Đôn Kihôtê (Tập 1) - Chương 40 phần 2
Vừa nói, anh
vừa khóc lóc thảm thiết, tỏ ra rất ăn năn hối hận khiến chúng tôi đều nhất trí
là có thể nói rõ sự thật được, và chúng tôi đã kể hết sự tình không giấu giếm
gì. Chúng tôi chỉ cho anh ta cái cửa sổ ở đó đã xuất hiện cây sào; anh ta quan
sát kỹ ngôi nhà và hứa sẽ đặc biệt chú ý điều tra xem chủ nhân của nó là ai.
Chúng tôi cũng nhất trí là phải trả lời ngay lá thư của cô gái Môrô vì sẵn có
người làm việc đó. Tôi bèn đọc cho anh ta viết, và bây giờ, tôi xin nhắc lại
nguyên văn để các ngài nghe. Xin thưa là tôi vẫn nhớ như in tất cả những sự
việc quan trọng đã xảy ra trong toàn bộ câu chuyện này và chừng nào còn sống,
tôi sẽ không bao giờ quên. Thư trả lời cô gái Môrô viết như sau:
"Thưa cô,
thánh Ala
chân chính và Đức Mẹ Mariên phúc đức phù hộ cho cô. Đức Mẹ Mariên chính là Mẹ
của Chúa và chính Người đã làm cho cô hiểu ra rằng cô cần phải sang sống trên
đất của những người Kitô giáo vì Người rất yêu quý cô. Hãy cầu Người chỉ bảo
cho cách nào để thực hiện được lệnh của Người; Người rất tốt và sẽ giúp cho. Về
phần tôi và những người bạn Kitô giáo của tôi, chúng tôi sẵn sàng làm hết sức
mình để giúp cô, dù có phải chết. Hãy viết thư báo cho tôi biết ý đồ của cô,
tôi sẽ trả lời. Thánh Ala vĩ đại đã cho chúng tôi một người tù
Kitô giáo nói và viết rất thạo tiếng của dân tộc cô như cô thấy trong thư này.
Cô không phải lo ngại chi, có điều gì xin cứ cho chúng tôi biết. Trong thư
trước, cô có nói rằng một khi đặt chân lên đất Kitô giáo, cô sẽ làm vợ tôi. Là
một giáo đồ Kitô ngoan đạo, tôi xin hứa nhận lời. Cô cũng biết rằng những người
Kitô giáo thực hiện lời hứa đúng hơn người Môrô. Thánh Ala và
Mẹ của Người là Mariên phù hộ cho cô".
Thư viết xong
được dán kín. Theo thường lệ, hai ngày sau ngục giam mới vắng người; chờ cho
tới ngày đó, tôi ra sân như mọi lần để xem có thấy cây sào không; quả nhiên,
chỉ một lát sau nó xuất hiện. Tuy không nhìn thấy mặt người cầm sào, tôi giơ
bức thư lên có ý bảo ở trên đó giắt thêm một sợi dây vào cây sào; nhìn lại thấy
sào đã có dây, tôi liền buộc lá thư vào. Lát sau lại thấy xuất hiện cây sào -
ngôi sao chiếu mệnh của chúng tôi - cùng chiếc khăn tay màu trắng nom như lá cờ
hòa bình vậy. Cây sào hạ thấp xuống vừa tầm tay tôi; trong chiếc khăn tay thấy
có cả tiền vàng lẫn tiền bạc, tổng cộng là năm mươi đồng; nỗi mừng vui của
chúng tôi cũng tăng lên năm mươi lần, và hy vọng được trở lại tự do càng thêm
vững chắc. Tối hôm đó, Người chối Chúa trở về nói với chúng tôi rằng chủ nhân
ngôi nhà đó là một người Môrô tên là Ahi Môratô, đúng như chúng tôi đã điều tra
được trước đây; ông này giàu nứt đố đổ vách và chỉ có một người con gái kế thừa
tất cả gia sản đó; dư luận chung trong tỉnh đều cho cô ta là người đàn bà đẹp
nhất miền Berbêria; có nhiều vị phó vương tới ngỏ ý muốn được kết duyên nhưng
cô ta không muốn lấy chồng. Anh còn cho biết rằng trong nhà có nuôi một người
tù gái theo đạo Kitô và người này đã chết rồi. Tóm lại, tất cả những điều anh
ta nói đều ăn khớp với bức thư của cô gái.
