Tôi là Êri - Phần II - Chương 11 - 12 - 13
Gặp lại bạn cũ
Cảm giác sung sướng vì được tự do của tôi không kéo dài được bao lâu vì tôi
sớm phải đối mặt với thực tế phũ phàng: không có nhà, không có tiền, anh chị có
cũng như không bởi chẳng thể nương tựa vào ai được, còn Chin-ya, người chồng Nhật
của tôi cũng đã chuyển nhà mới, tôi không thể liên lạc được. Lúc này muốn sống
được, tôi chỉ có thể dựa vào bản thân mình. Tôi bắt đầu tìm việc làm, tìm chỗ ở
để sống sót qua ngày đã.
Tôi đi xin việc tại một quán bar Nhật Bản ở khu Sukhumvit phải thuê nhà
theo ngày, mỗi ngày năm mươi bạt. Đó là khu nhà trọ dành cho nữ, xây thành từng
dãy gần khu vực trường đại học Nông nghiệp. Căn phòng khá cũ lại vừa nhỏ vừa chặt,
nhà vệ sinh dùng chung… Nhưng tôi nghĩ như thế này vẫn còn tốt hơn là ngủ chen
chúc nhau trong tù. Để có tiền mua đồ ăn, trả tiền xe, tiền thuê phòng… Tôi phải
cố gắng mời rượu được nhiều khách hoặc khéo léo moi tiền bo của họ.
Làm ở quán bar này chưa lâu, tôi đã may mắn gặp được một người khách Nhật Bản
đang làm việc tại Thái Lan. Tôi và anh nói chuyện rất hợp. Rồi anh rủ tôi đến ở
khách sạn cùng anh. Tôi không phải đi làm ở quán bar nữa, chỉ có ở nhà nấu cơm
cho anh, cuộc sống thật thoải mái sung sướng. Một hôm, tôi đi mua sắm một mình,
hôm đó tôi đựng đồ mới mua trong những chiếc túi trong suốt. Lúc ngồi chờ xe
bus tôi có cảm giác như có người đang theo dõi mình nhưng không quay lại. Tôi
lên xe bus, bỗng có người phụ nữ lại gần và kêu “Trời ơi! Chị… suýt chút nữa
thì…”. Tôi quay lại: “Ơ kìa! Đi đâu thế?”. Chị ta trả lời: “Đi theo chị đấy!”.
Hóa ra bọn họ theo dõi tôi định móc túi nhưng tình cờ nhận ra tôi là người ngày
trước từng viết đơn xin khoan hồng cho họ. Hai người này chính là hai chị em có
con nhỏ mà tôi đã kể ở phần trước. Lúc chia tay, họ còn dặn tôi phải giữ túi tiền
thật cẩn thận, thoát khỏi họ rồi vẫn có thể bị người khác móc túi lần nữa. Sau
đó, cả hai người xuống ở bến xe bus tiếp theo, họ thú nhận sẽ đến phiên Tawanna
móc túi.
Tôi mừng vì họ không lấy đồ của tôi nhưng tôi cũng buồn vì họ sẽ lấy trộm của
người khác. Điều khiến tôi đau lòng nhất là việc đi tù trước đây dường như
không làm cho hai chị em họ thay đổi. Dù đã được học nghề trong tù nhưng khi được
tự do họ vẫn quay về nghề cũ. Nhưng suy cho cùng, tôi cũng như họ mà thôi, cũng
vẫn là quay lại nghề cũ.
Một lần khác, khi đang chọn mua đồ trong siêu thị, tình cờ tôi nhìn thấy một
người phụ nữ mặc váy bầu đang lén giấu đồ vào người. Cô ta quay lại, giật mình
vì bị tôi phát hiện. Nhưng đúng lúc đó chúng tôi nhận ra nhau. Cô ta phân trần:
“Biết sao được… Tao chẳng biết phải làm gì khác cả…”. Tôi không tố cáo cô ta
nhưng cũng không muốn dây với cô ta nên vội vã ra về.
