Thiên thần và ác quỷ - Chương 62 - 63
Chương 62
Người hướng dẫn viên vẫn bám theo sát gót khiến Langdon phải hết sức vất
vả mới kiểm tra hết được phần bên phải của cung điện. Anh đang chuẩn bị kiểm
tra nốt hốc tường cuối cùng thì ông già lại bắt đầu thao thao bất tuyệt.
- Anh có vẻ thích mấy cái hốc tường này ghê nhỉ! - Ông ta nói đầy hào
hứng. - Anh biết không, tường ở đây khá dày, cho nên mới không cần cột đỡ cái
mái vòm trên kia đấy.
Langdon gật đầu, chẳng buồn nghe, và tiếp tục xem xét cái hốc
tường tiếp theo. Đội nhiên có ai đó ở đằng sau túm chặt lấy anh. Đó là Vittoria. Thở không ra
hơi, cô gái đang túm chặt lấy cánh tay Langdon. Ánh mắt hoảng sợ của Vittoria khiến cho anh
không thể nghĩ đến bất kỳ tình huống nào khác. Đã tìm thấy thi thể của nạn nhân. Langdon chợt cảm thấy sợ hãi.
- A… vợ anh đây rồi! - Ông già hướng dẫn viên reo lên,
sung sướng vì có thêm một vị khách nữa. Ông ta chỉ đôi giày đi bộ và chiếc quần
soóc của Vittoria:
- Nhìn thì biết ngay cô là người Mỹ!
Vittoria nheo mắt:
- Tôi là người Ý.
Nụ cười của ông ta tắt ngấm:
- Thế à?
- Robert này, - Vittoria thì thào, cố quay lưng về phía ông già
hướng dẫn viên. - Diagramma của
Galileo đâu. Đưa
tôi xem cái nào.
- Diagramma à? - Ông già hỏi, giọng lấy lòng. - Chà chà, hai vị
chắc hẳn rất am hiểu lịch sử đây! Tiếc thay, không thể xem tài liệu đó được
đâu. Nó được bí mật cất giữ trong Nhà mái vòm…
- Xin lỗi ông một chút. - Langdon nói, lúng túng trước sự sợ hãi của Vittoria. Kéo cô sang một
bên, anh cẩn thận rút tờ giấy từ trong túi áo ra. - Chuyện gì thế?
- Ngày tháng ghi ở đây là bao giờ? - Vittoria vừa săm soi tờ
giấy vừa hỏi.
Ông già hướng dẫn viên đã đứng ngay cạnh họ, mắt chăm
chăm nhìn tờ giấy, miệng há hốc:
- Này, đây… không phải là…
- Bản sao dành cho khách du lịch thôi mà. - Langdon nói chặn trước. -
Cảm ơn ông đã giúp đỡ, hai vợ chồng chúng tôi muốn nói chuyện riêng một lúc.
Ông già lùi lại một chút, mắt vẫn không rời tờ giấy.
- Ngày... tháng? - Vittoria nhắc lại. - Galileo xuất bản cuốn này bao giờ.
Langdon chỉ tay vào những chữ số La Mã ở cuối trang giấy:
Ngày xuất bản đây. Chuyện gì thế?
Vittoria đọc con số.
- 1639 à?
- Ừ.
Sao thế?
Ánh mắt Vittoria đầy vẻ lo lắng:
- Lôi thôi rồi, Robert ạ. Lôi thôi to rồi. Ngày tháng
không khớp nhau.
- Ngày tháng nào không khớp nhau?
Ngày trên mộ phần của Raphael. Mãi đến năm 1759 ông ấy
mới được đưa về chôn cất ở đây. Một thế kỷ sau khi Diagramma được xuất bản.
Langdon trợn tròn mắt, không hiểu cô gái vừa nói gì.
- Không. Raphael mất năm 1520, trước Diagramma rất lâu đấy chứ.
- Đúng thế, nhưng mà mãi sau này ông ấy mới được đưa
về an táng tại đây.
Langdon lại không hiểu gì.
- Cô vừa nói cái gì thế?
- Tôi vừa đọc thấy mà. Di hài của Raphael được chuyển
về Pantheon năm
1758, trong một dự án tôn vinh các nhân vật kiệt xuất của nước Ý.
Hiểu ra những lời ấy, Langdon thấy đất dưới chân như sụp xuống.
- Khi bài thơ này được sáng tác thì phần mộ của
Raphael được đặt ở một địa điểm khác. - Vittoria tuyên bố. - Vào thời đó, Pantheon chẳng liên quan
gì đến Raphael cả!