Sau đó, chúng
tôi bàn bạc với Người chối Chúa xem nên làm cách nào đưa được cô gái Môrô ra
khỏi nhà để rồi sau đó cả bọn kéo về đất Kitô giáo. Cuối cùng, chúng tôi thỏa
thuận với nhau là phải nghe thêm ý kiến của Dôraiđa (đó là tên thật của cô gái,
còn Maria là tên mà cô ta tự đặt cho mình) vì chúng tôi nghĩ rằng chỉ có cô ta
mới có thể tìm ra phương kế giải quyết những khó khăn. Sau khi đã quyết định
như vậy, Người chối Chúa lại khuyên chúng tôi không nên nản chí và còn hứa sẽ
giải thoát cho chúng tôi nếu không sẽ chết. Trong bốn ngày liền, nhà tù luôn
luôn có người, cho nên cây sào không xuất hiện; ngày hôm sau, khi nhà tù đã trở
lại vắng vẻ như thường lệ, cây sào lại hiện ra cùng với một gói to hứa hẹn một
món tiền lớn. Cây sào hạ xuống chỗ tôi đứng, tôi cầm lấy cái gói mở ra thấy bên
trong có một lá thư cùng một trăm đồng vàng chẵn. Nhân có Người chối Chúa ở đó,
chúng tôi kéo nhau về buồng rồi đưa cho anh ta đọc hộ. Bức thư viết:
"Thưa
ông, tôi không biết làm cách nào để chúng ta về được Tây Ban Nha; Lêla Mariên
cũng không khuyên bảo gì tuy tôi có hỏi. Một việc có thể tiếp tục làm được là
tôi sẽ trao cho ông thật nhiều tiền vàng; ông sẽ dùng tiền đó để tự chuộc mình
và chuộc cho những người bạn của ông. Sau đó, một người sẽ trở về đất Kitô giáo
mua thuyền quay lại đây đón những người còn lại. Các ông sẽ đến tìm tôi tại khu
vườn của cha tôi ở gần cổng Babadôn, bên cạnh bờ biển. Tôi sẽ nghỉ tại đó suốt
mùa hè này cùng với cha tôi và gia nhân đầy tớ. Ban đêm, các ông có thể đem tôi
đi một cách dễ dàng rồi sau đó đưa tôi xuống thuyền. Và phải nhớ rằng ông sẽ là
chồng tôi, nếu không tôi sẽ cầu nguyện Mariên trừng phạt. Nếu ông không nhờ cậy
vào ai được thì hãy tự chuộc mình rồi đi sắm thuyền. Tôi tin rằng ông sẽ trở
lại nhanh chóng hơn những người khác vì ông là một nhà quý tộc và theo đạo
Kitô. Hãy thăm dò khu vườn của cha tôi; khi nào ông qua đó, tôi sẽ đưa cho
nhiều tiền. Ala
phù hộ ông".
Đó
là nội dung lá thư thứ hai; xem xong, anh nào cũng muốn mình được chuộc tiền
trước, hứa sẽ đi và trở về thật nhanh; tôi cũng nhận làm việc này. Người chối
Chúa phản đối, nói rằng anh hoàn toàn không đồng ý để cho một người nào trong
bọn tôi được tự do trước những người khác; kinh nghiệm cho thấy rằng những
người được trở lại tự do không thực hiện đúng lời hứa khi còn ở trong tù. Có
nhiều tù nhân thuộc gia đình quyền quý đã dùng cách này; họ chuộc cho một tù
nhân khác rồi phái người này đi Valenxia hay Maiorca để mua thuyền về đón họ.
