một cây cọc dài vào vách tường gần đó. Chắc hẳn cha đã chuẩn bị cho
việc nhìn thấy trong cỗ quan tài đá kia một con quỷ mà cha đã bỏ công tìm kiếm
từ lâu, chứ không phải cho thứ mà cha thực sự nhìn thấy. Tôi nâng cao ngọn đèn
cho cha, nửa muốn nửa không muốn nhìn, nhưng rồi tất cả chúng tôi đều nhìn
trừng trừng xuống cái khoảng không trống rỗng kia: chỉ có bụi bặm. “Ôi trời,”
cha thốt lên. Đó là một tiếng than mà từ trước đến nay tôi chưa từng bao giờ
nghe trong giọng nói của cha, một âm thanh thất vọng não nề, tôi nhớ cha đã
nhìn vào chỗ trống đó một lần nữa. Cha loạng choạng về phía trước, tôi nghe
tiếng cây cọc rơi loảng xoảng trên nền đá. Tôi nghĩ cha sắp khóc, hoặc vò đầu
bứt tai, cúi xuống cái hầm mộ trống rỗng kia, nhưng cha chỉ đứng bất động, mặt
hằn lên nét khổ đau. “Trời ơi,” cha lại rền rĩ, gần như thì thào. “Ta cứ tưởng
ta đã tìm ra đúng chỗ, đúng thời điểm, vậy mà rốt cuộc thì... cha cứ tưởng...”
Cha không nói hết câu vì lúc đó bỗng có tiếng bước chân
trong bóng tối vang lên từ gian ngang cổ kính bên cạnh, nơi ánh đèn không thể
chiếu đến, một hình bóng hoàn toàn khác hẳn với bất cứ những gì mà bất kỳ ai
trong chúng tôi đã từng trông thấy. Một bộ dạng quá đỗi kỳ quái đến độ tôi
không thể hét lên cho dù cổ họng không hề nghẹn lại ngay tức khắc. Ngọn đèn
lồng trong tay tôi chỉ soi được bàn chân, cẳng chân, một cánh tay và bờ vai chứ
không chiếu đến được gương mặt hắn, tôi quá khiếp đảm đến độ không thể đưa ngọn
đèn lồng cao hơn. Tôi nhích sát gần cha hơn và Barley cũng vậy, như vậy không ít
thì nhiều tất cả chúng tôi cũng đứng sau một rào chắn là cỗ quan tài đá trống
rỗng đó.
Hình bóng kia lướt đến gần hơn một chút rồi dừng lại, khuôn
mặt vẫn chìm trong bóng tối. Lúc đó, tôi đã có thể nhận ra nó có hình dáng của
một người đàn ông nhưng là một kẻ không di chuyển giống như con người. Hai bàn
chân giấu kín trong đôi ủng đen chật cứng hoàn toàn chẳng giống bất cứ đôi ủng
nào tôi từng nhìn thấy, chúng chỉ vang lên âm thanh đùng đục trên nền đá khi
hắn bước tới. Phủ xuống toàn thân hắn là một áo choàng không tay, hoặc có lẽ
chỉ là một hình bóng lớn hơn, và đôi chân mạnh mẽ của hắn bọc kín trong hai ống
quần nhung đen. Hắn không cao bằng cha, nhưng đôi bờ vai dưới lớp áo choàng
nặng nề lại rất rộng và có điểm gì đó trong cái hình dáng lờ mờ kia tạo ấn
tượng như hắn cao to hơn. Chắc hẳn chiếc áo choàng có mũ trùm bởi khuôn mặt hắn
vẫn chìm hoàn toàn trong bóng tối. Sau những giây phút kinh hãi lúc đầu, giờ
tôi đã có thể thấy tay hắn, trắng bệch như xương và nổi bật trên nền quần áo
màu sậm, trên một ngón tay là chiếc nhẫn gắn đá quý.
