11. Tuyết
Tuyết
Tachiana Petrovna dọn đến nhà cụ
Potapov được một tháng thì cụ mất. Nàng ở lại một mình với đứa con gái nhỏ là
Varia và người vú già.
Ngôi nhà nhỏ, chỉ có ba gian, ở
trên một ngọn đồi trông xuống con sông phía Bắc ngay đầu tỉnh lị. Sau nhà, bên
kia khu vườn đã trụi lá là một rừng bạch dương phi màu trắng bạc. ở đó, từ sáng
đến tối, lũ quạ kêu quàng quạc, bay thành từng đám mây đen trên những ngọn cây
trần trụi báo hiệu trời xấu.
Từ khi rời Moskva, Tachiana mãi
vẫn không sao quen được cái tỉnh lị đìu hiu với những ngôi nhà nhỏ bé, những
cánh cửa hàng rào kêu ken két, những buổi tối vắng lặng, nghe rõ cả tiếng ngọn
đèn dầu ho nổ lép bép.
"Mình ngốc quá! - Nàng nghĩ -
Không dưng đi bỏ Moskva, nhà hát và bè bạn! Đáng lẽ phải đưa Varia đến với bà
vú ở Puskino, nơi đó chưa bị máy bay bắn phá lần nào, còn mình thì cứ việc ở
lại Moskva. Trời, mình thật ngốc!".
Nhưng không thể trở lại Moskva nữa
rồi, Tachiana quyết định sẽ biểu diễn trong các trạm quân y - trong thị xã này
có vài trạm - và nàng cảm thấy yên tâm. Nàng còn thấy thích cái tỉnh lỵ ấy nữa
là khác, nhất là khi đông về và tuyết xuống phủ đầy. Ngày lại ngày, êm dịu và
xám ngắt. Sông mãi chưa đóng băng, mặt nước màu xanh lá cây bốc khói.
Tachiana quen dần với tỉnh lị và
cả với ngôi nhà không phải của mình. Nàng đã quen chiếc dương cầm lạc giọng,
những tấm ảnh úa vàng trên tường chụp những thiết giáp hạm cổ lỗ bao vệ bờ
biển. Trước kia, cụ Potapov làm thợ máy tàu biển. Trên cái bàn giấy phủ dạ xanh
của cụ có đặt mô hình tuần dương hạm "Grômôbôi", trên tàu đó cụ đã
làm việc, Varia không được phép sờ mó vào mô hình ấy. Và nói chung, không được
sờ mó vào bất cứ vật gì.
Tachiana biết cụ Potapov có con
trai đang phục vụ ở trong hạm đội "Hắc Hi". Trên bàn, bên cạnh mô
hình tuần dương hạm, có bức ảnh của anh. Đôi lúc, Tachiana cầm bức ảnh lên ngắm
nghía rồi nhíu đôi lông mày thanh thanh lại, nghĩ ngợi. Nàng cứ có cảm giác là
đã gặp anh ở một nơi nào đó, nhưng đã lâu lắm rồi, trước cả cuộc hôn nhân không
toại nguyện của nàng. Nhưng ở đâu? Và khi nào nhỉ?
Anh lính thuỷ nhìn nàng bằng đôi
mắt bình thản hơi có vẻ chế nhạo, như muốn hỏi: "Thế nào chị? Chẳng lẽ chị
vẫn chưa nhớ ra là chúng ta đã gặp nhau ở đâu hay sao?"
- Không, tôi không nhớ - nàng trả
lời khe khẽ.
- Mẹ ơi, mẹ nói chuyện với ai thế?
- Varia từ phòng bên hỏi to.
- Với cái dương cầm con ạ -
Tachiana mỉm cười đáp lại.
Vào giữa mùa đông bắt đầu có những
lá thư do cùng một bàn tay viết gửi cho cụ Potapov, Tachiana xếp những lá thư
ấy lại trên bàn. Một lần đang đêm nàng chợt thức giấc. ánh tuyết mờ mờ chiếu
vào cửa kính. Con mèo xám Arkhiv của cụ Potapov để lại đang ngáy khò khò trên
đi văng.
Tachiana khoác áo choàng mỏng vào
phòng làm việc của cụ Potapov và đứng một lát bên cửa sổ. Một con chim lặng lẽ
bay vút ra khỏi cây làm tuyết đổ xuống. Tuyết bay như bụi trắng phủ một lớp
mỏng trên mặt kính.