Trên thực tế, người được đi mua thuyền không bao giờ quay trở lại; vì sợ mất tự
do mới giành được, người ta quên hết mọi bổn phận trên đời. Để chứng minh sự
thật đó, anh ta kể cho chúng tôi nghe về một trường hợp mới xảy ra với một đám
người quý tộc Kitô giáo; thật là một chuyện lạ lùng nhất trong tất cả những
chuyện lạ lùng và đáng kinh ngạc thường xảy ra ở nơi đó. Bởi vậy, theo ý anh
ta, điều có thể làm được và phải làm là bằng món tiền định dùng để chuộc cho
một người trong bọn tôi, anh ta sẽ mua một chiếc thuyền tại Arhêl, nói là để sử
dụng vào việc buôn bán với Têtuan và các tỉnh ven biển. Một khi đã làm chủ
chiếc thuyền, anh ta sẽ có cách đưa tất cả chúng tôi ra khỏi nhà giam và xuống
thuyền. Anh ta bàn tiếp: "Kể ra, nếu cô gái Môrô kia cho chúng ta đủ tiền
để chuộc tất cả bọn, như cô ta đã hứa, các anh có thể đàng hoàng xuống thuyền
giữa ban ngày ban mặt sau khi được thả. Khó khăn lớn nhất đối với chúng ta lúc
này là người Môrô không cho phép một kẻ bội giáo mua loại thuyền nhỏ mà chỉ cho
mua thuyền to để đi chiến đấu; họ sợ người mua thuyền nhỏ - đặc biệt nếu người
đó là người Tây Ban Nha - sẽ dùng nó để trốn về đất Kitô giáo. Tuy nhiên việc
này có thể giải quyết được; tôi sẽ để một người tagarinô 3 đứng chung tên mua
thuyền và hưởng nửa số tiền lời. Nhờ hắn, tôi sẽ là chủ nhân chiếc thuyền, sau
đó thì mọi việc sẽ trôi chảy". Tuy bốn chúng tôi đều nghĩ rằng việc cử
người đi Maiorca mua thuyền như cô gái Môrô đã gợi ý là thượng sách nhưng không
ai dám phản đối e rằng nếu làm trái ý, anh ta sẽ tố giác và việc đó sẽ đe dọa
tính mạng của chúng tôi, nhất là của cô gái Dôraiđa, một người mà chúng tôi có
thể hy sinh cả cuộc đời. Cuối cùng, chúng tôi chỉ còn biết phó thác số phận cho
Chúa và cho anh ta. Lập tức, chúng tôi viết thư cho Dôraiđa nói rằng chúng tôi
sẽ làm tất cả theo ý cô vì ý kiến của cô rất đúng như thể chính Lêla Mariên đã
truyền bảo, rằng cô có toàn quyền quyết định thời gian tiến hành sớm hay muộn;
trong thư, tôi cũng nhắc lại là tôi nhận lấy cô làm vợ. Một hôm khác, đúng vào
ngày nhà tù vắng vẻ, với cây sào và chiếc khăn tay, bằng nhiều lần cô ta lại
trao cho chúng tôi hai ngàn đồng tiền vàng cùng một lá thư trong đó cô báo cho
biết là ngày thứ sáu tới, cô sẽ tới nghỉ tại khu vườn của cha, trước khi đi sẽ
trao thêm tiền cho chúng tôi, nếu chưa đủ thì cứ cho biết, cần bao nhiêu sẽ đưa
vì cha cô nhiều tiền quá không nhớ xuể, vả chăng cô lại là người tay hòm chìa
khóa trong nhà. Chúng tôi đưa cho Người chối Chúa năm trăm đồng tiền vàng để đi
mua thuyền, riêng tôi trích ra tám trăm để tự chuộc mình. Tôi đưa tiền cho một
thương gia người Valenxia khi đó đang ở Arhêl; ông ta thương lượng với vua
Arhêl, hẹn khi nào có tàu ở Valenxia tới mới có tiền nộp; làm như vậy, ông ta
sẽ kiếm được một món lời vì nếu đưa tiền ngay lúc đó, lão vua sẽ suy ra rằng số
tiền chuộc vẫn có sẵn ở Arhêl. Tính nết lão chủ tôi rất đa nghi cho nên không
dại gì đưa tiền ngay cho lão.
