Thiên thần và ác quỷ - Chương 08 - 09
Chương 8
Cùng Kohler ra khỏi cổng hậu tổ hợp chính của CERN đứng ngắm ánh mặt trời Thụy Sĩ ảm đạm, Langdon thấy mình như
được về nhà. Cảnh vật trước mắt anh trông giống như khu nội trú Ivy League ([12]).
Một con dốc phủ đầy cỏ dẫn xuống lối đi rộng phía
dưới, nơi những rặng cây maple
([13]) điểm xuyết bốn góc sân tiếp
giáp với khu nhà ở xây bằng gạch và những lối mòn. Những con người trông có vẻ
uyên bác, tay ôm hàng chồng sách đang nhộn nhịp ra vào toà nhà như góp phần làm
tăng không khí của một trường đại học, hai nhân vật tóc dài ăn mặc kiểu hippy ném đĩa Frisbee ([14]) qua lại cho nhau trong
khi đang thưởng thức bản Giao hưởng số bốn của Mahler phát ra từ cửa sổ khu nội trú.
([12]) Ivy League:
Nhóm 8 trường Đại học danh tiếng của Hoa Kỳ, trong đó có Harvard.
([13]) Maple: Cây thích (biểu tượng của
Canada).
([14]) Frisbee: Một trò chơi ném đĩa phố biến
của trẻ em Mỹ
- Đây là khu nhà ở của chúng tôi, - Kohler giải thích khi ông
ta tăng tốc xe lăn tiến xuống đường mòn về phía toà nhà. - Chúng tôi có trên
3000 nhà vật lý học ở đây. Chỉ riêng CERN đã thu nạp hơn một nửa số nhà vật lí hạt cơ bản trên thế
giới - những bộ óc thông minh nhất - người Đức, người Nhật, người Ý và Hà Lan.
Các nhà vật lí này đại diện cho hơn 500 trường đại học và 60 quốc gia trên thế
giới.
Langdon ngạc nhiên.
- Họ làm thế nào để giao tiếp được với nhau?
- Dĩ nhiên là họ dùng tiếng Anh. Đó là ngôn ngữ toàn
cầu của khoa học.
Langdon luôn nghe thấy người ta nói rằng Toán học mới là ngôn ngữ toàn cầu của khoa
học, nhưng anh quá mệt mỏi nên không muốn tranh luận. Anh ngoan ngoãn đi theo Kohler xuống dưới đường.
Đi được nửa đường, họ gặp một thanh niên chạy bộ qua.
Trên áo phông của anh ta có dòng chữ: KHÔNG GUT, KHÔNG VINH QUANG!
Langdon nhìn anh ta ngạc nhiên:
- Gut
là gì?
- Thuyết thống nhất chung, Kohler châm biếm - Học thuyết về vạn vật.
- Tôi hiểu, - Langdon nói nhưng chẳng chú ý gì cả.
- Ông có biết vật lí hạt cơ bản ([15]) không, ông Langdon?
([15]) Vật lý hạt
(particle physics): Là một ngành của vật lý, nghiên cứu về các hạt sơ cấp chứa
trong vật chất và bức xạ, cùng với những tương tác giữa chúng.
Langdon nhún vai:
- Tôi biết vật lí học đại cương - cơ thể rơi tự do,
đại loại như thế. - Những năm tháng kinh nghiệm của môn nhảy cầu đã làm anh lưu
tâm đặc biệt tới sức mạnh kinh ngạc của gia tốc rơi tự do. - Nghiên cứu vật lí
hạt nguyên tử, đúng thế không?
Kohler lắc đầu:
- Nguyên tử giống như các hành tinh nếu so với những
gì chúng tôi nghiên cứu. Mối quan tâm của chúng tôi là hạt nhân nguyên tử kia - chỉ bằng một phần trăm
kích cỡ của nguyên tử. - Ông ta lại ho, vẻ rất ốm yếu - Tất cả mọi người ở CERN đều đang tìm kiếm
câu trả lời cho những câu hỏi chung mà nhân loại đặt ra từ thuở sơ khai. Chúng
ta xuất hiện từ đâu? Được tạo thành từ vật chất nào?
