01. Bụi quí
Bụi quí
Tôi không sao nhớ ra được là mình
đã biết câu chuyện anh thợ quét rác thành Pari tên là Giăng Samet như thế nào.
Samet kiếm sống bằng nghề quét dọn những xưởng thủ công trong khu phố anh ở.
Samet sống trong một túp lều ở
ngoại thành. Tất nhiên, có thể tả tỉ mỉ khu ngoại ô song như vậy sẽ đưa độc giả
ra ngoài lề câu chuyện. Thiết tưởng chỉ cần nhắc lại rằng, đến nay, ở những khu
ngoại thành Pari, vẫn còn lại những tường thành cổ bằng đất cũng đủ. Vào khoảng
thời gian xảy ra câu chuyện, những bụi hoa kim ngân và sơn trà vẫn mọc um tùm
trên tường thành và chim chóc làm tổ trong những bụi đó.
Túp lều của anh thợ quét rác nằm
ép sát vào chân tường thành phía bắc, kề bên những ngôi nhà nhỏ bé của các bác
hàng thiếc, các bác thợ giày, những người đi nhặt mẩu thuốc lá và những người
ăn xin.
Nếu như Môpatxăng để ý đến cuộc
sống của những người cư trú trong những túp lều nọ, hẳn ông đã viết thêm được
một số truyện ngắn tuyệt hay. Có khi chúng sẽ làm cho vinh quang vốn đã rực rỡ
của ông thêm nhiều ánh lấp lánh mới.
Đáng tiếc là không một người ngoài
cuộc nào để mắt đến những nơi ấy, trừ lũ mật thám. Mà bọn này cũng chỉ ló mặt
tới đấy trong trường hợp phải đi lùng kiếm đồ vật mất trộm.
Bằng vào biệt hiệu “Gõ kiến” mà
hàng xóm láng giềng đặt cho Samet, ta phải hình dung anh là một người gầy gò,
mũi nhọn và dưới vành mũ bao giờ cũng lủng lẳng một mớ tóc giống như mào chim.
Trước kia, Samet đã từng được sống
những ngày sung sướng. Anh đăng lính trong quân đội của “Tiểu Napôlêông” trong
thời gian chiến tranh ở Mêhicô.
Samet gặp may. Anh bị sốt rét nặng
ở Vera-Krux. Anh lính ốm yếu chưa từng qua một trận đọ súng thật sự nào liền
được gửi về nước. Viên chỉ huy trung đoàn nhân dịp bèn nhờ Samet đưa đứa con
gái lên tám của ông tên là Xuyzan về Pháp.
Viên chỉ huy goá vợ, vì thế đi đâu
ông cũng phải đèo bòng con gái theo. Nhưng lần này ông quyết định tạm xa con và
gửi nó về cho người chị ở Ruăng. Khí hậu ở Mêhicô rất độc đối với trẻ con Âu.
Thêm vào đó, cuộc chiến tranh du kích hỗn độn ở đây chẳng thiếu gì những nguy
hiểm bất ngờ.
Trên đường Samet về Pháp khí nóng
bốc ngùn ngụt trên Đại Tây Dương. Con bé suốt ngày im lặng. Thậm chí nhìn những
con cá bay vọt lên khỏi mặt nước, bóng nhẫy, nó cũng chẳng mỉm cười.
Samet hết sức chăm sóc Xuyzan. Tất
nhiên anh cũng hiểu rằng con bé không chỉ mong được anh chăm sóc mà còn muốn
được âu yếm vuốt ve. Mà anh, tên lính của một trung đoàn thuộc địa, anh có thể
nghĩ ra được cái gì trìu mến kia chứ? Anh có thể mua vui cho nó bằng cách gì
đây? Đánh mạt chược với nó chăng? Hay hát cho nó nghe những bài hát thô tục của
lính tráng.
Nhưng dù sao cũng không thể cứ nín
lặng mãi. Càng ngày anh càng hay bắt gặp cái nhìn băn khoăn của con bé. Cuối
cùng anh đánh liều kể cho nó nghe một cách không có mạch lạc, về cuộc đời mình,
nhớ lại những tình tiết nhỏ nhặt nhất về một vạn chài trên bờ biển Măngsơ, những
bãi cát tơi, những vũng nước khi triều xuống, ngôi nhà thờ nhỏ trong thôn với
quả chuông rạn, chuyện bà mẹ anh chữa cho hàng xóm láng giềng khỏi chứng đau
rát thực quản.