Trước ngày ra
nghỉ tại khu vườn một hôm, tức là thứ năm, cô gái Dôraiđa xinh đẹp lại chuyển
cho chúng tôi một ngàn đồng nữa và báo tin hôm sau sẽ đi; cô ta còn căn dặn tôi
phải tìm đến khu vườn ngay sau khi được thả và phải tạo mọi cơ hội để tới đó
thăm thú. Tôi trả lời vắn tắt là sẽ làm đúng như vậy và còn dặn cô hãy đọc
những bài kinh mà người nô lệ gái đã dạy cho để cầu Lêla Mariên phù hộ chúng
tôi. Sau đó, tôi tính đến việc chuộc nốt cho ba người bạn để họ cũng được ra
khỏi nhà tù. Tuy họ là những người tốt, không có gì đáng ngại, nhưng một khi
thấy tôi đã được thả rồi, tiền để chuộc còn dư mà họ vẫn bị cầm tù, có khi họ
đâm bực mình và rồi trong một phút u mê ám chướng họ có thể làm những điều có
hại cho Dôraiđa. Để tránh hết mọi trở ngại có thể xảy ra, tôi quyết định chuộc
cho họ, làm theo cách cũ tức là đưa hết tiền cho thương gia nọ để ông ta đạt
được kết quả tốt trong việc thương lượng; tuyệt nhiên tôi không cho ông ta biết
kế hoạch bí mật của chúng tôi vì điều đó nguy hiểm.
Đó
là nội dung lá thư thứ hai; xem xong, anh nào cũng muốn mình được chuộc tiền
trước, hứa sẽ đi và trở về thật nhanh; tôi cũng nhận làm việc này. Người chối
Chúa phản đối, nói rằng anh hoàn toàn không đồng ý để cho một người nào trong
bọn tôi được tự do trước những người khác; kinh nghiệm cho thấy rằng những
người được trở lại tự do không thực hiện đúng lời hứa khi còn ở trong tù. Có
nhiều tù nhân thuộc gia đình quyền quý đã dùng cách này; họ chuộc cho một tù
nhân khác rồi phái người này đi Valenxia hay Maiorca để mua thuyền về đón họ.
Trên thực tế, người được đi mua thuyền không bao giờ quay trở lại; vì sợ mất tự
do mới giành được, người ta quên hết mọi bổn phận trên đời. Để chứng minh sự
thật đó, anh ta kể cho chúng tôi nghe về một trường hợp mới xảy ra với một đám
người quý tộc Kitô giáo; thật là một chuyện lạ lùng nhất trong tất cả những
chuyện lạ lùng và đáng kinh ngạc thường xảy ra ở nơi đó. Bởi vậy, theo ý anh
ta, điều có thể làm được và phải làm là bằng món tiền định dùng để chuộc cho
một người trong bọn tôi, anh ta sẽ mua một chiếc thuyền tại Arhêl, nói là để sử
dụng vào việc buôn bán với Têtuan và các tỉnh ven biển. Một khi đã làm chủ
chiếc thuyền, anh ta sẽ có cách đưa tất cả chúng tôi ra khỏi nhà giam và xuống
thuyền. Anh ta bàn tiếp: "Kể ra, nếu cô gái Môrô kia cho chúng ta đủ tiền
để chuộc tất cả bọn, như cô ta đã hứa, các anh có thể đàng hoàng xuống thuyền
giữa ban ngày ban mặt sau khi được thả. Khó khăn lớn nhất đối với chúng ta lúc
này là người Môrô không cho phép một kẻ bội giáo mua loại thuyền nhỏ mà chỉ cho
mua thuyền to để đi chiến đấu; họ sợ người mua thuyền nhỏ - đặc biệt nếu người
đó là người Tây Ban Nha - sẽ dùng nó để trốn về đất Kitô giáo. Tuy nhiên việc