Đến lúc này tôi mới biết, nhà tù chưa từng làm cho các bạn tù của tôi sợ
hãi. Họ vào tù rồi lại vào tù không biết chán. Có lẽ nhà tù chỉ khiến họ tinh
khôn hơn, lọc lõi hơn trong khi phạm tội mà thôi.
Cạch rồi Singapore
Một thời gian sau, khi những người đàn ông kia không còn cần tôi nữa, tôi lại
phải quay về nghề bán dâm. Tôi đi tìm người chuyên “xuất khẩu lao động” thực chất
là dẫn gái đi bán dâm ở nước ngoài. Tôi chọn đi làm việc tại Singapore với điều
kiện phải tiếp tám mươi lượt khách trả cho ông chủ. Lúc đó tôi nghĩ “Chơi
luôn!”. Vẫn còn tốt hơn là đi Hồng Kông, phải trả nợ một trăm năm mươi lượt
khách, cộng thêm tôi nghĩ chắc ở Singapore sẽ tốt hơn bởi đất nước này vừa sạch
vừa đẹp và tôi còn tin rằng nếu bị vào tù thì tù ở đó chắc cũng tốt.
Tôi ngồi tàu hỏa từ ga Hualamphong đến Hai Yai (thành phố phía nam
Thái Lan, giáp Malaysia). Sau đó ngồi xe khách tới Malaysia rồi thêm một lượt
xe nữa để tới Singapore. Mất một ngày đêm đi từ Bangkok đến Singapore.
Ông chủ ra đón tôi, nhìn về ngoài ông ta có vẻ là một người tốt. ông ta nói
tiếng Thái khá tốt, theo lời ông ta thì cách thức làm việc ở đây như ở Hồng
Kông, mỗi lượt khách hai mươi phút, nhưng khác Hồng Kông ở điểm tại Hồng Kông
chúng tôi phải phục vụ khách tận nơi nên không được làm việc ở chỗ cố định. Còn
ở Singapore chúng tôi không phải đi đâu cả.
Ngày đầu tiên, ông chủ dẫn tôi đến con đường Geylang, lúc đầu vì không nói
trước nên tôi không biết đây là địa điểm làm việc của mình. Càng đi vào sâu,
tôi càng ngạc nhiên bởi có đến hàng trăm gã người Ấn đang xúm lại xem cái gì
đó. Mất một lúc chúng tôi mới thoát ra khỏi đám đông xúm xít đó. Lúc đó tôi mới
biết những người đó đang xúm vào xem gái bán dâm.
Tôi hỏi ông chủ: “Tôi phải làm việc ở đây à? Phải phục vụ bọn người này
sao?”. Ông ta trả lời: “Phải”. Tôi kêu lên: “Không được đâu. Tôi không làm việc
với bọn người này đâu. Tôi chỉ làm việc với khách Trung Quốc và khách Tây
thôi”. Ông ta liền bảo: “Không phải sợ. Bọn người Hồi giáo cô vừa gặp không có
tiền chơi gái đâu, bọn nó chỉ đứng xem thế thôi”. Rồi ông ta giải thích những
người đến đây hưởng lạc phần lớn là người Trung Quốc, Malaysia và Singapore,
còn bọn người Hồi giáo này chỉ đến đứng xem vào hai ngày thứ sáu, thứ bảy thôi
chứ không có tiền chơi gái đâu. Tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên “Thế thì bọn họ đứng
xem để làm gì cơ chứ”.
Những người phụ nữ Thái Lan đứng ở khu vực đó kể cho tôi nghe bọn người Hồi
giáo đó tuần nào cũng đến xúm vào xem nhưng chẳng đứa nào đủ tiền chơi gái. Thế
nhưng nhóm người Hồi giáo này cũng có giúp đỡ chúng tôi khi ngầm báo người này,
người kia là cảnh sát CID. Nhiều tên còn làm nhiệm vụ đứng cản đường cho chúng
tôi chạy trốn.