Samet không tìm được chuyện gì
buồn cười trong mẩu ký ức đó để làm vui cho Xuyzan. Nhưng anh ngạc nhiên thấy
con bé nghe một cách háo hức và thậm chí còn bắt anh kể đi kể lại, đòi biết
thêm những tình tiết mới.
Samet nặn óc tìm cho ra những tình
tiết ấy, mãi cho đến khi anh không còn tin được là chúng có thật. Đó không chỉ
là những ký ức, mà chỉ là bóng dáng mờ nhạt của chúng. Chúng tan ra như những
mảng sương mù. Thực vậy, Samet không hề ngờ rằng sẽ có lúc anh phải khôi phục
lại trong trí nhớ quãng thời gian vô ích ấy của đời mình.
Có lần anh mang máng nhớ tới một
bông hồng bằng vàng. Cũng chẳng ra là Samet đã trông thấy bông hồng thô kệch
đánh bằng vàng đã xuống nước móc vào cây thánh giá của Chúa trong nhà một bà
lão dân chài, mà cũng chẳng ra là anh đã nghe câu chuyện về bông hồng đó do
những người láng giềng kể lại.
Không, đúng là anh thậm chí đã
thấy bông hồng đó và còn nhớ nó sáng lấp lánh như thế nào, mặc dù bên ngoài cửa
sổ không có nắng và cơn bão buồn thảm đang gầm gào ngoài eo biển. Càng về sau,
Samet càng nhớ rõ hơn cái ánh lấp lánh ấy: Nó giống như những ngọn lửa nhỏ cháy
sáng dưới một trần nhà thấp.
Mọi người trong thôn đều ngạc
nhiên thấy bà lão dân chài không chịu bán vật quý của mình đi. Bán nó đi bà có
thể thu được cả đống tiền. Chỉ một mình mẹ Samet biết rằng bán bông hồng ấy đi
là có tội, bởi vì đó là quà chúc phúc của người tình bà lão tặng bà, khi bà còn
là một cô gái tươi hơn hớn làm ở nhà máy đóng hộp cá xácđin ở tỉnh Ôđécnơ.
- Trên thế gian này hiếm ai có
được những bông hồng vàng, - mẹ Samet nói – Nhà nào có nó, nhà ấy sẽ được hạnh
phúc. Mà không riêng gì họ, ai đụng tới bông hồng đó, người ấy cũng sẽ được
hạnh phúc.
Thằng bé Samet sốt ruột đợi mãi
ngày bà lão dân chài được hưởng hạnh phúc. Nhưng đến cả bóng dáng của hạnh phúc
cũng chẳng thấy đâu. Ngôi nhà của bà lão run rẩy trước gió và tối tối trong nhà
cũng chẳng có ánh lửa.
Thế rồi Samet bỏ làng ra đi, không
đợi được đến ngày cuộc đời bà lão thay đổi. Mãi một năm sau, một người quen làm
thợ đốt lò trên con tàu chở thư ở Lơ Havrơ mới kể cho anh nghe rằng con trai bà
lão bất thình lình từ Pari trở về, anh chàng họa sĩ đó râu xồm, vui nhộn và có
tính khí kỳ quặc. Từ ngày ấy người ta không còn nhận ra túp lều kia nữa. Nó trở
nên ồn ào và dư dật. Người ta kháo nhau rằng bọn họa sĩ vẽ lăng nhăng cũng kiếm
được ối tiền.
Một hôm, ngồi trên boong tàu,
Samet đang dùng chiếc lược sắt của mình chải mớ tóc rối tung trước gió cho
Xuyzan thì con bé hỏi anh:
- Anh Giăng ơi, rồi cũng có người
cho em một bông hồng vàng chứ?
- Rất có thể, - Samet trả lời. -
Rồi cũng sẽ có một thằng dở hơi nào đó cho em, Xuyzan ạ! Trong đại đội anh có
một chú lính gầy nhom. Thằng cha thật tốt số lạ lùng. Hắn nhặt được trên chiến
trường một chiếc hàm giả gẫy, bằng vàng. Cả đại đội bèn bán đi lấy tiền nhậu.