- Và những câu trả lời này nằm trong phòng thí nghiệm
vật lí?
- Ông có vẻ ngạc nhiên.
- Đúng thế. Những câu hỏi này dường như mang nặng chất
tâm linh.
- Ông Langdon, tất cả những câu hỏi này đã từng liên quan đến lĩnh vực
tâm linh. Ngay từ thuở xa xưa, tâm linh và tôn giáo đã cùng nhau lấp chỗ trống
mà khoa học chưa khám phá nổi. Việc mặt trời mọc và lặn cũng được gán cho thần Helios và
cỗ chiến xa lửa thần kỳ. Động đất và sóng thần là do sự nổi giận của thần Poseidon. Khoa
học ngày nay chứng minh rằng những vị thần này chỉ là hình mẫu giả tưởng. Sắp
tới tất cả những vị thần sẽ được minh chứng là hình mẫu giả tưởng. Khoa học
ngày nay đã giải đáp gần hết mọi câu hỏi của con người. Chỉ còn vài câu hỏi nữa
và chúng là những câu bí truyền. Loài người xuất hiện từ đâu? Chúng ta đang làm
gì ở đây? Ý nghĩa của cuộc sống và vũ trụ là gì?
Langdon ngạc nhiên:
- Và đây là những câu hỏi mà CERN đang cố giải quyết?
- Sửa một chút. Đây là những câu hỏi mà chúng tôi đang
tìm kiếm câu trả lời.
Langdon im lặng khi có hai người đàn ông đi lướt qua sân khu
nhà ở. Langdon và Kohler đang đi thì một
chiếc đĩa bay qua đầu và rơi ngay trước mặt họ. Kohler bỏ qua và đi tiếp.
Một giọng nói cất lên từ trong sân "S il vous plalt!"
([16])
([16]) S il vous
plait (tiếng Pháp): Làm ơn.
Langdon nhìn quanh. Một người đàn ông luống tuổi tóc bạc mặc
chiếc áo thể thao có in chữ College Paris trên
ống tay đang vẫy anh. Langdon
nhặt chiếc đĩa và ném lại cho ông ta một cách thành thạo. Ông già đó giơ
một ngón tay chụp lấy và tung lên vài lần trước khi ném qua vai cho người bạn
cùng chơi.
- Cám ơn! - Ông ta gọi với theo Langdon.
- Xin chúc mừng, - Kohler nói khi thấy anh bắt trúng cái đĩa. -Ông
vừa chơi ném đĩa với một người từng giành giải Nobel, Georges Charpark đấy, người phát minh ra buồng tỉ lệ đa dây (Multi-vice Propotional Chamber).
Langdon gật đầu. Một ngày may mắn.
Phải mất ba phút nữa Langdon và Kohler mới đến đích, đó là một khu nhà lớn, gọn
gàng và sạch sẽ nằm giữa rừng dương. So với những khu khác, toà nhà này có vẻ
sang trọng hơn. Tấm biển khắc đá phía trước đề dòng chữ NHÀ C.
Một cái tên mang đầy tính tưởng tượng, Langdon nghĩ.
Mặc cho cái tên khô khan, toà nhà C thu hút sự chú ý
của Langdon bởi lối
kiến trúc rất bảo thủ và vững chắc, với mặt tiền màu gạch đỏ, hàng lan can
trang trí và hàng rào chạm trổ cân xứng. Khi hai người đàn ông tiến xuống con
đường đá dẫn đến lối vào họ băng qua cánh cổng được tạo bởi hai cột đá cẩm
thạch. Ai đó đã dán một mẩu giấy nhắn trên một trong hai chiếc cột.
ĐÂY LÀ CỘT IONIC ([17])
([17]) Cột Ionic:
cột trụ tròn, thường dùng trang trí ở những nơi quan trọng như đền thờ. Là một
trong ba kiểu cột đỡ theo kiến trúc cổ của người Hy Lạp. Hai kiểu cột kinh điển
kia là Doric và Corinthian.