này có thể giải quyết được; tôi sẽ để một người tagarinô 3 đứng chung tên mua
thuyền và hưởng nửa số tiền lời. Nhờ hắn, tôi sẽ là chủ nhân chiếc thuyền, sau
đó thì mọi việc sẽ trôi chảy". Tuy bốn chúng tôi đều nghĩ rằng việc cử
người đi Maiorca mua thuyền như cô gái Môrô đã gợi ý là thượng sách nhưng không
ai dám phản đối e rằng nếu làm trái ý, anh ta sẽ tố giác và việc đó sẽ đe dọa
tính mạng của chúng tôi, nhất là của cô gái Dôraiđa, một người mà chúng tôi có
thể hy sinh cả cuộc đời. Cuối cùng, chúng tôi chỉ còn biết phó thác số phận cho
Chúa và cho anh ta. Lập tức, chúng tôi viết thư cho Dôraiđa nói rằng chúng tôi
sẽ làm tất cả theo ý cô vì ý kiến của cô rất đúng như thể chính Lêla Mariên đã
truyền bảo, rằng cô có toàn quyền quyết định thời gian tiến hành sớm hay muộn;
trong thư, tôi cũng nhắc lại là tôi nhận lấy cô làm vợ. Một hôm khác, đúng vào
ngày nhà tù vắng vẻ, với cây sào và chiếc khăn tay, bằng nhiều lần cô ta lại
trao cho chúng tôi hai ngàn đồng tiền vàng cùng một lá thư trong đó cô báo cho
biết là ngày thứ sáu tới, cô sẽ tới nghỉ tại khu vườn của cha, trước khi đi sẽ
trao thêm tiền cho chúng tôi, nếu chưa đủ thì cứ cho biết, cần bao nhiêu sẽ đưa
vì cha cô nhiều tiền quá không nhớ xuể, vả chăng cô lại là người tay hòm chìa
khóa trong nhà. Chúng tôi đưa cho Người chối Chúa năm trăm đồng tiền vàng để đi
mua thuyền, riêng tôi trích ra tám trăm để tự chuộc mình. Tôi đưa tiền cho một
thương gia người Valenxia khi đó đang ở Arhêl; ông ta thương lượng với vua
Arhêl, hẹn khi nào có tàu ở Valenxia tới mới có tiền nộp; làm như vậy, ông ta
sẽ kiếm được một món lời vì nếu đưa tiền ngay lúc đó, lão vua sẽ suy ra rằng số
tiền chuộc vẫn có sẵn ở Arhêl. Tính nết lão chủ tôi rất đa nghi cho nên không
dại gì đưa tiền ngay cho lão.
Trước ngày ra
nghỉ tại khu vườn một hôm, tức là thứ năm, cô gái Dôraiđa xinh đẹp lại chuyển
cho chúng tôi một ngàn đồng nữa và báo tin hôm sau sẽ đi; cô ta còn căn dặn tôi
phải tìm đến khu vườn ngay sau khi được thả và phải tạo mọi cơ hội để tới đó
thăm thú. Tôi trả lời vắn tắt là sẽ làm đúng như vậy và còn dặn cô hãy đọc
những bài kinh mà người nô lệ gái đã dạy cho để cầu Lêla Mariên phù hộ chúng
tôi. Sau đó, tôi tính đến việc chuộc nốt cho ba người bạn để họ cũng được ra
khỏi nhà tù. Tuy họ là những người tốt, không có gì đáng ngại, nhưng một khi
thấy tôi đã được thả rồi, tiền để chuộc còn dư mà họ vẫn bị cầm tù, có khi họ
đâm bực mình và rồi trong một phút u mê ám chướng họ có thể làm những điều có
hại cho Dôraiđa. Để tránh hết mọi trở ngại có thể xảy ra, tôi quyết định chuộc
cho họ, làm theo cách cũ tức là đưa hết tiền cho thương gia nọ để ông ta đạt
được kết quả tốt trong việc thương lượng; tuyệt nhiên tôi không cho ông ta biết
kế hoạch bí mật của chúng tôi vì điều đó nguy hiểm.