Chuyện đó xảy ra hồi chiến tranh An Nam. Các chàng pháo thủ say rượu mới lấy
súng cối bắn chơi cho vui, đạn rơi vào miệng núi lửa đã tắt, nổ tung trong đó,
và bị bất ngờ cú này, núi lửa liền thở phì phì và phun lại. Có trời biết tên
cái núi lửa đó là gì. Hình như Kraka-Taka thì phải. Nó phun mới dữ làm sao! Bốn
chục người dân bản xứ đang yên lành lăn cổ ra chết. Chỉ vì một cái hàm giả hỏng
mà ngần ấy người toi mạng, thật quá quẩn! Về sau mới biết ra cái hàm răng ấy là
của chính ông đại tá đơn vị anh đánh rơi. Vụ này rồi sau cũng được dẹp đi – uy
tín của quân đội trên hết mà. Còn bọn anh thì chuyến ấy say bí tỉ.
- Chuyện ấy xảy ra ở đâu hả anh? –
Xuyzan nghi ngờ hỏi.
- Anh đã nói rồi mà, ở tận nước An
Nam,
tận Đông Dương cơ. Ở đấy đại dương bùng bùng lửa cháy, chẳng khác gì dưới địa
ngục, còn những con sứa thì giống như những cái váy viền đăng ten của vũ nữ. Ở
đấy lại còn ẩm ướt nữa chứ, đến nỗi chỉ một đêm thôi, nấm đã mọc lên trong ủng
bọn anh. Anh mà nói dối thì xin cứ treo cổ anh lên.
Trước đó Samet đã nghe nhiều
chuyện bịa đặt của lính tráng, nhưng riêng anh, anh chưa từng bịa chuyện bao
giờ. Không phải anh không biết tưởng tượng, chẳng qua anh chưa bao giờ thấy cần
phải làm như vậy. Còn giờ đây anh coi việc làm vui cho Xuyzan là một bổn phận
thiêng liêng.
Samet đưa Xuyzan đến Ruăng và trao
tận tay cho bác gái nó – một người đàn bà cao lớn, có đôi môi tái nhợt và mím
chặt. Bà ta đeo hạt cườm đen khắp mình trông như một con rắn ở rạp xiếc.
Con bé vừa trông thấy bà bác đã
vội bám chặt lấy Samet và nép vào cái áo ca pốt bạc phếch của anh.
- Không sao! – Samet thì thầm và
khẽ đẩy vào vai Xuyzan. - Bọn lính trơn bọn anh cũng chẳng được lựa chọn cho
mình các ông đại đội trưởng đâu. Chịu khó vậy, Xuzi, cô lính ạ!
Samet bỏ đi. Anh ngoảnh lại mấy
lần nhìn lên những khung cửa sổ của ngôi nhà buồn tẻ, ở đó đến gió cũng chẳng
buồn lay động các bức rèm. Nghe rõ tiếng đồng hồ hối hả trong những quán nhỏ
nằm ở các phố hẹp. Trong túi dết Samet còn giữ lại kỷ niệm của Xuyzan: một cái
nơ buộc tóc đã nhàu nát màu xanh. Có trời mới biết vì sao cái băng đó lại thơm
dịu đến thế, như thể nó được cất giữ trong một giành hoa tím.
Bệnh sốt rét Mêhicô đã hủy hoại
sức khoẻ của Samet. Anh chưa được thăng chức đội thì đã bị thải hồi, trở về
cuộc sống dân thường với hàm binh nhì.
Năm tháng qua đi trong cảnh thiếu
thốn đơn điệu. Samet nếm trải hết nghề cực nhọc này đến nghề khốn khổ khác và
cuối cùng anh trở thành người hót rác thành Pari. Từ đó, mùi bụi bặm và rác
rưởi lúc nào cũng ám vào anh. Anh cảm thấy nó cả trong cơn gió thoảng từ phía
sông Xen luồn vào trong phố, cả trong những bó hoa ướt át mà các bà lão ăn vận
sạch sẽ đứng bán trên các đại lộ.