Tachiana thắp ngọn nến trên bàn,
ngồi xuống ghế bành và nhìn mãi ngọn nến. Ngọn nến cũng chả buồn lay động. Sau
đó nàng thận trọng lấy ra một bức thư, bóc phong bì, nhìn chung quanh rồi bắt
đầu đọc:
"Cha yêu quý, thế là con đã
nằm bệnh viện được một tháng, - nàng đọc - Vết thương không nặng lắm. Đại thể
là nó đang lên da non. Xin cha đừng lo lắng và chớ hút hết điếu thuốc này đến
điếu thuốc khác. Con van cha đấy!"
"Con luôn nhớ đến cha, -
Tachiana đọc tiếp - đến ngôi nhà của cha con ta, đến tỉnh lị của chúng ta. Tất
cả những cái đó xa xăm quá, tưởng như ở đâu mãi chân trời. Con nhắm mắt lại và
thấy con mở cửa hàng rào, bước vào vườn. Mùa đông, tuyết xuống, nhưng con đường
nhỏ dẫn tới phong đình bên dốc đã được quét dọn sạch sẽ, còn băng bụi phủ đầy
những khóm tử đinh hương. Lò sưởi trong phòng kêu tí tách. Khói bạch dương
thoang thoảng. Cây dương cầm cuối cùng đã được lên dây lại và cha đã cắm những
cây nến vàng hình xoắn ốc con mua từ Leningrad
vào những chân đèn. Và vẫn những bản nhạc ấy trên chiếc đàn? Bạn tự khúc của vở
nhạc kịch " Con đầm Pích" và tình ca "Trên bờ cõi Tổ quốc xa
xôi." Không biết quả chuông treo ở cửa có kêu không? Thế là con vẫn chưa
kịp chữa. Chả lẽ rồi con sẽ lại được gặp tất cả những cái đó? Chả lẽ rồi con
lại được lấy nước giếng trong bình mà rửa sạch bụi đường xa? Cha nhớ không?
Ôi,nếu cha biết được rằng từ chốn xa xôi này con yêu mến tất cả những cái đó
biết chừng nào? Cha đừng ngạc nhiên, nhưng con nói với cha một cách thật nghiêm
túc rằng con nhớ đến những cái đó trong những phút ác liệt nhất của trận đánh.
Con biết rằng con đang bảo vệ không riêng gì bờ cõi đất nước mà cả cái góc nhỏ
bé và thân yêu ấy trong lòng con: tức là cả cha, cả khu vườn nhà ta, cả những
chú bé tóc bù xù trong làng ta, cả những khu rừng bạch dương bên kia sông và cả
con mèo Arkhiv nữa. Xin cha đừng cười và đừng lắc đầu cha nhé. Có thể khi ra
viện con sẽ được về nhà ít lâu. Điều đó chưa chắc lắm. Tốt hơn là cha đừng
đợi".
Tachiana ngồi mãi bên bàn, mắt mở
to nhìn qua cửa sổ, nơi bình minh bắt đầu hé lên trong màu xanh dày đặc và nghĩ
rằng rồi đây, ngày một ngày hai, một người không quen biết có thể từ mặt trận
trở về ngôi nhà này và người đó sẽ phải đau khổ khi phải gặp những người xa lạ
ở đây và phải trông thấy mọi vật hoàn toàn không giống như ý người đó muốn.
Sáng hôm sau, Tachiana sai Varia
lấy xẻng ra dọn con đường dẫn tới phong đình trên bờ dốc. Cái lầu ấy đã hoàn
toàn cũ nát. Những cột gỗ mốc meo, rêu phủ đầy. Tachiana tự tay chữa lấy quả
chuông con treo trên cửa. Trên chuông có một hàng chữ đúc đến buồn cười
"Ta treo trên cửa - hãy giật cho vui!" Tachiana đụng vào chuông, nó
kêu lên lanh lảnh. Con mèo Arkhiv khó chịu, ve vẩy đôi tai, rồi bực dọc đi ra
khỏi nhà; có lẽ nó cho tiếng chuông vui vẻ kia là càn rỡ.
Trưa hôm đó, Tachiana, má ửng
hồng, cười nói ầm ĩ, mắt quầng thâm vì xúc động, từ ngoài phố về dắt theo một
ông lão lên dây đàn, một người Tiệp dã Nga hoá. Ông làm nghề chữa đèn cồn. đèn
dầu ho, búp bê, ắc-cooc-đê-ông và lên dây đàn dương cầm. Ông lão có cái họ nghe
rất buồn cười: "Neviđan" (của lạ). Sau khi lên dây đàn, ông già nói
rằng chiếc đàn cũ nhưng rất tốt. Không cần ông nói Tachiana cũng biết.