Hắn hiện diện quá thực, quá gần gũi bên chúng tôi đến độ tôi
gần như không thở nổi; nhưng rồi tôi bắt đầu cảm thấy nếu buộc được mình đến
gần hắn hơn thì tôi có thể thở lại được, và rồi tôi bắt đầu nôn nóng muốn đến
gần hơn một chút. Tôi có thể cảm nhận lưỡi dao bạc trong túi áo mình, nhưng tôi
sợ không dám chạm đến nó. Một cái gì đó lấp lánh ở nơi chắc hẳn là khuôn mặt
hắn - đôi mắt đỏ ngầu? hàm răng, hắn cười chăng? - và rồi hắn thốt lên, phun ra
một tràng tiếng nói. Tôi gọi đó là một tràng bởi chưa bao giờ nghe một âm thanh
nào như vậy, một dòng tuôn trào từ yết hầu những từ ngữ rất giống như lấy từ
nhiều ngôn ngữ khác nhau gộp lại hoặc là từ một thứ ngôn ngữ lạ lẫm nào đó mà
tôi chưa bao giờ nghe. Một lúc sau, dòng âm thanh đó tựa như tự phân giải thành
những từ tôi có thể hiểu được, và tôi có cảm giác đó là những lời mà tôi đã
biết từ trong máu thịt chứ không phải từ đôi tai mình.
Xin chào. Ta chào mừng các ngươi.
Nghe thấy thế, cha như tỉnh lại. Tôi không biết cha tìm đâu
ra sức lực để nói. “Cô ấy ở đâu?” cha hét lên. Giọng run run vừa giận dữ vừa sợ
hãi.
Ngươi đúng là một học giả đáng nể đấy.
Tôi không hiểu gì cả, nhưng ngay khoảnh khắc đó thân thể tôi
muốn tự động di chuyển về phía hắn. Gần như đồng thời ngay lúc đó cha đưa tay
ra chộp chặt cánh tay tôi, ngọn đèn lồng chao đảo, những hình bóng khủng khiếp
và ánh sáng đèn như nhảy múa quanh chúng tôi. Trong giây phút chớp chớp lòa lòa
đó, tôi nhận ra một nét gì đó trên khuôn mặt Dracula, chỉ là hàng râu mép đen
cong quặp xuống, một gò má có thể thực sự chỉ còn toàn xương.
Ngươi đúng là kẻ quyết tâm cao nhất so với tất cả. Hãy đến
với ta, ta sẽ trao cho ngươi kiến thức của cả vạn đời người.
Tôi không biết, vẫn không biết, làm sao tôi có thể hiểu được
hắn, nhưng tôi nghĩ hắn đang mời gọi cha. “Không!” tôi thét lên. Trong khoảnh
khắc, tôi quá khiếp đảm trước việc mình vừa thực sự mở miệng nói với cái dáng
người kia đến mức đầu óc quay cuồng như không còn ý thức. Tôi có cảm giác hắn
đang mỉm cười, dù khuôn mặt hắn đã lại chìm vào bóng tối.
Hãy đến với ta, hoặc để con gái của ngươi đến.
“Cái gì?” cha hỏi tôi, giọng gần như không thể nghe được.
Đến lúc đó tôi biết là cha không thể hiểu được tiếng nói của Dracula, và thậm
chí có lẽ cũng chẳng nghe được hắn. Cha chỉ hỏi vì tiếng hét của tôi.
Hình dáng kia như im lặng suy nghĩ một lúc. Hắn ngọ nguậy
đôi ủng kỳ lạ trên nền đá. Trong hình dạng dưới những thứ trang phục cổ xưa có
cái gì đó không chỉ là gớm ghiếc mà còn thanh nhã, một kẻ vốn đã quen với quyền
lực.
Ta đã chờ đợi quá lâu một học giả tài ba như ngươi.
Giọng nói đó vẫn nhẹ nhàng nhưng đầy vẻ hăm dọa. Chúng tôi
đứng như bị chìm ngập trong một thứ bóng tối phát xuất từ cái hình dáng đen kịt
kia.
Hãy tự nguyện đến với ta.
Lúc đó, cha có vẻ như khẽ chồm về phía hắn, vẫn nắm chặt cánh
tay tôi. Có vẻ như cha cảm nhận được những gì mình không thể nghe thấy. Dracula
co vai, chuyển sức nặng kinh khủng qua bên chân kia. Bóng dáng thân hình hắn
giống như sự hiện diện thực sự của thần chết, vậy mà hắn vẫn sống và đang di
chuyển.
Đừng để ta chờ đợi. Nếu ngươi không đến, ta sẽ tìm đến
ngươi.
Lúc đó, có vẻ như cha gom hết tất cả sức lực của mình. “Cô
ấy ở đâu?” cha thét lên. “Helen đâu?”