Hàng ngày tôi phải ra đứng đón khách ở khu vực đó giống như những người
khác và ngày nào cũng đều phải trông chừng chạy trốn cảnh sát. Có ngày phải chạy
trốn đến cả chục lần, chưa bao giờ được làm việc một cách yên ổn cả. Tôi có
visa lưu trú tại Singapore mười bốn ngày. Sau năm ngày, tôi đã trả gần hết nợ
cho ông chủ rồi, chỉ còn lại chưa đến ba mươi lượt khách nữa thôi. Sau đó, kiếm
được bao nhiêu cũng sẽ là tiền của mình. Tôi bắt đầu có một chút hy vọng, trả hết
nợ, tôi sẽ gửi tiền về cho mẹ. Ý nghĩ đó khiến tôi thực sự cảm thấy vui hơn.
Đúng lúc đó, tình cờ có một người Singapore gốc Hoa mách tôi, nếu đi đến khấn lạy
tượng Phật Bà Quan Âm lớn nhất ở Singapore thì mọi điều cầu nguyện sẽ thành hiện
thực, ước gì được nấy. Ngày lập tức, tôi hỏi người đàn ông ấy xem chùa Phật Bà
Quan Âm ở đâu, đường đi thế nào. Sau khi nhận được câu trả lời, sáng sớm ngày
hôm sau, tôi đi lễ tại chùa Quan Âm ngay. Chùa Quan Âm nơi đây thật là đẹp,
đúng như lời tán thưởng mà người ta dành cho nó. Tôi bắt đầu cầu nguyện, xin
cho tôi may mắn, nhanh trả hết nợ để trở về nhà, gặp lại Phổn, người con trai
mà tôi thầm yêu trước khi đi Singapore vì tôi luôn rất nhớ Phổn, hy vọng cậu ấy
sẽ đáp lại nỗi nhớ nhung của tôi. Sau khi cầu nguyện xong, tôi gọi điện thoại
cho Phổn nói tôi thầm yêu cậu ấy đã lâu. Thật ngạc nhiên, Phổn vừa nghe đến đó
đã vội thú nhận cậu ấy đang rất nhớ tôi, rất muốn tôi nhanh chóng trở về. Tôi
vô cùng hạnh phúc khi nghe Phổn thổ lộ. Ôi… tôi chỉ muốn trở về Thái Lan ngay
hôm đó. Tôi bảo Phổn một tuần nữa tôi sẽ về.
Đi lễ xong, tôi vội về tắm rửa, thay quần áo để đi làm. Khi tôi và khách ở
trong phòng chưa đầy năm phút thì có người gõ cửa.
Tôi đã ra mở cửa mà không hề nghi ngờ gì vì đoán là chủ khách sạn gõ cửa để
báo gì đó. Nhưng khi mở cửa ra thì mới biết đó là cảnh sát CID! Lúc đó tôi
không biết phải làm gì, không biết phải chạy trốn đi đâu. Sau đó, cảnh sát áp
giải tôi đến chỗ tập trung những người bị bắt, khi đó có khoảng năm, sáu người.
Tôi thấy nhóm cảnh sát đang túi bụi với việc bắt giữ trật tự nên chuẩn bị tư thế
chạy trốn, chắc mẩm sẽ thoát không ngờ lại bị một nữ cảnh sát kéo tôi lại, tát
vào mặt tôi liên tục không hề kiêng nể. Tôi vừa đau vừa hận, bọn chúng không giống
cảnh sát Nhật Bản và Hồng Kông chút nào, cảnh sát hai nước đó chưa từng dùng bạo
lực với chúng tôi.