Ngày lại ngày quyện lấy nhau trong
một màu vàng đục. Nhưng đôi khi trong cái màu vàng đục ấy, Samet lại thấy dấy
lên trong lòng mình một áng mây hồng: Đó là bộ áo dài cũ của Xuyzan. Từ tấm áo
ấy phảng phất hương xuân tươi mát như thể người ta cũng cất nó trong giành hoa
tím.
Xuyzan giờ ở đâu? Em sống ra sao?
Samet biết ngày nay Xuyzan đã là một cô gái trưởng thành, còn cha nàng thì đã
bị tử thương.
Đã nhiều lần Samet định đi Ruăng
thăm Xuyzan. Nhưng anh cứ lần lữa mãi cho đến lúc chợt hiểu rằng mình đã bỏ lỡ
thời gian và chắc chắn Xuyzan đã quên hẳn anh rồi.
Anh tự mắng mình là đồ bị thịt,
khi nhớ đến cuộc chia tay với Xuyzan. Đáng lẽ phải hôn cô bé thì anh lại ấn vào
lưng nó, đẩy nó tới chỗ con quạ già nọ và bảo: “Chịu khó vậy, Xuzi, cô lính ạ!”
Ai cũng biết những người thợ hốt
rác chỉ làm việc ban đêm. Có hai nguyên nhân buộc họ phải làm vào thời gian đó:
Vì rác rưởi do con người thải ra tích tụ nhiều nhất vào cuối ngày và thứ hai,
những người thợ hót rác không được phép xúc phạm tới thị giác và khướu giác của
người dân đất kinh kỳ. Ban đêm hầu như không có ai ngửi hoặc trông thấy việc
làm của họ, trừ lũ chuột cống.
Samet đã quen với công việc về đêm
và còn thích thú cái khoảng thời gian ấy là khác. Nhất là lúc ánh bình minh uể
oải bắt đầu chọc thủng bóng tối trên thành phố. Sương mù vương vất trên sông
Xen, nhưng sương không bao giờ bay lên quá thành cầu.
Một hôm, cũng vào một buổi bình
minh mờ mịt hơi sương như thế, Samet đi trên cầu Phế Binh bắc ngang sông Xen và
gặp một thiếu phụ mặc áo dài màu tím nhạt, đính đăng ten đen. Thiếu phụ đứng
trên thành cầu và nhìn xuống dòng sông.
Samet dừng lại, cất bỏ chiếc mũ
bụi bặm và nói:
- Thưa tiểu thư, nước sông Xen lúc
này lạnh lắm. Tiểu thư nên để tôi đưa về nhà thì hơn
- Giờ đây tôi cũng chẳng có nhà.
Thiếu phụ trả lời rất nhanh và
quay về phía Samet.
Samet để rơi chiếc mũ.
- Xuzi! – Anh kêu lên bằng một
giọng tuyệt vọng và sung sướng đến cực độ, - Cô lính Xuzi! Cô bé của anh! Thế
là cuối cùng anh cũng đã gặp em. Chắc là em quên anh rồi. Anh là Giăng Ecnet
Samet đây, cái anh binh nhì ở Trung đoàn Thuộc địa số Hai Mươi Bảy đã đưa em về
cho mụ bác gái tởm lợm ở Ruăng đây. Em bây giờ xinh quá đi thôi! Tóc em chải
mới khéo nữa chứ! Còn anh, cái thằng lính quèn này thì chẳng biết xoay xở với
mái tóc em thế nào.
- Giăng! - Thiếu phụ kêu lên, đâm
bổ tới ôm lấy cổ anh và khóc, - Giăng, anh vẫn tốt như xưa. Em còn nhớ hết mà!
- Ồ, rõ vớ vẩn! – Samet lầu bầu
trong miệng. – Lòng tốt của anh thì lợi lộc gì cho ai. Có chuyện gì đã xảy ra
với em vậy, em gái bé nhỏ của anh?
Samet kéo Xuyzan lại gần mình và
làm cái việc anh không dám làm trước kia ở Ruăng: Vuốt ve và hôn lên mái tóc
óng ả của nàng. Rồi anh vội lánh ra, sợ Xuyzan ngửi thấy mùi chuột cống trên áo
ngoài của anh. Nhưng Xuyzan lại càng nép chặt vào vai anh hơn
- Có chuyện gì vậy, em bé nhỏ của
anh? – Samet bối rối nhắc lại.