Khi ông lão đã ra về, Tachiana cần
thận lục khắp các ngăn kéo bàn và tìm thấy một gói nến to hình xoắn ốc. Nàng
cắm vào các chân nến đặt trên dương cầm. Tối đến, nàng thắp nến, ngồi chơi đàn,
và tiếng nhạc tràn ngập ngôi nhà.
Khi Tachianan ngừng chơi và tắt
nến đi thì một làn khói thơm tỏa ra khắp các phòng như quanh cây thông ngày
hội.
Varia không chịu được nữa.
- Sao mẹ lại đụng vào đồ vật của
người khác? - Nó hỏi Tachiana - Mẹ cấm con, còn mẹ thì lại đụng vào đủ mọi thứ?
Nào chuông, nào nến, nào đàn. Mẹ lại còn đặt những bản nhạc của người ta lên
trên dương cầm nữa.
- Vì mẹ là người lớn, - Tachiana
trả lời.
Varia chau mày, ngờ vực nhìn mẹ.
Lúc này Tachiana không giống người lớn một chút nào. Mặt nàng tươi hẳn lên và
nom giống cô gái tóc vàng đã đánh rơi chiếc hài pha lê trong hoàng cung. Chính
Tachiana đã kể cho Varia nghe chuyện cô gái ấy.
Ngồi trên tàu hoả, trung uý Nicôlai
Potapov đã tính rằng anh chỉ có thể ở với cha nhiều lắm là một ngày đêm. Hạn
nghỉ phép thì ngắn mà đi đường đã chiếm gần hết thời gian.
Tàu hoả tới thành phố vào ban
ngày. Ngay tại nhà ga, trung uý được người quen làm trưởng ga cho biết cha anh
mất đã một tháng và một nữ ca sĩ trẻ cùng đứa con gái đang ở nhà anh.
- Chị ta người tản cư, - ông
trưởng ga nói.
Nicôlai im lặng nhìn ra ngoài cửa
kính, nơi những hành khách mặc áo bông, đi ủng dạ, tay cầm ấm nước, đang chạy.
Anh thấy chóng mặt.
- Vâng, - trưởng ga nói - Cụ nhà
là người thật tốt bụng. Thế mà cụ chết đi mà không kịp gặp con trai.
- Bao giờ lại có tàu ra, thưa bác?
- Nicôlai hỏi.
- Năm giờ sáng mai, - ông lão nói,
rồi im lặng một lát và nói tiếp - Anh lại đàng tôi chi. Bà lão nhà tôi sẽ pha
trà, làm cơm anh ăn. Anh không phải về nhà nữa đâu.
- Cám ơn bác. - Nicôlai trả lời và
bước ra.
Ông trưởng ga nhìn theo, lắc đầu.
Nicôlai đi qua tỉnh lị về bờ sông.
Phía trên là một bầu trời xanh xám. Tuyết lơ thơ, bay chênh chếch giữa trời và
đất. Mấy con quạ bước đi bước lại trên con đường phân rác bẩn thỉu. Trời sẩm
tối. Gió thổi từ bên kia bờ sông, từ những cánh rừng, làm anh chảy nước mắt.
"Làm sao được! - Nicôlai nói!
- Chậm mất rồi! Và giờ đây cái tỉnh lị này, cả con sông và ngôi nhà - mọi thứ
đối với ta gần như xa lạ!"
Anh ngoảnh nhìn sườn đồi bên kia
thành phố. ở đó hiện ra lờ mờ ngôi nhà trong khu vườn tuyết phủ. Từ ống khói to
ra, khói bị gió cuốn về cánh rừng bạch dương.
Nicôlai thong thả bước về phía nhà
mình. Anh định không vào nhà mà chỉ đi ngang thôi, cũng có thể rẽ vào vườn đứng
một lát trong cái lầu nghỉ chân cũ kĩ. Thật khó chịu khi nghĩ rằng những người
thờ xa lạ đang ở trong ngôi nhà của cha anh. Tốt hơn là chẳng nhìn thấy gì hết
để khỏi phải đau lòng, cứ đi đi và lãng quên dĩ vãng.
"Ồ - Nicôlai nghĩ bụng - con
người mỗi ngày một trưởng thành, và nhìn sự vật chung quanh một cách nghiêm
khắc hơn."
Nicôlai về đến nhà khi trời tối.