Langdon như nghẹt thở.
- Nhưng điều đó… có nghĩa là…
- Đúng vậy! Có nghĩa là chúng ta đến nhầm địa điểm rồi!
Langdon thấy đầu óc quay cuồng. Không thể nào…rõ ràng là…
Vittoria chạy lại và túm tay ông già hướng dẫn viên, kéo lại:
- Thưa ông, xin hãy cho chúng tôi biết, vào thế kỷ 17
thì mộ phần của Raphael được đặt ở đâu?
- Ở Urb…
Urbrino, - Ông ta
lắp bắp vẻ bối rối. - Ở quê hương của ông ấy.
- Không thể nào! - Langdon lầm bầm nói một mình. - Bàn thờ khoa học
của hội Illuminati ở
Rome, chắc chắn là thế!
- Illuminati
à? - Ông già há hốc miệng lại một lần nữa đưa mắt nhìn tờ giấy Langdon đang cầm trên
tay. - Các vị là ai thế?
Vittoria lại hỏi tiếp:
- Chúng tôi đang tìm một địa danh được gọi là lăng mộ trần tục
của Santi. Ở
Rome. Ông có biết nó ở đâu không?
Ông ta có vẻ băn khoăn:
- Đây chính là lăng mộ duy nhất của Raphael ở Rome.
Langdon cố tập trung suy nghĩ, nhưng đầu óc cứ đờ ra. Nếu vào
năm 1655, mộ phần của Raphael không được đặt tại Rome thì bài thơ nói đến nơi
nào nhỉ? Từ
nấm mồ trần tục của Santi,
lăng mộ hang quỷ? Nghĩa là sao nhỉ? Nghĩ đi nào!
- Thế có nghệ sĩ nào khác tên là Santi không? - Vittoria hỏi.
Ông hướng dẫn viên nhún vai:
- Theo tôi biết thì không có.
- Thế có bất kỳ ai nổi tiếng có tên như thế không? Ví dụ một nhà thơ, nhà
thiên văn học, hay nhà khoa học nào đó tên là Santi, có không?
Lúc này thì hình như ông già hướng dẫn viên lại muốn
bỏ đi.
- Không có đâu cô ạ. Santi duy nhất mà tôi biết chính là kiến trúc sư
Raphael.
- Kiến trúc sư à? - Vittoria hỏi vặn. - Tôi tưởng ông ấy là hoạ sĩ
chứ!
- Ông ấy là cả hai chứ. Tất cả họ đều thế cả, Michelangelo, Da Vinci, Raphael.
Không hiểu là nhờ có những lời nói của ông già, hay vì
những mộ phần trang trí cầu kỳ xung quanh khiến cho Langdon nghĩ ra, nhưng điều đó không quan
trọng, anh bỗng nảy ra ý ấy. Santi
là kiến trúc sư. Từ ý tưởng, những ý nghĩ khác lần lượt hiện ra như
trong một thế cờ đô-mi-nô. Các kiến trúc sư thời Phục Hưng sống chỉ để làm hai
việc: tôn vinh chúa trong các nhà thờ lớn, và tôn vinh những nhân vật đức cao
vọng trọng bằng những mộ phần lộng lẫy. Mộ phần của Santi. Lẽ nào lại là thế? Những suy nghĩ lúc này nảy ra nhanh
hơn nữa…
Mona Lisa của Da Vinci
Hoa huệ nước của Monet
David của Michelangelo.
Lăng mộ trần tục của Santi…
- Santi
đã thiết kế lăng mộ đó. - Langdon lên tiếng.
Vittoria quay phắt lại:
- Gì cơ?
- Bài thơ không nhắc đến mộ phần của Santi, mà một mộ phần do
ông ấy thiết kế.
- Anh nói gì cơ?
- Tôi đã nhầm. Không phải là phần mộ nơi Santi được chôn cất mà là mộ phần Santi thiết kế cho người
khác cơ. Một nửa các công trình kiến trúc ở Rome thời Phục Hưng và Ba-rốc là các mộ phần. - Langdon vừa nói vừa mỉm
cười - Chắc Raphael phải thiết kế đến hàng trăm lăng mộ!
Vittoria có vẻ khổ sở:
- Hàng trăm cơ à?
Nụ cười của Langdon tắt ngấm:
- Ối trời đất ơi.
- Có cái nào trong số đó trần tục không, thưa giáo sư?