Xuyzan không trả lời. Nàng không
nén được tiếng nức nở. Samet hiểu rằng lúc này chưa nên hỏi nàng chuyện gì hết.
- Anh có một cái hang chỗ tường
thành. – Samet vội vã nói. – Hơi xa đây một chút. Tất nhiên ở nhà chẳng có gì
hết, nhẵn như chùi. Nhưng được cái có thể hâm nước cho nóng và nằm ngủ trên
giường. Ở đó em có thể tắm táp và nghỉ ngơi. Và nói chung em muốn ở bao lâu tùy
thích.
Xuyzan ở nhà Samet năm ngày. Năm
ngày ấy, một mặt trời kỳ lạ cất lên trên thành Pari. Hết thảy mọi ngôi nhà, kể
cả những nhà cũ kỹ nhất, ám khói, tất cả những khu vườn, thậm chí cả cái hang
của Samet nữa đều rực rỡ trong những tia sáng của vừng thái dương ấy, như là
những báu vật.
Ai chưa từng được xúc động với hơi
thở nhè nhẹ của thiếu nữ trong giấc ngủ, người đó chưa thể hiểu thế nào là dịu
dàng. Môi nàng tươi hơn cả những cánh hoa ẩm ướt và đôi hàng mi nàng lấp lánh
những giọt lệ đêm.
Phải, những gì đã xảy ra với
Xuyzan quả đúng như Samet dự đoán. Người tình của nàng - một diễn viên trẻ - đã
phụ nàng. Nhưng năm ngày Xuyzan sống bên Samet đã đủ để cặp tình nhân làm lành
với nhau.
Samet tham dự vào việc hoà giải
đó. Anh phải mang thư của Xuyzan lại cho anh chàng diễn viên và đã dạy cho gã
điển trai đáng ngán nọ một bài học về phép lịch sự khi gã định dúi vào tay anh
vài xu tiền thưởng.
Sau đó ít lâu, anh chàng diễn viên
đáp xe ngựa đến tìm Xuyzan. Và đâu lại vào đó: Một bó hoa, những cái hôn, tiếng
cười qua nước mắt, lời xin lỗi và dáng vô tư ngượng ngập.
Khi đôi bạn trẻ lên đường, Xuyzan
vội vã nhảy lên xe, nàng quên cả từ biệt Samet. Liền đó nàng sực nhớ ra, đỏ mặt
và ngượng ngùng đưa tay cho anh.
- Em đã chọn lấy cuộc sống theo ý
em, anh chỉ còn biết chúc em hạnh phúc. - Cuối cùng Samet mới lầu bầu nói.
- Em chưa biết rồi sẽ ra sao? –
Xuyzan trả lời và mắt nàng ngấn lệ.
- Em băn khoăn như vậy thực là vô
ích, em bé nhỏ của anh ạ! – Anh chàng diễn viên trẻ dài giọng và nhắc lại. – Em
bé xinh đẹp của anh.
- Giá có ai đó tặng cho em một
bông hồng vàng! – Xuyzan thở dài. – Cái đó chắc chắn sẽ mang lại cho em hạnh
phúc. Em vẫn nhớ câu chuyện anh kể trên tàu, anh Giăng ạ!
- Biết đâu đấy! – Samet trả lời. –
Nhưng dù sao thì người sẽ mang bông hồng vàng đến cho em cũng chẳng phải là cái
anh chàng quý phái này đâu. Em tha lỗi cho anh, anh là một thằng lính, anh
không ưa bọn công tử bột.
Hai người trẻ tuổi đưa mắt cho
nhau. Gã diễn viên nhún vai. Chiếc xe chuyển bánh.
Thường thường cứ hết ngày là Samet
đổ đi tất cả những rác rưởi mà anh quét dọn ở các xưởng thủ công. Nhưng sau lần
gặp Xuyzan, anh không đổ bụi ở những hiệu kim hoàn đi nữa. Anh giấu diếm đổ
chúng vào một cái túi và mang về lều mình. Hàng xóm cho rằng anh chàng hót rác
nọ đã trở thành ngớ ngẩn. Hiếm người biết rằng trong bụi đó có chứa bột vàng,
bởi vì những người thợ kim hoàn khi làm việc thế nào cũng làm hao đi chút xíu
kim loại quý đó.