Dòng chữ nghịch ngợm của các nhà vật lí? Langdon trầm ngâm, mắt dán vào cột
và tự mỉm cười một mình. "Tôi thở phào khi thấy chính những nhà vật lí lỗi
lạc cũng mắc lỗi.
Kohler nhìn sang:
- Ý ông là gì?
- Người viết dòng chữ này mắc một sai lầm. Đó không
phải là cột Ionic.
Các cột Ionic đều
có chiều rộng thống nhất. Cái kia có hình tháp nhọn: Nó được gọi là Doric - một bản sao của
người Hy Lạp, rất nhiều người lầm lẫn kiểu này.
Kohler không buồn mỉm cười.
- Tác giả câu này muốn đùa một chút, ông Langdon ạ. Ionic có nghĩa hàm chứa
i-ôn - các hạt tích điện. Đa số các vật thể đều chứa hạt này.
Langdon nhìn lại cây cột đó và rên lên.
Khi bước ra khỏi thang máy lên tầng trên cùng của toà
nhà C, Langdon cảm
thấy vốn kiến thức của mình thật ít ỏi. Anh theo Kohler đến một dãy hành lang được trang hoàng rất
công phu. Lối trang trí tuyệt vời theo kiểu thuộc địa truyền thống của Pháp -
đi văng màu mận chín, lọ hoa bằng sứ, đồ gỗ chạm trổ.
- Chúng tôi muốn cuộc sống của các nhà khoa học nơi
đây phải thật thoải mái. - Kohler
giải thích.
Rõ rồi, Langdon thầm nghĩ. Anh hỏi.
- Vậy người đàn ông trong tờ fax cũng sống ở đây à? Có phải
là một trong những nhân viên cấp cao của các ông không?
- Gần như vậy! - Kohler nói - Sáng nay ông ta bỏ lỡ một cuộc họp
với tôi và không trả lời máy nhắn tin. Tôi lên đây để tìm và phát hiện ông ta
đã chết trong phòng khách.
Langdon cảm thấy một luồng khí lạnh chạy qua khi biết rằng
mình sắp nhìn thấy một xác chết. Anh chưa bao giờ gặp phải tình huống này. Hồi
còn là sinh viên nghệ thuật, anh đã thấy nôn nao khi nghe giáo viên kể rằng Leonardo Da Vinci có được kinh nghiệm
về giải phẫu cơ thể người là do đi khai quật những xác chết và mổ xẻ các cơ
trên người họ.
Kohler dẫn đường đi tới cuối góc hành lang. Chỉ có một cánh
cửa.
- Nhớ thông tầng, như chính các ông gọi. - Kohler tuyên bố, rồi thấm
nhẹ những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán.
Langdon đưa mắt đọc tấm biển trên cánh cửa gỗ sồi trước mặt.
Trên tấm biển viết:
LEONARDO VETRA
- Leonardo
Vetra, - Kohler nói
- Tuần sau ông ta sẽ tròn năm 58 tuổi, ông ta là một trong những nhà khoa học
lỗi lạc nhất của thời đại này. Cái chết của ông ấy là một mất mát lớn cho khoa
học.
Trong chốc lát, Langdon cảm nhận được sự xúc động trên khuôn mặt
cứng đờ của Kohler.
Nhưng cảm xúc đó ngay lập tức tan biến. Kohler lần túi và lôi ra một chùm chìa khoá to.
Langdon chợt thấy lạ lùng. Toà nhà này dường như rất vắng vẻ.
- Mọi người đâu rồi ? - anh hỏi. Nơi đây vắng bóng các
hoạt động mà anh thường nghĩ đến khi họ sắp bước vào hiện trường một vụ giết
người.
- Những cư dân ở đây đang trong phòng thí nghiệm, - Kohler đáp tay vẫn mải
tìm chìa khoá.