Anh nhẹ nhàng mở cửa vào vườn, nhưng nó vẫn kêu ken két. Mnh vườn như giật
mình. Tuyết đọng trên cành rơi xào xạc. Anh nhìn quanh. Trên con đường nhỏ dẫn
tới phong đình, tuyết đã được dọn sạch. Nicôlai vào trong lầu, đặt hai tay lên
cái lan can cũ kĩ. Đằng xa, bên kia rừng, bầu trời hồng lên mờ nhạt: có lẽ
trăng đã lên sau những đám mây. Nicôlai cất mũ, lấy tay vuốt tóc. Chung quanh
yên lặng, chỉ ở dưới chân đồi, mấy người đàn bà xách những chiếc xô rỗng kêu
long xong đi đến lỗ băng lấy nước.
Anh chống cùi tay trên lan can,
nói khẽ:
- Có thể nào lại như thế?
Có ai đó nhè nhẹ chạm vào vai anh.
Nicôlai ngoảnh lại. Đằng sau anh là một thiếu phụ trẻ, có khuôn mặt xanh xao và
nghiêm nghị, đầu trùm khăn len. Thiếu phụ nhìn anh bằng đôi mắt sâu thẳm và
chăm chú. Trên mi mắt và má nàng những bông tuyết tan dần. Có lẽ đó là tuyết
trên cành rơi xuống.
- Anh
đội mũ vào kẻo cảm lạnh đấy! - Thiếu phụ nói khẽ - Mời anh vào nhà đi. Không
nên đứng ở đây.
Nicôlai im lặng. Thiếu phụ nắm lấy
tay áo của anh và dẫn anh theo những con đường nhỏ đã dọn sạch. Đến bên thềm
Nicôlai dừng lại. Xúc động làm anh nghẹn ngào, không sao thở được. Thiếu phụ
vẫn nói khe khẽ:
- Không sao, xin anh đừng ngại vì
chuyện tôi ở đây. Cảm giác đó sẽ qua ngay thôi.
Nàng giậm chân để rũ tuyết bám vào
giày. Tức khắc quả chuông ở phòng mắc áo reo lên lanh lảnh đáp lại. Nicôlai thở
dài thực mạnh, lấy hơi.
Anh bước vào nhà, vẻ bối rối, lẩm
bẩm điều gì. ở phòng ngoài, mới cởi áo choàng anh đã ngửi thấy mùi khói bạch
dương thoang thoảng và nhìn thấy con mèo Arkhiv. Nó ngồi ngáp dài trên đi văng.
Một cô bé tóc bím đứng bên đi văng và nhìn anh bằng cặp mắt sung sướng, nhưng
không phi nhìn mặt anh mà nhìn mấy viền vàng trên tay áo anh.
- Vào đây,
anh! - Tachiana nói và dẫn anh vào bếp.
Trong bếp có bình giếng nước lạnh
và treo một chiếc khăn vải lanh quen thuộc thêu hình những chiếc lá sồi.
Tachiana trở ra. Đứa con gái mang
xà phòng cho Nicôlai và nhìn anh cởi áo, rửa mặt. Nỗi bối rối trong lòng anh
vẫn chưa tan.
- Mẹ cháu là ai vậy? - Anh hỏi đứa
bé và đỏ ửng mặt. Anh hỏi câu đó cho có hỏi mà thôi.
- Mẹ cháu tưởng mẹ cháu là người
lớn. - Con bé thì thầm với một vẻ bí ẩn.- Nhưng mẹ cháu chẳng phi là người lớn
tẹo nào. Mẹ cháu còn xoàng hơn cả cháu nữa cơ.
- Tại sao vậy? - Anh hỏi
Nhưng con bé không trả lời, nói
cười và chạy ra ngoài.
Suốt buổi tối anh không sao xua
đuổi được cảm giác nhẹ nhàng mà sâu lắng. Mọi vật trong nhà xếp đặt đúng theo ý
anh muốn. Vẫn những bản nhạc ấy trên dương cầm, vẫn những cây nến hình xoắn ốc
đang cháy, nổ tí tách và chiếu sáng phòng làm việc của cha anh. Cả những bức
thư anh gửi từ bệnh viện về cũng nằm trên bàn, dưới chiếc địa bàn cũ mà ngày
trước ông cụ vẫn thường dùng chặn lên thư.
Uống trà xong, Tachiana dẫn
Nicôlai ra sau cánh rừng thăm mộ cha anh. Mặt trăng mờ mờ đã lên cao. Những cây
bạch dương tỏa sáng yếu ớt trong ánh trăng ngả bóng nhẹ xuống tuyết.
Đêm đã khuya, Tachiana ngồi trước
dương cầm, nhẹ nhàng lựa phím đàn, rồi ngoảnh lại nhìn Nicôlai và nói:
- Tôi cứ có cảm giác là tôi đã gặp
anh ở đâu rồi.
- Vâng, cũng có lẽ - anh đáp.