Langdon chợt thấy rối bời. Anh biết quá ít về các tác phẩm của
Raphael. Michelangelo thì
còn đỡ, chứ anh đã bao giờ để ý đến các tác phẩm của Raphael đâu. Anh nhớ tên
một vài lăng mộ nổi tiếng nhất của Raphael, nhưng không biết hình dạng chúng
thế nào.
Thấy Langdon lúng túng, Vittoria quay sang hỏi ông hướng dẫn viên, khi ông ta đang định
bỏ đi. Cô gái túm tay ông ta lôi lại:
- Tôi cần tìm một lăng mộ do Raphael thiết kế. Một
lăng mộ có thể coi là trần tục.
Ông già lúc này cũng lúng túng:
- Một lăng mộ của Raphael à? Tôi cũng không biết đâu.
Ông ấy thiết kế nhiều lắm. À, có thể các vị cũng biết một nhà nguyện nhỏ do ông
ấy thiết kế, nhà nguyện chứ không phải lăng mộ. Các kiến trúc sư thường thiết
kế các nhà nguyện thông với lăng mộ.
Langdon chợt nhận ra điều đó.
- Thế có lăng mộ hay nhà nguyện nào của Raphael mà
trần tục không?
Ông già nhún vai:
- Tiếc quá. Cái đó thì tôi không hiểu gì cả. Tôi chẳng
thấy cái nào có thể coi là trần tục hết. Có lẽ tôi phải đi đây.
Vittoria túm tay ông ta, rồi đọc dòng đầu tiên của bài thơ. "Từ nấm mồ
trần tục của Santi,
lăng mộ hang quỷ". Ông có hiểu thế là sao không?
- Tôi chẳng hiểu gì cả.
Đột nhiên Langdon ngẩng phắt lên. Vừa rồi anh quên biến mất phần sau của
câu thơ. Hang
quỷ?
- Đúng rồi! - Langdon hỏi ông già hướng dẫn viên - Đúng rồi! Có nhà nguyện nào
của Raphael có giếng trời hình tròn không?
Ông ta lại lắc đầu lần nữa:
- Theo như tôi biết thì chỉ có ở mỗi điện Pantheon này thôi. -
Ngừng một lát. - Nhưng mà…
- Nhưng sao? - cả Vittoria lẫn Langdon cùng đồng thanh.
Lúc này ông già lại ngẩng cao đầu và tiến lại bên họ.
- Hang quỷ… - ông ta tự lẩm bẩm một mình. - Hang quỷ…
thì là… buco
diavolo phải không nhỉ?
Vittoria gật đầu:
- Hiểu theo nghĩa đen thì đúng là thế.
Ông già khẽ mỉm cười:
- Có một thuật ngữ mà lâu rồi không thấy ai nhắc đến.
Nếu tôi không nhầm,
thì buco diavolo nghĩa
là cái hầm.
- Cái hầm à? - Langdon hỏi lại. - Giống như hầm mộ phải không?
- Đúng, nhưng là một dạng hầm mộ đặc biệt. Chắc hang quỷ là một từ cổ để
nói đến một hầm mộ lớn đặt trong nhà nguyện, bên dưới một mộ phần khác.
- Một cái hầm mộ đào thêm à? - Langdon hỏi ngay, anh đã hiểu ông già định
nói đến cái gì.
Người hướng dẫn viên già có vẻ rất nể phục:
- Đúng rồi, tôi định dùng từ ấy đấy.
Langdon phân vân. Hầm mộ đào thêm là một giải pháp rẻ tiền của
nhà thờ trong một số tình huống rất khó xử. Khi nhà thờ muốn thể hiện sự tôn
vinh với một thành viên của mình bằng cách đặt mộ phần của người đó trong nhà
nguyện, những người còn lại trong gia tộc thường yêu cầu phải chôn các thành
viên khác của gia đình họ chung vào một chỗ… để đảm bảo rằng họ cũng sẽ được
mai táng trong nhà thờ. Tuy nhiên, nhiều nhà thờ không có đủ tiền bạc và diện
tích để xây mộ phần cho cả một gia tộc như thế, nên họ cho đào những hầm mộ đào
thêm - một cái hố để chôn những thành viên khác của hoàng tộc nhưng không phải
là những người thực sự kiệt xuất - gần mộ phần ban đầu. Sau đó, người ta đặt
lên trên miệng hố một cái nắp mà các nghệ sĩ thời Phục Hưng gọi là cái nắp
cống, không hơn. Tuy tiện lợi, nhưng trào lưu xây hầm mộ đào thêm nhanh chóng
hết thời vì người ta rất hay ngửi thấy mùi thối trong nhà thờ. Hang quỷ, Langdon thầm nghĩ. Anh
chưa bao giờ nghe thấy thuật ngữ này. Nhưng nó phù hợp đến mức lạ lùng.