- Ý tôi là cảnh sát kia,
- Langdon nói lại
cho rõ. - Họ đã rời khỏi đây rồi à?
Đang tra dở khoá vào ổ, Kohler lập tức ngừng lại:
- Cảnh sát?
Langdon nhìn thẳng vào mắt vị giám đốc:
- Cảnh sát chứ sao.
- Ông gửi cho tôi một tờ fax về vụ giết người. Hẳn ông đã phải
gọi cảnh sát rồi chứ?
- Không thể được.
- Cái gì?
Đôi mắt màu xám của Kohler quắc lên:
- Tình hình rất phức tạp ông Langdon ạ.
Langdon cảm thấy e ngại;
- Nhưng… thể nào chả có người biết chuyện này rồi!
- Có. Con gái nuôi của Leonardo. Cô ấy cũng là nhà nghiên cứu vật lí của CERN. Hai cha con cô ấy
cùng làm chung trong một phòng thí nghiệm. Họ là đồng nghiệp của nhau. Tuần này
cô Vetra đi nghiên
cứu thực nghiệm. Tôi đã thông báo về cái chết của cha cô ấy và trong khi chúng
ta nói chuyện ở đây, cô ấy đang trên đường trở về.
- Nhưng có một người bị giết…
- Một cuộc điều tra chính thức, sẽ được tiến hành. - Kohler nói, giọng chắc
nịch. - Tất nhiên, chắc chắn người ta sẽ tiến hành khám xét phòng thí nghiệm
của Vetra, nơi hai
cha con họ muốn giữ bí mật. Vì vậy chúng ta phải đợi đến khi cô Vetra trở về. Tôi cho là
cần phải thận trọng một chút.
Kohler xoay chìa khoá.
Cánh cửa mở ra, một luồng khí lạnh từ trong phòng phả
thẳng vào mặt Langdon.
Anh hoang mang lùi lại, nhìn qua ngưỡng cửa của một thế giới xa lạ. Căn hộ
trước mặt anh chìm trong màn sương mù màu trắng dầy đặc. Làn khói màu trắng đục
bao phủ căn phòng và cuộn xoáy xung quanh đồ đạc.
- Cái gì thế này? - Langdon lắp bắp.
- Hệ thống làm lạnh freon, - Kohler đáp. - Tôi phải giữ lạnh căn phòng để bảo
quản xác.
Langdon cài nút áo khoác vải tuýt để đỡ lạnh. Mình lạc vào xứ sở Oz ([18]) anh nghĩ. Lại còn quên không
mang theo đôi dép thần kỳ.
([18]) Trích dẫn
"Phù Thuỷ xứ Oz", khi Dorothy lạc vào xứ Oz cô bé có một đôi dép thần
kỳ.
Chương 9
Xác chết trên sàn nhà trước mặt Langdon trông thật gớm
ghiếc. Leonardo Vetra quá
cố đang nằm ngửa, bị lột trần truồng, da xám xịt. Chỗ xương cổ bị gãy thò ra,
đầu bị vặn ngược hoàn toàn. Mặt úp xuống sàn nhà, không nhìn thấy được. Người
đàn ông này đang nằm trên đống nước tiểu đã đông cứng lại của chính mình, nhúm
lông xung quanh bộ phận sinh dục của ông ta lấm tấm sương giá..
Cố kìm để không nôn oẹ, Langdon đưa mắt nhìn lên ngực nạn nhân. Dù Langdon có nhìn kỹ vết
thương hình đối xứng trên tờ fax hàng
chục lần, thì rõ ràng ở đây vết cháy trên thực tế vẫn tác động mạnh hơn nhiều.
Chỗ thịt cháy sần sùi tạo thành… một biểu tượng hoàn chỉnh.
Langdon băn khoăn không hiểu liệu có phải anh lạnh người đi là
do điều hoà nhiệt độ hay vì sự ngạc nhiên đến tột cùng trước tầm quan trọng của
thứ mà anh được nhìn tận mắt.