Lúc đó tôi nghĩ đến Phật Bà Quan Âm và những lời cầu nguyện, sao mà có thể
linh thiêng đến thế chứ, đúng là cầu gì được nấy, vừa cầu nguyện buổi sáng, buổi
tối đã linh ứng ngay. Ai cũng nói đến Singapore mà không tới chùa Quan Âm thì
coi như chưa đến. Phần tôi đã đến đó rồi, đã cúi lạy Phật Bà Quan Âm, vậy là
tôi đã đến Singapore. Thôi thì cũng đã đến lúc về nhà được rồi.
Cảnh sát giam chúng tôi ở tầng hầm của một tòa nhà. Ở đó có nhiều người ngoại
quốc, cả trai lẫn gái, đến cả nhà sư Thái Lan mặc áo cà sa vàng cũng bị giam tại
đó. Sau đó, tôi biết được vị sư đó nhập cảnh bất hợp pháp nên cũng bị cảnh sát
bắt. Họ giam tách riêng nam nữ. Hôm bị bắt, tôi chỉ mặc bộ váy quây màu trắng.
Cảnh sát không cho tôi mang theo bất cứ đồ gì, do vậy tôi cứ phải mặc nó trong
suốt mười ngày bị giam mà không hề được tắm hay thay bộ khác, lúc về Thái cũng
mặc bộ váy đó luôn.
Bị bắt giam cùng tôi có khoảng hai mươi người phụ nữ Thái Lan, còn lại là
người Trung Quốc, Bangladesh, Nigeria và nhiều quốc tịch khác nữa. Trong phòng
không có chăn, không có gối, không có giường nằm gì cả, nhà vệ sinh không có cửa.
Phòng còn bật điều hòa rất lạnh, tất cả cứ như tra tấn vậy. Điện bật sáng ngày
đêm nên chúng tôi không phân biệt được thời gian. Đến khi được đưa ra ngoài,
chúng tôi đều như người bị hỏng mắt, phải mất một lúc cho mắt điều chỉnh mới có
thể đi tiếp được. Mỗi ngày chúng tôi được ăn hai bữa, một bữa vào lúc chín, mười
giờ sáng sẽ có trà và một miếng bánh mỳ cứng, ăn được hay không, no hay chưa no
bọn họ không hề quan tâm. Bữa ăn thứ hai là vào khoảng bốn, năm giờ chiều, đồ
ăn gồm cơm và một món ăn kèm, món ăn nhiều gia vị và khó ăn.
Cảnh sát gọi chúng tôi đi hỏi cung để làm hồ sơ, ai đã từng bị trục xuất
trước đó sẽ bị họ cắt trụi tóc, trông không khác gì một con chuột nhắt. Trước
khi nghe người ta đồn bị bắt lần thứ hai ở Singapore sẽ bị cảnh sát cắt cụt
tóc, tôi đã không tin. Nhưng ngày hôm đó, tận mắt chứng kiến, tôi mới hiểu tất
cả đều là sự thật, đến mức rất nhiều người chửi thề: “Đừng để tao phải nhìn thấy
bản mặt mày trên đất nước tao”.
Cảnh sát trông coi chúng tôi có lẽ không phải người Singapore. Có người còn
nói bọn họ được thuê từ Malaysia hay Ấn Độ gì đó. Bọn họ đều rất thích thể hiện
quyền lực, giễu võ dương oai, cả nam và nữ. Khi bọn họ hỏi cung chúng tôi, nếu
trả lời chậm trễ chúng tôi sẽ bị bạt tai ngay lập tức. Bọn chúng cư xử như thể
chúng tôi không phải người. Cái gì đưa cho chúng tôi không vừa tầm tay thì
chúng dùng chân đá đến. Tôi từng thấy có một người đàn ông bị giam quá tức giận
mới chống lại liền bị chúng quy lại đánh hội đồng.
Tôi bị giam khoảng mười ngày thì được chuyển về Thái Lan. Lúc đó, vé máy
bay và hộ chiếu của tôi đều ở chỗ ông chủ nên bọn chúng bắt tôi làm hộ chiếu mới
rồi áp giải chúng tôi đi đường bộ đến biên giới Malaysia sau đó thả ở cửa khẩu
Sadao phía Thái Lan. Tôi lang thang ở Hat Yai vì không có tiền mua vé tàu về
Bangkok. Sau đó những người đi cùng góp lại cho tôi vay vừa khít tiền vé tàu.