Lúc này thì trống ngực Langdon đập thình thịch. Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ.
Chỉ còn một chi tiết duy nhất cần phải hỏi cho rõ.
- Raphael có thiết kế lăng mộ nào có hang quỷ loại này
không?
Người hướng dẫn viên gãi gãi đầu:
- Thực ra thì… tiếc quá… tôi chỉ nghĩ ra được có một
thôi.
Chỉ một? Langdon không mong ước gì hơn.
- Ở đâu? - Vittoria gần như hét lên.
Ông già hướng dẫn viên ngạc nhiên nhìn họ:
- Đó là nhà nguyện Chigi. Lăng của Agostino Chigi và anh trai ông ấy, nhà Mạnh Thường
Quân giàu có của khoa học và nghệ thuật.
- Khoa học à? - Langdon vừa đưa mắt sang Vittoria vừa hỏi lại.
- Ở đâu? - Vittoria lại hỏi.
Ông già phớt lờ câu hỏi đó, lại sung sướng được làm nhiệm vụ hướng dẫn.
- Cũng không thể khẳng định chắc chắn là nó có trần tục hay không, nhưng chắc
chắn là rất khác biệt.
- Khác biệt à? - Langdon hỏi. - Khác thế nào?
- Khác biệt trong cách
kiến trúc. Một nghệ sĩ khác đảm nhiệm phần trang trí nội thất, tôi không nhớ rõ
người đó là ai.
Langdon lúc này đã sốt sắng lắm rồi. Một nghệ sĩ vô danh của hội Illuminati à? Có thể lắm.
- Nhưng dù người đó là ai đi nữa thì phần nội thất
cũng không được xuất sắc lắm. - Ông già nói tiếp - Làm gì có ai muốn bị chôn
dưới một cái Kim tự tháp cơ chứ!
Langdon gần như không dám tin vào tai mình:
- Kim tự tháp à? Trong nhà nguyện có cả Kim tự tháp à?
- Tôi biết, thật chẳng hợp chút nào. - Ông già đáp.
Vittoria túm chặt cánh tay ông ta:
- Thưa ông, nhà nguyện Chigi ở chỗ nào?
- Cách đây một dặm về hướng Bắc. Ở thánh đường Santa
Maria Del Popolo.
Vittoria thở phào:
- Cảm ơn ông. Nào…
- Này, tôi vừa nghĩ ra, đúng là tôi ngốc thật.
Vittoria đứng phắt lại:
- Xin đừng nói là ông lại nhầm nữa nhé.
Ông ta lắc đầu:
- Không đâu, nhưng đáng ra tôi phải nghĩ ra sớm hơn
mới phải. Nhà nguyện Chigi
còn có một cái tên nữa, trước đây người ta gọi nó là Capella Della
Tera.
- Nhà thờ Đất à? - Langdon hỏi.
- Không. - Vittoria vừa trả lời vừa lao ra cửa. - Nhà thờ Trái Đất.
Vừa lao ra khỏi Piazza Della Rotunda, Vittoria Vetra vừa lôi điện thoại di động ra.
- Chỉ huy Olivetti, không phải ở đây rồi!
Olivetti có vẻ ngỡ ngàng:
- Sao? Cô nói gì?
- Bàn thờ khoa học đầu tiên là nhà nguyện Chigi cơ!
- Ở đâu? - Olivetti bắt đầu cáu. - Nhưng mà ông Langdon nói là…
- Santa Maria Del Popolo! Một dặm về phía Bắc! Đưa người của ông
sang đấy ngay. Còn 4 phút nữa!
Nhưng người của tôi vào vị trí ở đây hết rồi! Làm sao
có thể…
- Đi ngay đi! - Vittoria dập điện thoại.
Sau lưng cô gái, Langdon cũng vừa hổn hển lao ra khỏi điện Pantheon.
Cô gái túm tay Langdon, kéo anh chạy ra dãy xe tải trông như
không người lái đang đợi san. Vittoria đấm ầm ầm vào mui chiếc xe đầu tiên. Người lái xe đang
ngủ gật giật bắn người, và ngồi thẳng dậy, đầy sợ hãi. Vittoria mở ngay cửa sau, ấn Langdon vào trong xe, rồi
cô cũng nhảy nốt vào.