Tim anh đập thình thịch khi đi vòng quanh xác chết, đọc ngược, đọc
xuôi, khẳng định lại tính xác thực của hình đối xứng. Biểu tượng này không thể
là giả mạo.
- Ông Langdon?
Langdon không nghe thấy gì. Anh đang ở một thế giới khác… thế
giới của riêng anh, nơi lịch sử, truyền thuyết và sự thật hoà quyện vào nhau,
khiến tim anh tràn ngập cảm xúc. Tất cả như bị cuốn vào một guồng quay.
- Ông Langdon? - Kohler
nhìn anh thăm dò, đầy vẻ hy vọng.
Langdon không ngẩng lên. Anh đang tập trung cao độ:
- Ông biết được gì rồi nào?
- Điều duy nhất tôi đọc được trên trang web của ông là
từ Illuminati có nghĩa
là "những
người khai sáng" -
Đây là tên một hội kín cổ xưa gì đó.
Langdon gật đầu:
- Ông đã nghe nói đến nguyên tử này bao giờ chưa?
- Chưa, cho đến khi tôi nhìn thấy nó được khắc trên
người ông Vetra.
- Vì vậy ông tìm một trang web nói về thứ này?
- Đúng.
- Và kết quả cho ra hàng trăm tài liệu tham khảo, tôi
chắc là như vậy
- Hàng ngàn, - Kohler nói. Trang web của ông chứa những tài liệu
tham khảo từ Harvard, Oxford,
nhiều nhà xuất bản danh tiếng cũng như danh sách các ấn bản liên quan. Là một
nhà khoa học, tôi nhận ra rằng thông tin cũng như nguồn dẫn đều có giá trị. Uy
tín của ông có vẻ rất đáng tin cậy.
Langdon vẫn dán mắt vào xác chết.
Kohler không nói thêm lời nào. Ông ta chỉ nhìn, rõ ràng đang
chờ Langdon đưa ra
đầu mối cho cảnh tượng trước mắt họ.
Langdon ngước mắt lên, nhìn quanh căn hộ lạnh giá.
- Có lẽ là nên thảo luận vấn đề này ở nơi nào ấm hơn?
- Phòng này là được rồi. - Kohler dường như quên đi cái lạnh. - Chúng
ta nói chuyện ở đây.
Langdon nhíu mày. Lịch sử của hội Illuminati không hề đơn giản. Mình sẽ chết cóng
mất nếu giải thích mọi chuyện ở đây. Anh quay lại nhìn dấu sắt nung, lòng trào
lên một nỗi sợ hãi khác.
Mặc dù biểu tượng Illuminati là huyền thoại đời với ngành biểu tượng
học hiện đại, những chưa một học giả nào thực sự nhìn thấy nó. Các tài liệu cổ
xưa gọi biểu tượng này là ambigram,
biểu tượng hai chiều đối xứng – ambi có nghĩa là "hai" - nó đọc được theo hai chiều. Và mặc dù ambigram rất phổ biến -
dấu thập ngoặc, hình âm dương, ngôi sao của người Do thái, dấu nhân chéo đơn giản
- song ý tưởng cho rằng bất cứ chữ nào cũng có thể tạo thành hình biểu tượng
hai chiều đối xứng có vẻ bất khả thi. Các nhà biểu tượng học hiện đại đã mất
nhiều năm nỗ lực để làm giả chữ "Illuminati" với tỉ lệ cân xứng đến hoàn hảo
nhưng đều thất bại. Đa số các học giả cho rằng, sự tồn tại của biểu tượng này
là một huyền thoại.
- Vậy ai là hội viên của Illuminati? - Kohler hỏi.
Vâng, Langdon thầm nghĩ, thực sự họ là ai? Anh bắt đầu câu chuyện.
- Kể từ buổi đầu lịch sử, - Langdon giải thích, - Đã tồn tại mối bất
đồng sâu sắc giữa khoa học và tôn giáo. Những nhà khoa học nổi bật như Copernicus…
- Đã bị giết chết, - Kohler xen ngang. - Bị nhà thờ ra lệnh hành hình
vì dám cả gan tiết lộ những chân lý khoa học. Tôn giáo luôn khủng bố khoa học.
