Hạt giống tâm hồn (Tập 11) - Phần 4

Niềm hạnh phúc nhỏ nhoi

Chia sẻ những gì mình có
sẽ giúp con người trở nên giàu có.

- Sarah Bernhardt

“Tôi chưa từng ghét bất
cứ ai.” – Will Rogers(6) khẳng định. Và có lẽ lý do để doanh nhân hài hước vĩ
đại của nước Mỹ nói ra câu này là vì Will Rogers luôn nhận được sự yêu mến của
mọi người, hoặc giả nếu có người không thích ông thì số đó cũng rất ít ỏi. Một
câu chuyện xảy ra khi Rogers còn là một chàng cao bồi trẻ tuổi ở Oklahoma sẽ
giúp lý giải điều này.

(6) William Penn Adair “Will” Rogers (1879 -
1935): Doanh nhân, nghệ sĩ hài, một nhà bình luận xã hội kiêm diễn viên, ông là
cha đẻ của nghị sĩ quốc hội Hoa Kỳ Will Rogers, Jr.

Vào mùa đông năm 1898,
Rogers được thừa kế một nông trang gần Claremore. Một ngày, một người nông dân
sống gần đó đã giết chết con bò đực non của Will vì tội nó làm đổ hàng rào và
ăn ngũ cốc của ông ấy. Theo tục lệ trong vùng, người nông dân đó cần thông báo
cho Will biết những việc ông đã làm và lý do tại sao. Nhưng ông ta lại không
làm thế và khi Rogers phát hiện ra chuyện này, anh vô cùng giận dữ. Trong tâm
trạng phẫn nộ, anh đã gọi một tá điền cùng mình tới nhà người nồng dân kia để
làm cho ra lẽ.

Dọc đường, những đợt gió
bấc lạnh buốt bất ngờ tràn về khiến cả người và ngựa đều lạnh cóng. Khi họ tới
nơi thì người nông dân kia lại không có ở nhà. Nhưng vợ ông ấy đã nhiệt tình
mời hai người đàn ông đang run rẩy vào nhà sưởi ấm, chờ chồng bà về. Trong lúc
ngồi sưởi, Rogers chợt nhận ra dáng vẻ gầy gò và tiều tụy do làm việc quá sức
của người phụ nữ, anh cũng nhận thấy ánh mắt tò mò của năm đứa trẻ nheo nhóc
đang thập thò, len lén nhìn anh từ phía sau đống đồ đạc cũ kỹ.

Khi người nông dân kia
về, bà vợ liền kể lại cho ông ta nghe chuyện Rogers và người bạn đi cùng may
mắn thoát khỏi cơn bão. Nhìn người đàn ông đó, anh bỗng thấy mình không thể mở
miệng nổi, thay vào đó, anh đứng dậy bắt tay thân thiện. Người nông dân không
hiểu Will tới nhà mình có việc gì nhưng cũng đưa tay nắm lấy tay anh và mời cả
hai người ở lại dùng bữa tối. “Các anh sẽ phải ăn đậu thôi vì cơn bão đã giết
chết con bò đực non của tôi rồi. ” - ông chia sẻ. Cả hai người khách đều nhận
lời mời.

Trong bữa ăn, anh chàng
tá điền đi cùng liên tục nhìn Will để nhắc nhở anh về con bò đực non mới bị
giết hại, nhưng Rogers chỉ mải mê cười nói, và rôm rả khôi hài với gia đình. Để
ý, Rogers thấy ánh mắt bọn trẻ luôn sáng rỡ mỗi khi họ nhắc tới bữa ăn có thịt
bò vào ngày hôm sau và trong cả tuần sau đó.

Những đợt gió bấc vẫn
gào rú bên ngoài. Bữa tối đã kết thúc. Vợ chồng người nông dân đều cương quyết
giữ hai vị khách nghỉ qua đêm tại nhà. Và họ đã đồng ý.

Sáng hôm sau, họ được
gia đình người nông dân gửi tặng một bao lớn đựng đầy cà phê, hạt đậu và bánh
quy đề mang về nhà. Cho đến lúc ấy, Rogers vẫn không hề đả động gì đến lý do
mình tới nhà người nông dân. Trên đường về, anh chàng tá điền đi cùng Will cất
tiếng trách cứ:

- Thế mà tôi cứ tưởng
ngài sẽ cho tay nông dân đó đo ván vì con bò rồi đấy!

Im lặng thêm một lúc,
rồi Will đáp:

- Tôi cũng định làm thế
nhưng sau đó tôi nghĩ lại. Anh cũng thấy rồi đấy, thực sự thì tôi có mất con bò
đó đâu. Tôi chỉ đánh đổi nó lấy một chút hạnh phúc nhỏ nhoi mà thôi. Có hàng
triệu con bò trên thế giới này nhưng hạnh phúc là điều đáng quý và thiêng liêng
nhất.

- Albert p. Hout

Từ bóng tối ra ánh sáng

Sau bao nhiêu năm với
những nỗi đau chồng chất, làm thế nào người ta có thể tìm thấy sức mạnh để tha
thứ?