Tôi làm thân với một nhóm nam thanh niên trên tàu. Khi đã nói chuyện thân mật rồi,
tôi mặt dày hỏi xin họ một trăm bạt để mua vé xe bus về nhà. Bạn có tin không
khi tất cả bọn họ đều vô cùng tốt bụng, thể hiện sự yêu thương đùm bọc giữa những
người Thái với nhau bằng cách… không ai cho tôi đồng nào cả! Bọn họ còn nói với
nhau bằng tiếng Isan[1] đại khái rằng đừng cho tiền người phụ nữ
này vì cô ta là gái bán dâm ở nước ngoài mới bị dẫn độ về nước. Lúc đó tôi nghe
hiểu và cảm thấy rất xấu hổ. Tôi phải trốn sang ngồi ở toa tàu khác. Khi tàu đến
ga cuối Hualamphong, tôi không biết phải lấy tiền ở đâu để mua vé xe bus về nhà
nên quyết định mặt dày một lần nữa đi xin tiền người đứng chờ ở bến xe bus. Một
người đàn ông cho tôi hai mươi bạt kèm theo cái nhìn lạ lùng. Ánh mắt ấy ám ảnh
tôi cho đến tận bây giờ khiên tôi không còn dám xin tiền ai nữa.
[1] Một thứ tiếng địa phương của Thái.
Lần đi làm tại Singapore tôi chẳng thu được gì, lại còn bị giam vào tù và
chịu đủ cảnh cơ cực. Tất cả khiến tôi ghê sợ Singapore và không dám nghĩ sẽ
quay trở lại nơi đó lần nào nữa vì tôi không muốn bị cắt cụt tóc nếu bị bắt lần
thứ hai.
Nhưng rất nhiều người Thái khác không biết sợ là gì, bị cắt cụt rồi vẫn cố
tìm đường để đi lần nữa. Còn tôi thì “Sợ quá rồi!”.
Đời xuống dốc phải vay tiền của
sư
Bị Phổn, người chồng đầu gối tay ấp suốt mười năm bỏ lại cùng một con chó,
tôi có cảm giác mình cũng chẳng khác gì một con chó. Mỗi khi Phổn lấy cớ về
thăm mẹ để vui thú cùng tình nhân tôi chỉ biết đau lòng, cơm nước chẳng muốn
ăn, đêm đêm uống thuốc an thần mới chợp mắt được. Thời gian đó, tôi luôn trong
tình trạng rất tồi tệ, chẳng dám ra ngoài bởi mọi người ở trong mọi người ở Mae
Klong đều biết chồng tôi đã đi theo người phụ nữ khác.
Tôi bắt đầu uống thuốc ngủ nhiều hơn, giống như hồi tôi ở Nhật Bản, tình trạng
rất tồi tệ, uống đến mức bị ảo giác, trong đầu tưởng tượng ra đủ mọi thứ. Một
buổi sáng, tôi mơ hồ thấy như có người đang hiếp mình liền vùng dậy, chạy ra khỏi
phòng ngủ trèo lên bờ tường trước nhà, trên người mặc độc một cái quần lót.
Nghĩ lại vẫn không hiểu tại sao lúc đó tôi có thể trèo lên được rồi gọi cảnh
sát 191 đến giúp tôi xuống. Khi tỉnh lại, tôi xấu hổ với hàng xóm đến mức không
dám ra khỏi nhà. Có người kể chuyện đó cho bố mẹ Phổn nghe, khiến cho bố mẹ Phổn
càng ủng hộ Phổn chia tay với tôi.