- Đúng. Nhưng vào thế kỷ 16, một nhóm người ở thành Rome đã
chiến đấu chống lại nhà thờ. Một vài trong số những người khai sáng giỏi nhất ở
Ý - các nhà vật lí, toán học, thiên văn học - bắt đầu nhóm họp một cách bí mật
nhằm chia sẻ mối quan tâm của họ đối với những tín điều không chính xác của nhà
thờ. Họ sợ rằng sự độc quyền của nhà thờ về "chân lý" sẽ đe doạ quá
trình khai sáng học thuật trên toàn thế giới. Họ thành lập nhóm cố vấn khoa học
đầu tiên trên thế giới, tự gọi bản than là "Những người khai sáng".
- Hội Illuminati.
- Đúng! - Langdon nói - Những bộ óc vĩ đại nhất ở châu Âu… hiện minh cho
cuộc săn tìm chân lý khoa học.
Kohler im lặng.
- Đương nhiên, những thành viên của Illuminati bị Giáo hội Cơ
đốc săn đuổi một cách tàn bạo. Nhờ có những chiêu thức giữ bí mật tuyệt đối,
các nhà khoa học này mới được an toàn. Những lời truyền đạt của các học giả
được truyền đi một cách bí mật, và hội Illuminati phát triển tới mức thu nạp được nhiều
học giả ở khắp châu Âu. Các nhà khoa học thường xuyên gặp nhau ở một địa điểm
cực kỳ bí mật có tên gọi là Nhà
thờ ánh sáng.
Kohler húng hắng ho, rồi đổi tư thế ngồi.
- Rất nhiều thành viên của Illuminati. - Langdon tiếp tục, - muốn chiến đấu chống lại ách
thống trị của nhà thờ bằng vũ lực, nhưng một thành viên được tôn kính nhất của
hội đã thuyết phục họ không làm như vậy. Ông ta là một người theo phái ôn hoà
và là một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất.
Langdon chắc Kohler biết cái tên đó. Thậm chí cả những người không thuộc giới
khoa học cũng từng nghe nhắc đến nhà thiên văn học có số phận hẩm hiu, người
từng bị nhà thờ bắt giữ và suýt bị hành quyết vì dám cho rằng mặt trời, chứ
không phải trái đất, là trung tâm của Thái Dương hệ. Mặc dù các số liệu mà ông
ta đưa ra không thể chối cãi được, nhà thiên văn học này vẫn bị trừng phạt rất nghiêm
khắc vì ám chỉ rằng Chúa đặt loài người ở đâu đó chứ không phải trung tâm của vũ trụ.
- Tên ông ta là Galileo Galilei, - Langdon nói.
Kohler ngước mắt lên.
- Galileo?
- Đúng, Galileo là người của hội Illuminati. Và cũng là một con chiên Cơ đốc giáo mộ
đạo. Ông đã cố gắng làm giảm nhẹ ảnh hưởng của nhà thờ lên khoa học bằng cách
tuyên bố khoa học không phủ nhận sự hiện diện của Chúa mà chỉ khẳng định lại
những chân lý của Người. Ông viết rằng một lần khi nhìn những hành tinh đang
quay qua kính thiên văn, ông nghe thấy giọng nói của Chúa vang lên trong tiếng
nhạc của các thiên cầu. Ông nói rằng khoa học và tôn giáo không phải là kẻ thù,
mà là đồng minh dùng hai ngôn
ngữ khác nhau để kể cùng một câu chuyện, câu chuyện về sự đối xứng và cân bằng…
về thiên đường và địa ngục, ngày và đêm, nóng và lạnh, Chúa trời và quỷ Sa
tăng. Cả khoa học và tôn giáo đều hãnh diện về sự cân đối của Chúa… cuộc đua
bất tận giữa ánh sáng và bóng tối. - Langdon ngừng lại, giậm chân một lúc cho ấm người.