Samet quyết định sẽ sàng bụi lấy
vàng, đúc thành một thoi nhỏ và dùng nó đánh một bông hồng vàng mang lại hạnh
phúc cho Xuyzan. Mà rất có thể, như mẹ anh đã nói, nó còn mang lại hạnh phúc
cho nhiều người khác nữa. Biết đâu đấy! Anh quyết không gặp lại Xuyzan khi bông
hồng chưa được làm xong.
Samet không kể cho ai nghe chuyện
đó. Anh sợ bọn cảnh sát và nhà cầm quyền. Ai mà biết được bọn quan toà nhiễu sự
sẽ giở trò gì. Chúng có thể buộc anh vào tội ăn cắp, tống anh vào tù và lấy mất
số vàng anh có. Dù sao vàng cũng chẳng phải của anh.
Trước khi đăng lính, Samet là cố
nông trong trang trại của một ông mục sư nông thôn và vì thế anh biết sàng sẩy.
Những hiểu biết đó đối với anh bây giờ hoá ra lại có ích. Anh nhớ rằng khi quạt
lúa mì thì những hạt nặng sẽ rơi xuống đất, còn bụi thì bị gió cuốn đi.
Samet làm một cái quạt gió nho nhỏ
và đêm đêm, ở sân nhà, anh quạt bụi lấy được trong các hiệu kim hoàn. Anh hồi
hộp mại cho đến lúc trông thấy lờ mờ một lớp bụi vàng lấp lánh trên ngăn gỗ.
Đến lúc có đủ bụi vàng để đánh
thành thỏi thì đã mất nhiều thời gian lắm. Nhưng Samet chưa đưa cho người thợ
kim hoàn đánh bông hồng vội.
Không phải Samet thiếu tiền thuê
thợ. Bất cứ người thợ kim hoàn nào cũng bằng lòng đánh bông hồng để lấy tiền
công bằng một phần ba thỏi vàng và như thế họ cũng đã hài lòng lắm rồi.
Duyên do không phải vì thế. Càng
ngày, giờ gặp gỡ Xuyzan càng gần. Nhưng không biết từ lúc nào, Samet bắt đầu sợ
cái giờ ấy.
Tất cả sự trìu mến từ lâu dồn nén
trong đáy lòng, Samet muốn dành cho nàng, cho Xuzi. Nhưng ai cần đến cái trìu
mến của con người tàn tã và dị dạng này chứ! Samet từ lâu đã nhận thấy rằng,
gặp anh, người ta chỉ muốn bỏ đi cho nhanh và quên phứt cái bộ mặt hốc hác xám
ngoét với làn da chảy xệ và đôi mắt chòng chọc của anh.
Trong túp lều của Samet có một
mảnh gương vỡ. Hoa. hoằn lắm Samet mới soi gương. Nhưng hễ cứ nhìn vào là anh
lại văng một câu chửi tục và quăng vội mảnh gương đi. Thà đừng nhìn thấy mình
còn hơn, cái thân hình gớm ghiếc lê lết trên đôi chân tê thấp khập khiễng.
Cuối cùng, khi đã đánh xong bông
hồng, Samet mới biết Xuyzan đã rời Pari đi Mỹ từ một năm trước, và theo người
ta nói, nàng đi hẳn, không về nữa. Không ai có thể cho Samet biết địa chỉ của
nàng.
Thoạt đầu, Samet thậm chí còn thấy
nhẹ hẳn người. Nhưng rồi tất cả sự chờ đợi cuộc gặp gỡ đầm ấm và thanh thản với
Xuyzan, không hiểu sao, đã biến thành một mảnh sắt gỉ. Mảnh sắt nhọn ấy mắc
trong lồng ngực anh, ngay ở bên tim và Samet cầu trời cho nó mau mau đâm thẳng
vào trái tim ốm yếu ấy đi, cho tim anh vĩnh viễn ngừng đập.