Nhưng thế vẫn còn chưa đủ... trong khi bên cạnh tôi đã không còn ai, đến cả
người bạn tôi từng thân thiết nhiều năm cũng xô xát với tôi đến mức cùng bị đưa
đến đồn công an. Hồi đó tôi giống như bị ma nhập vậy, nhiều người còn cho là
đáng đời tôi. Không một ai cưu mang giúp đỡ tôi trong lúc hoạn nạn. Chỉ có gia
đình chú Pổ hiểu, cưu mang và cố gắng giúp đỡ tôi. Họ rất tốt khi không hùa
theo người khác tẩy chay tôi.
Trước đây, khi còn sống chung với Phổn, tôi cố gắng buôn bán kiếm tiền, làm
đủ mọi việc không chút hề nà vì lúc đó tôi nghĩ rằng cuộc đời này, tôi chỉ muốn
ở bên Phổn mà thôi, tôi không muốn trở lại làm nghề cũ nữa. Bạn bè tôi hoài
nghi: “Làm gì có chuyện, không lâu sau cũng sẽ quay lại làm thôi”. Khi đó, tôi
đã cãi hết hơi: “Không đúng. Tôi bỏ nghề gần mười năm rồi và chắc chắn sẽ không
quay lại nghề cũ nữa, vì tôi đã có một gia đình đầm ấm, có người yêu thương
chăm sóc tôi”.
Tôi và Phổn ngồi xe lang thang đi bán hàng ở nhiều nơi. Đến Hua Hin tôi bất
ngờ gặp lại Mốt. Cả hai ngơ ngác nhìn nhau rồi Mốt hỏi: “Usumi đến bán hàng ở
đây hả?”. Chúng tôi nói chuyện về thằng Kô, chị To, Kích, cô Wan và nhiều người
khác nữa.
Mốt nói giờ cô làm trong một khách sạn bốn sao. Rồi từ đó Mốt đến giúp tôi
bán hàng vào mỗi thứ bảy, chủ nhật. Chúng tôi ngày càng thân nhau hơn, Mốt cũng
đã thay đổi rất nhiều, không còn giống như khi ở trong tù, luôn đối nghịch với
tôi nữa.
Tôi đã buôn bán và làm rất nhiều nghề nhưng đều thất bại.
Rồi Phổn ngoại tình và người phụ nữ đó có thai. Vậy là tất cả kết thúc, tôi
bất lực nói không nên lời, chấp nhận để họ về ở với nhau vì tôi thấy thương đứa
bé, đứa bé nên được sinh ra trong một gia đình hoàn thiện.
Nhưng trong khi Phổn khăng khăng xác nhận cô ta có thai thì tất cả những
người tôi hỏi lại nói chưa từng thấy cô ta mang bầu. Nó khiến tôi suy nghĩ mãi,
không biết cuối cùng Phổn bỏ tôi vì lý do gì?
Tôi sống tại Mae Klong cùng một con chó vốn quen sung sướng. Nhưng tôi chưa
từng nghĩ sẽ bỏ nó hoặc cho người khác nuôi nó ngay cả khi đến cơm tôi cũng chẳng
còn tiền mua.
Đôi lúc tôi nhìn thấy Phổn lái xe hoặc đi bộ một mình. Tôi cố gắng đi đến
nói chuyện để xin tiền mua cơm. Nhưng cậu ta lại ngoảnh đi khi nhìn thấy tôi,
đôi khi lái xe chạy trốn, không cho tôi có cơ hội đến gần. Cậu ta quá tàn nhẫn,
giống như người ta vẫn thường nói, vợ chồng sau khi chia tay rồi chỉ là hai người
xa lạ hoặc thậm chí một số người còn là kẻ thù của nhau nữa.