Nicôlai nhìn thiếu phụ. ánh nến ở
bên cạnh soi sáng nửa khuôn mặt nàng. Anh đứng dậy đi đi lại lại trong phòng
rồi dừng lại.
- Không, tôi không nhớ ra được! -
Anh nói giọng trầm trầm.
Tachiana ngoảnh lại hốt hong nhìn
Nicôlai nhưng không nói gì hết.
Nàng đã sửa soạn chỗ ngủ cho
Nicôlai trên chiếc đi văng trong phòng làm việc, nhưng anh không sao chợp mắt
được. Mỗi phút trong ngôi nhà này đối với anh thực sự quý báu và anh không muốn
bỏ mất phút nào. Anh nằm lắng nghe bước chân rón rén của con mèo Arkhiv, tiếng
đồng hồ tích tắc, tiếng thì thào của Tachiana với người vú già sau cánh cửa
đóng. Rồi những giọng nói im bặt, người vú già đã đi, những vệt sáng ở dưới
cánh cửa vẫn không tắt. Anh nghe thấy các trang giấy loạt soạt: chắc Tachiana
còn đọc sách. Anh đoán nàng thức cốt để gọi anh dậy cho kịp tàu. Anh muốn nói
với nàng rằng anh cũng không ngủ, nhưng anh không dám gọi.
Bốn giờ sáng, Tachiana khe khẽ mở
cửa và gọi Nicôlai.Anh cựa mình.
- Anh dậy đi thôi, đến giờ rồi,-
nàng nói - Tôi rất tiếc phải đánh thức anh.
Tachiana tiễn anh ra ga khi thành
phố đang yên giấc. Sau hồi chuông thứ hai họ từ giã nhau. Tachiana đưa cả hai
tay cho Nicôlai và nói:
- Anh nhớ viết thư nhé! Giờ đây
chúng ta như người thân. Phải vậy không anh?
Nicôlai không trả lời, anh chỉ gật
đầu.
Mấy hôm sau, Tachiana nhận được
một bức thư của Nicôlai viết ở dọc đường:
"Tôi đã nhớ ra chúng ta gặp
nhau ở đâu - anh viết -nhưng tôi không muốn nói với chị khi còn ở nhà. Chị có
nhớ Krưm năm hăm bảy không? Mùa thu. Những cây tiêu huyền cổ thụ ở công viên
Livađia. Trời u ám, biển nhợt nhạt. Tôi đi theo con đường nhỏ tới Orêanđa. Trên
chiếc ghế dài bên đường có một thiếu nữ đang ngồi. Cô ta chừng 16 tuổi. Trông
thấy tôi, cô ta đứng dậy và đi về phía tôi. Khi chúng tôi đi ngang nhau, tôi
liếc nhìn cô. Cô ta đi qua tôi rất nhanh, nhẹ nhàng, tay cầm một cuốn sách mở
rộng. Tôi dừng lại, nhìn theo cô ta rất lâu. Thiếu nữ đó là chị. Tôi không thể
nhầm được. Tôi nhìn theo chị và cảm thấy rằng người con gái vừa đi qua bên cạnh
tôi, người có thể làm tan vỡ cả đời tôi mà cũng có thể đem lại hạnh phúc cho
tôi. Tôi hiểu rằng mình có thể yêu người con gái ấy đến quên cả thân mình. Lúc
đó tôi đã biết rằng phải tìm được chị dù phi trả bằng giá nào. Tôi nghĩ vậy,
nhưng vẫn đứng lì tại chỗ. Vì sao - tôi chẳng biết. Từ ngày ấy tôi yêu Krưm và
con đường nhỏ, nơi tôi đã gặp chị trong giây lát và mất chị vĩnh viễn. Nhưng
cuộc đời đã thương tôi và tôi lại được gặp chị. Nếu mọi việc ổn thoả và chị cần
đến cuộc đời tôi, thì tất nhiên nó sẽ là của chị. à, tôi đã thấy bức thư của
tôi bị bóc ra để trên bàn. Tôi đã hiểu tất cả và chỉ biết cám ơn chị từ nơi xa
này."
Tachiana đặt lá thư xuống, đôi mắt
mơ màng nhìn qua cửa sổ ra mảnh vườn tuyết phủ, đoạn thốt lên:
- Trời, mình có ở Krưm bao giờ
đâu? Chưa bao giờ! Nhưng lúc này cái đó có gì quan trọng? Và để cho anh ấy
tuyệt vọng làm gì? Và cả mình nữa!
Nàng cười, đưa tay lên che mắt.
Ngoài cửa sổ ánh tà dương mờ nhạt vẫn to sáng, mãi không sao tắt được.