Samet bỏ việc quét dọn trong các
xưởng kim hoàn. Anh nằm trong túp lều của mình mấy ngày liền, quay mặt vào
tường. Anh im lặng và chỉ mỉm cười một lần, đưa cánh tay áo cũ lên mắt. Không
ai nhìn thấy anh khóc. Hàng xóm láng giềng cũng chẳng có ai sang thăm anh.
Người nào cũng đã có chán vạn cái lo âu bận bịu của mình.
Chỉ có một người theo dõi Samet.
Đó là người thợ bạc đứng tuổi đã đánh từ thỏi vàng ra một bông hồng rất tinh
xảo. Cùng trên một cành, bên cạnh bông hoa, người thợ bạc đánh thêm một nụ hồng
bé nhỏ và nhọn hoắt.
Người thợ bạc đến thăm Samet nhưng
không đem thuốc đến cho anh. Ông ta cho rằng có mang cũng vô ích.
Thực thế, Samet đã lặng lẽ qua đời
trong một lần đến thăm của người thợ bạc. Ông ta nâng đầu anh thợ quét rác lên,
lấy ở dưới cái gối xám ra bông hồng vàng bọc trong chiếc nơ nhàu nát màu xanh,
khẽ khép cái cánh cửa cọt kẹt lại, rồi thong thả đi ra. Từ chiếc nơ xông lên
mùi chuột.
Lúc đó vào cuối thu. Màn đêm rung
động vì gió và vì những đốm lửa nhấp nháy. Người thợ bạc nhớ đến nét đổi thay
trên mặt Samet sau khi anh chết. Bộ mặt trở nên nghiêm nghị và trầm tĩnh. Người
thợ bạc thấy niềm cay đắng hiện trên mặt anh còn tuyệt đẹp nữa là khác.
“Cuộc sống không cho người ta cái
gì thì cái chết lại đem cho người ta”. Người thợ bạc vốn quen với những ý nghĩ
rẻ tiền nghĩ như vậy và thở dài.
Ít lâu sau, người thợ bạc đem bông
hồng vàng nọ bán cho một nhà văn đã có tuổi ăn mặc lôi thôi lốc thốc, và theo
nhận xét của bác thợ, nhà văn này cũng chẳng giàu có gì cho lắm để có thể cho
phép mình mua một vật đắt tiền đến thế.
Hẳn câu chuyện về bông hồng vàng
do người thợ bạc kể lại cho nhà văn đã đóng vai trò quyết định trong việc mua
bán nọ. Nhờ những ghi chép của nhà văn già mà mới có người biết được câu chuyện
đau buồn trong đời người cựu binh Trung đoàn Thuộc địa thứ Hai Mươi Bảy là
Giăng Samet.
Trong những ghi chép của ông, nhà
văn đại khái có viết:
“Mỗi phút, mỗi lời tình cờ được
nói ra và mỗi cái nhìn vô tình ta bắt gặp, mỗi ý nghĩ sâu sắc hoặc vui đùa, mỗi
rung động thầm lặng của con tim, cũng như cả đến một bông xốp của hoa hướng
dương đang bay hay lửa sao trong một vũng nước đêm - tất cả những cái đó đều là
những hạt rất nhỏ của bụi vàng.
Chúng ta, những nhà văn, chúng ta
bòn đãi chúng trong hàng chục năm, hàng triệu những hạt cát đó, lặng lẽ thu góp
lại cho mình, biến chúng thành một hợp kim rồi từ hợp kim đó ta đánh “Bông Hồng
Vàng” của ta - truyện, tiểu thuyết hay là thơ.
Bông hồng vàng của Samet! Đối với
tôi có phần nào là hình tượng tương lai của hoạt động sáng tạo của chúng tạ
Thật là lạ lùng khi chẳng có ai chịu bỏ sức lao động của mình ra nghiên cứu xem
từ những hạt bụi quý ấy đã phát sinh ra nguồn văn học sinh động như thế nào.
Nhưng cũng giống như bông hồng
vàng của người thợ hót rác già kia làm ra là để cho Xuyzan được hạnh phúc, sáng
tác của chúng ta là để cho cái đẹp của trái đất, cho lời kêu gọi đấu tranh vì
hạnh phúc, vì niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn và sức mạnh của
trí tuệ chiến thắng bóng tối cho chúng ta rực rỡ như một mặt trời không bao giờ
tắt.”