Dáng người kia bật lên, và tôi nhìn thấy răng, xương, mắt
hắn ánh lóe lên giận dữ, bóng tối từ chiếc mũ trùm lại đong đưa trên mặt hắn,
trong cái bàn tay không phải của con người đang nắm chặt lại trong vùng rìa ánh
sáng đèn. Ngay cả trước khi hắn chuyển động, tôi đã có cảm giác khủng khiếp
rằng hắn như một con thú đang thu mình để chuẩn bị ra đòn, chồm tới chúng tôi,
rồi bỗng có tiếng bước chân trên cầu thang tối mờ mờ phía sau hắn và một ánh
chớp do sự chuyển động mà chúng tôi chỉ cảm nhận trong bầu không khí vì không
thể nhìn thấy. Tôi đưa cao ngọn đèn lồng với một tiếng thét nghe như thể vọng
đến từ đâu đó bên ngoài tôi: tôi đã nhìn thấy khuôn mặt Dracula - một gương mặt
không bao giờ có thể quên được - và rồi, kinh ngạc tột độ, tôi nhìn thấy một
dáng người khác, đứng ngay sau lưng hắn. Người thứ hai này dường như vừa đi
xuống cầu thang, một hình dáng đen và lờ mờ như hắn, nhưng vạm vỡ hơn, mang vóc
dáng của một người sống. Người đó di chuyển rất nhanh, cầm một vật gì đó sáng
lóe trong bàn tay đang giương lên. Nhưng Dracula đã cảm nhận được sự hiện diện
của người đó, hắn xoay người vung tay xô bật người kia văng ra. Sức mạnh của
Dracula chắc hẳn vô cùng kinh khủng, bởi bóng dáng mạnh mẽ của con người kia đã
lập tức văng mạnh vào vách tường hầm mộ. Chúng ta nghe một tiếng uỵch câm lặng
và rồi là một tiếng rên. Dracula quay lại, trong một vẻ điên cuồng khủng khiếp,
trước tiên là về phía chúng tôi và sau đó là về con người kia, giờ đang rên rỉ.
Đột nhiên lại có tiếng bước chân trên cầu thang, lần này là
những bước chân nhẹ nhàng, đi cùng là một chùm ánh sáng của ngọn đèn pin cực
mạnh. Dracula bị mất thăng bằng, hắn xoay người quá trễ, một hình ảnh lờ mờ đen
kịt. Người đó giương đèn chớp nhoáng quan sát hiện trường, rồi nâng súng bắn
ngay.
Dracula không di chuyển giống như tôi đã nghĩ một lát trước
đây: lao đến phía trên cỗ quan tài đá về hướng chúng tôi. Thay vì vậy hắn ngã
xuống, trước tiên là ngã vật về phía sau, vì vậy khuôn mặt tái nhợt như tượng
của hắn lại một lần nữa bị phơi bày dù chỉ trong khoảnh khắc, và sau đó là gục
về phía trước, về phía trước, cho đến lúc có một tiếng thịch trên nền đá, một
âm thanh khô khốc như tiếng xương gãy nát. Hắn nằm đó, co giật một lát và sau
cùng bất động hẳn. Rồi thân xác hắn dường như biến thành tro bụi, không còn gì
cả, thậm chí những trang phục cổ xưa kia cũng đang mục rã chung quanh hắn, tan
biến trong ánh sáng chập chờn.
Cha buông tay tôi ra, chạy về hướng chùm ánh sáng đèn, vòng
qua cái đống trên sàn. “Helen,” cha kêu lên - cũng có thể đó là tiếng khóc,
hoặc tiếng thì thầm.
Rồi Barley cũng lao đến, chộp lấy ngọn đèn lồng của cha. Một
người đàn ông to lớn nằm sóng soài trên nền đá, lưỡi dao găm bên cạnh. “Ôi,
Elsie,” một giọng tiếng Anh run rẩy thốt lên. Đầu ông ta rỉ một ít máu đen bầm,
và ngay cả khi tất cả chúng tôi đang kinh hoàng sững sờ nhìn vào, đôi mắt ông
ta vẫn bất động.
Barley vật mình xuống đất bên cạnh hình dáng tả tơi kia. Có
vẻ như anh đang bị sự ngạc nhiên lẫn nỗi khổ đau bóp nghẹt. “Thầy James phải
không?”