Lúc đó, tôi không biết phải làm gì với cuộc đời mình nữa. Tôi ngồi thẫn thờ
quan sát căn phòng thuê, bỗng thấy cái giỏ treo trước bàn thờ Phật. Trong giỏ
có tờ một trăm bạt đã được khắc dấu bùa, gấp lại rất nhỏ. Tôi liền lấy đồng tiền
đó ra, gấp mặt có khắc bùa vào bên trong rồi cầm đi mua cơm vì sẽ là vô cùng xấu
hổ nếu họ biết tôi khốn cùng đến mức phải lấy tiền cúng để tiêu.
Một trăm bạt đó giúp tôi sống được hai, ba ngày. Tôi cố gắng chi tiêu tiết
kiệm nhất có thể, thức ăn mua về phải chia một nửa cho con chó mà trước đây mỗi
ngày tôi phải mất đến năm mươi bạt mua thức ăn cho nó. Nhưng đến hôm nay, hai
mươi bạt thức ăn chia đều cho chó và người. Đôi khi, tôi còn phải đến ăn nhờ hủ
tiếu ở quán của một người bạn tên Big.
Big chưa từng lấy tiền ăn của tôi dù chỉ một lần, đã thế còn gói cho tôi một
ít mang về cho chó nữa. Tôi vừa đau, vừa hận, vừa ngại với mọi người ở khu Mae
Klong. Về đến phòng, tôi nằm nghĩ rất nhiều, chỉ muốn tự tử cho xong, nhiều lần
định thắt cổ chết nhưng bị chủ nhà phát hiện, họ nói với tôi: “Chị Nỉnh, em biết
chị đang cùng quẫn, nhưng chị đừng có thắt cổ tự tử trong phòng trọ nhà em nhé,
không thì sẽ chẳng có ai dám đến thuê trọ nữa đâu”.
Tôi định quay về với mẹ ở Bangkok nhưng chợt nhớ mẹ cũng còn phải ở nhờ nhà
bác dâu. Nghĩ đi nghĩ lại vẫn thấy cuộc đời chẳng còn sự lựa chọn nào cho tôi cả.
Rồi ngày ấy cũng đến, ngày mà tôi phải mặt dày đến vay tiền của một vị sư ở
chùa Chula Mani hay còn gọi là chùa Luang Pho Nuang. Vị sư này chẳng phải thân
thích họ hàng gì của tôi cả nhưng thầy đã gặp tôi và Phổn đến chùa lễ Phật. Tôi
thưa chuyện với thầy: “Hiện giờ con đang ở trong tình trạng rất tồi tệ vì bị chồng
bỏ, tiền bạc cũng không còn lấy một xu. Thầy có thể cho con vay năm nghìn bạt
được không ạ?”. Sư thầy đồng ý cho tôi vay mà không hỏi gì thêm. Tôi vô cùng xấu
hổ khi phải vay tiền của sư thầy nhưng biết làm sao được, tôi không còn sự lựa
chọn nào khác cả.
Sau đó, tôi về ở Bangkok, đến xin ở nhờ nhà anh trai cùng chị dâu. Một lần
nữa, tôi phải bắt đầu lại từ con số không.
Khi lâm vào tình cảnh tồi tệ, tôi tin rằng vô số người sẽ chịu làm mọi việc
cho dù phải mất đi danh dự cửa bản thân để có thể sống sót qua ngày. Tôi đã trải
qua tất cả những hoàn cảnh đó, tôi cố gắng làm tất cả để mọi thứ không phải
quay trở lại làm gái bán dâm như cũ. Do đó, tôi chịu đựng mệt mỏi, kiên nhẫn và
chịu xấu hổ để bản thân và một con chó, người bạn đồng cam cộng khổ với tôi
trong suốt gần mười năm qua, thoát khỏi sự đói nghèo.
Nhưng cuối cùng tôi cũng không thể chống lại số phận được mãi, tôi phải
quay về với nghề bán thân, cái nghề mà những người “trong ngành” đã nói “Không
ai có thể thoát khỏi nó được”. Nhưng dù thế nào, tôi vẫn luôn tự nhủ với bản
thân, chắc chắn sẽ có một ngày tôi sẽ thoát được lời nguyền này.