- Santa Maria Del Popolo. - Cô hô to. - Nhanh lên!
Nửa sợ hãi, nửa thụ động, người lái xe gạt cần số,
chiếc xe trườn ra giữa đường.
Chương 63
Gunther Glick đã giằng con chuột máy tính từ tay Chinita Macri, và giờ chị ta đang đứng lom
khom ở cuối chiếc xe hòm chật chội của BBC,
nhìn qua vai Glick.
- Thấy chưa. - Glick vừa nói vừa gõ thêm vài ký tự vào bàn phím.
- Có phải mỗi British Tattler cho đăng bài về những gã này đâu?
Macri cúi xuống gần hơn. Glick nói đúng. Cơ sở dữ liệu của BBC cho thấy rằng họ đã
cho đăng sáu bài báo cả thảy trong vòng 10 năm qua về một hội kín tên là Illuminati. Trời ơi
không thể tin nổi, Macri
thầm nghĩ.
- Tay nào viết những bài đó thế? Mấy tay ba hoa chích chòe chứ gì?
- BBC
đâu có thuê những đồ rác rưởi đó.
- Họ thuê anh đấy thôi.
Glick gầm gừ:
- Sao cô lại đa nghi thế không biết! Có rất nhiều tài
liệu chứng minh sự tồn tại của Illuminati trong một giai đoạn lịch sử dài đấy.
- Thì mấy mụ phù thuỷ vật thể bay không xác định, rồi
cả thuỷ quái hồ Loch Ness nữa
chứ.
Glick đọc tên những bài báo được liệt kê.
- Cô đã bao giờ biết có người tên là Winston Churchill chưa?
- Tên kêu gớm nhỉ.
- BBC
đã từng đăng một loạt phóng sự về cuộc đời của ông ta. Mà là tín đố Cơ
đốc giáo trung thành đấy nhé. Cô có biết là năm 1920, Churchill cũng đã lên án hội Illuminati và cảnh báo
người dân Anh về một âm mưu toàn cầu chống lại lương tri không?
Macri vẫn chưa tin:
- Báo nào đăng tuyên bố đó? British Tattler à?
Glick cười mỉm:
- London Herald. Ngày 8 tháng 2 năm 1920.
- Không thể nào.
- Cô nhìn cho kỹ đi!
Macri nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính. London Herald, ngày 8 tháng 2
năm 1920. Sao mình lại không biết nhỉ?
- Thế thì chắc Churchill bị bệnh hoang tưởng rồi.
- Không phải mỗi mình ông ấy đâu. - Glick vừa đọc tiếp vừa
nói - Có vẻ như năm 1921 thì Woodrow
Wilson cũng đã cho phát đi ba lời cảnh báo trên đài phát thanh về nguy
cơ hội Illuminati khống
chế hệ thống ngân hàng của Mỹ. Có cần tải nguyên văn những lời đó xuống cho cô
xem không?
- Thôi khỏi cần.
Nhưng Glick vẫn tải về một bản phát thanh.
- Ông ấy nói đây nhé: "Có một thế lực được tổ
chức rất chặt chẽ, rất tinh vi, rất hoàn hảo. Nó có mặt ở hầu hết mọi nơi, đến
nỗi người ta chỉ dám thì thầm thật khẽ mỗi khi cả gan chỉ trích nó".
- Tôi chưa bao giờ nghe nói đến chương trình phát
thanh đó.
- Chắc là vì năm 1921 thì cô còn vắt mũi chưa sạch.
- Hay đấy. - Macri lại thấy thích lời châm chọc này. Cô biết
tuổi tác đang ngày một hiện rõ trên khuôn mặt của mình. Ở tuổi 43, những lọn
tóc đen dày của cô đã bắt đầu ngả sang màu muối tiêu. Nhưng quá kiêu hãnh, Macri không bao giờ nhuộm
tóc. Mẹ của Macri,
một tín đồ Baptist ở miền Nam, đã dạy cô biết tự bằng lòng và tôn trọng bản
thân. Vì con
là một phụ nữ da đen, mẹ
cô dặn dò, đừng
bao giờ cố che giấu bản thân. Ngày con làm điều đó cũng là ngày con chết. Hãy
đứng thật thẳng, mỉm cười rạng rỡ, và để mọi người phải băn khoăn không hiểu
điều bí mật nào đã khiến con cười rạng rỡ đến thế.