Kohler ngồi im trên chiếc xe lăn, ánh mắt đăm chiêu.
- Thật không may, - Langdon nói thêm, - Sự thống nhất giữa khoa học và
tôn giáo là điều nhà thờ không hề mong muốn.
- Đương nhiên rồi, - Kohler ngắt lời. - Sự thống nhất này sẽ vô hiệu
hoá những lời quyên bố của nhà thờ cho rằng mình là phương thức duy nhất giúp
con người hiểu được Chúa. Họ gọi Galileo là kẻ dị giáo, nên đã kết tội và quản thúc ông đến hết
đời, tôi biết rất rõ lịch sử khoa học, ông Langdon. Nhưng chuyện này đã xảy ra cách đây hàng
thế kỷ rồi. Nó có liên quan gì đến Leonardo Vetra?
Câu hỏi đáng giá triệu đô. Langdon cắt ngang lời:
- Việc bắt giữ Galileo đã đẩy Illuminati vào bước ngoặt mới. Họ bắt đầu sơ hở,
và nhà thờ phát hiện thêm bốn thành viên khác, tất cả đều bị bắt giữ và điều
tra. Nhưng bốn nhà khoa học này không để lộ điều gì… kể cả khi bị tra tấn.
- Tra tấn?
Langdon gật đầu.
- Họ đều bị khắc trên ngực dấu sắt nung với biểu tượng
cây thánh giá khi còn sống.
Đôi mắt Kohler mở to, ông ta khó nhọc nhìn cơ thể Vetra.
- Sau đó, các nhà khoa học đều bị giết hại dã man, xác
họ bị thả trên đường phố Rome như một lời cảnh báo với những người đang nghĩ
đến việc gia nhập Illuminati.
Do bị nhà thờ truy lùng, những thành viên còn lại của Illuminati đã bỏ chạy khỏi Ý.
Langdon ngừng lại để nhấn mạnh những gì sắp nói. Anh nhìn
thẳng vào đôi mắt cô hồn của Kohler.
- Hội Illuminati chuyển sang hoạt động bí mật và bắt tay với những
nhóm khác vốn vẫn phải trốn chạy khỏi sự thanh trừng của giáo hội Cơ đốc - hội
thần bí, pháp sư, những nhà giả kim thuật, Hồi giáo, Do Thái giáo. Qua nhiều
năm tháng, Illuminati bắt
đầu kết nạp thêm thành viên mới. Một hội Illuminati mới nổi lên. Hội Illuminati đen tối. Một
tổ chức kịch liệt chống lại Thiên Chúa giáo. Hội này ngày càng lớn mạnh, thực
hiện các nghi lễ bí ẩn, những bí mật chết người, thề nguyện một ngày nào đó sẽ
sống dậy và trả thù nhà thờ Cơ đốc giáo. Hội này mạnh tới mức bị nhà thờ coi là
đội quân chống lại giáo hội Thiên Chúa nguy hiểm nhất trên thế giới.
Vatican gọi hội huynh đệ này là quỷ Shaitan.
- Shaitan?
- Một từ của đạo Hồi, nghĩa là "kẻ thù… kẻ thù
của Chúa". Nhà thờ lấy tên này nguyên từ đạo Hồi vì họ cho rằng đây là thứ
ngôn ngữ bẩn thỉu.
- Langdon ngập
ngừng. - Trong tiếng Anh, từ Sa-tăng bắt nguồn từ… Shaitan.
Vẻ khó chịu hiện lên trên khuôn mặt Kohler.
Giọng Langdon dứt khoát. - Ông Kohler, tôi không biết bằng cách nào dấu hiệu này
lại xuất hiện lên ngực người đàn ông này… hoặc tại sao… nhưng ông đang được tận
mắt nhìn thấy biểu tượng thất truyền của một nghi lễ sùng bái Sa-tăng lâu đời
và quyền lực nhất.