- Đã nghe nói đến Cecil Rhodes bao giờ chưa? - Glick hỏi.
Macri nhìn lên:
- Nhà tài chính người Anh đó hả?
- Đúng rồi. Người thành lập quỹ học bổng Rhodes đấy. Đừng nói với
tôi là…
- Người của Illuminati.
- Báo nào?
- BBC,
thật đấy. Ngày 16 tháng 11 năm 1984.
- Báo mình đăng tin Rhodes là người của Illuminati á?
- Chứ sao. Và theo thông tin của chúng ta thì quỹ học
bổng Rhodes được
thành lập từ nhiều thế kỷ nay để tuyển mộ những bộ óc lỗi lạc nhất cho hội Illuminati.
- Thật lố bịch! Bác tôi ngày xưa cũng nhận học bổng Rhodes đây!
Glick nháy mắt:
- Cả Bill Clinton cũng thế.
Macri lúc này đã thật sự phát điên. Chưa bao giờ chị chấp
nhận những bài báo nhăng nhít
kiểu này. Nhưng Macri
cũng biết rằng BBC luôn
cho thẩm định kỹ lưỡng tất cả những thông tin mà hãng công bố.
- Sự kiện này thì chắc cô biết. - Glick đọc - BBC, ngày 5 tháng 3 năm
1998. Chủ tịch Uỷ ban hạ viện, Chris Mullin, yêu cầu tất cả các nghị sĩ Anh là thành viên hội
Tam Điểm phải công khai mối quan hệ đó.
Macri còn nhớ sự kiện này. Rốt cuộc thì hội kín đó hoá ra
lại có liên quan đến các nhận viên cảnh sát, thậm chí cả quan toà.
- Nhưng để làm gì thế?
Glick đọc tiếp:
- Lo lắng rằng có thể những chi nhánh bí mật của hội
Tam Điểm sẽ khống chế toàn bộ thể chế chính trị và hệ thống tài chính.
- Đúng thế.
- Gây ra bao nhiêu là ầm ĩ. Hội Tam Điểm trong nghị
viện đã tỏ ra công phẫn. Mà thế là phải thôi. Hoá ra đa số họ chỉ là những
người ngây thơ gia nhập hội Tam Điểm để làm các công việc từ thiện. Họ không hề
biết gì về những mối liên hệ trong quá khứ của hội đó.
- Những liên hệ chưa được chứng minh rõ ràng.
- Thế cả thôi - Glick đọc lướt các bài báo. - Xem đây này. Thông
tin cho thấy Illuminati liên
quan đến cả Galileo,
hội Guerenets ở
Pháp, hội Alumbrados ở
Tây Ban Nha. Thậm chí cả Karl
Max và cách mạng Nga.
- Rất có thể lịch sử bị bóp méo lắm chứ.
- Được rồi. Cô muốn những sự kiện gần đây chứ gì? Xem
đi. Đây là bài trên tờ Wall
Street Journal nhắc
đến Illuminati nhé.
Tên tờ báo khiến Macri chú ý.
- Journal à?
- Đoán xem trò chơi điện tử được ưa thích nhất ở Mỹ
hiện nay là gì nào?
- Sex với Pamela
Anderson chứ gì?
- Gần đúng. Tên của nó là Illuminati: trật tự thế giới mới.
Macri nhìn qua vai Glick để đọc phần giới thiệu trò chơi: "Steve Jackson Games đã thành công ngoài
sức tưởng tượng… một cuộc thám hiểm có tính lịch sử. Trong đó một hội kín xấu
xa ở Bavaria rắp
tâm muốn thống trị cả thế giới. Hãy lên mạng để tham gia…"
Macri ngước mắt lên như sắp sửa phát ốm đến nơi:
- Mấy gã hội viên Illuminati này thì có liên quan gì đến Thiên Chúa
giáo đây?
- Không chỉ mỗi Thiên Chúa giáo đâu nhé. - Glick nói - Mà là mọi tôn
giáo nói chung! - Glick ngẩng
mặt lên, cười toe toét. - Nhưng qua cuộc gọi ban nãy thì có thể đoán rằng họ quan tâm đặc biệt tới Vatican đấy.
- Ồ thôi đi! Anh không thật sự tin vào những lời tự giới thiệu của gã đó
đấy chứ?
- Rằng gã là sứ giả của Illuminati ư? Chuẩn bị hành quyết bốn Hồng y Giáo
chủ ư? - Glick mỉm
cười. - Tôi hi vọng đó là sự thật.