Ngày David McAllister
qua đời, trong tôi đan xen nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau, vừa xót thương,
vừa thanh thản. Đó là vào buổi sáng tháng 9 năm 1996, tại Miami, trời mưa như
trút nước. Người đàn ông già nua đó ra đi trong quạnh hiu, đơn độc - không tang
lễ, không vòng hoa, không nước mắt, không bài ca tiễn đưa. Những cái “không” ấy
không phải do người ta vô tình với ông, mà do chính những gì ông làm khi còn
sống đã tạo nên. Ông ta là một tên trộm, một tay lừa đảo và tồi tệ hơn, ông còn
là một con người hiểm ác luôn để sự thù hằn làm mờ con mắt. Nhưng, trước cái
chết của người đàn ông này, tôi phải thừa nhận rằng rất ít điều khiến tôi xúc
động mạnh mẽ đến vậy.

Câu chuyện bắt đầu 22
năm về trước, vào một buổi chiều đầy nắng tháng 12 năm 1974.

Một thằng bé 10 tuổi vừa
bước lên chiếc xe buýt tại đại lộ Aledo trong khu ngoại ô Miami cây cối rậm
rạp. Hugh chính là tên đệm của thằng bé gầy và cao lêu nghêu đó. Cha nó - luật
sư của một công ty, thường gọi nó bằng cái tên đó. Thằng bé có mái tóc màu nâu,
đôi mắt sáng và nụ cười luôn nở trên môi.

Buổi chiều ấy, Hugh đang
ván vơ nghĩ về Giáng sinh chỉ còn cách đó năm ngày nữa, vì thế nó không hề nhận
ra có một người đàn ông đang tiến về phía nó cho đến khi ông ta cất lời.

- Chào cháu, chú là bạn
của bố cháu. - Người lạ mặt nói rồi mỉm cười.

Vào thời gian này, người
dân ở Coral Gables không mấy bận tâm tới những người lạ mặt, đặc biệt là một
người ăn mặc sáng sủa và lịch sự như người đàn ông trung niên có mái tóc hoa râm
đang đứng trước mặt thằng bé. Hugh cũng mỉm cười với ông ta.

- Bọn ta định tổ chức
một bữa tiệc cho bố cháu. Nhưng ta muốn hỏi một số điều về món quà sẽ dành cho
ông ấy. Cháu có thể giúp ta lựa chọn không? Chúng ta sẽ trở lại nhanh thôi.

Hugh đồng ý và rất phấn
khởi vì sắp làm được một điều gì đó cho cha mình. Họ cùng đi tới một chiếc xe -
một ngôi nhà di động - đậu cách đó hai con phố và bước vào trong. Người đàn ông
lái xe theo hướng bắc và nói rất ít khi những con đường trong thành phố dần lùi
lại đằng sau để mở ra những cánh đồng mênh mông bất tận. Tới một nơi hẻo lánh,
người lạ mặt tấp xe vào lề đường.

- Ta nghĩ là ta đi nhầm
đường rồi. - Ông ta nói rồi đưa cho Hugh một tấm bản đồ. - Cháu xem có thấy
đường cao tốc chính ở đâu không.

Và trong khi Hugh đang
dò dẫm trên tấm bản đồ, ông ta đứng lên rồi bước lùi về sau ngôi nhà di động.

Một lúc sau, Hugh bỗng
cảm thấy đau nhức như bị ong chích phía sau gáy. Rồi thằng bé lại cảm thấy một
vết chích nữa. Nó quay lại và hốt hoảng sợ hãi. Người đàn ông đó đang nhìn nó
trân trối bằng một đôi mắt lạnh lùng và đáng sợ. Ông ta đang tiến lại gần, trên
tay cầm một cái rìu phá băng.

Hugh cố gắng tự vệ nhưng
người đàn ông đã thô bạo hất thằng bé xuống. Chiếc rìu liên tục giáng xuống.
Tuy sợ hãi nhưng Hugh vẫn nhận ra vết đâm không sâu. Người đàn ông giơ chiếc
rìu lên trước ngực Hugh, bàn tay ông ta run run, và rồi ông ta hạ thứ vũ khí
khủng khiếp đó xuống. Không nói một lời, ông ta đẩy thằng bé đang kinh hãi quay
trở lại chỗ ngồi rồi lái tiếp, chiếc xe ngày càng xa thành phố.

- Cha ngươi đã chiếm
đoạt của ta rất nhiều tiền và luôn gây khó khăn cho ta. - Giọng ông ta dửng
dưng lạnh lùng.

Hugh co người sợ hãi
trên ghế ngồi. Thằng bé kinh hãi đến mức không thể thốt ra lời nào. Vết thương
của nó không quá nghiêm trọng nhưng những cơn đau đang giày vò nó. Người đàn
ông hướng xe vào Interstate 75(7) - ở Alligator Alley(8) - đoạn giao với
Everglades.

(7) Interstate 75 (1-75): Một con đường cao tốc giữa các tiểu bang
liên Bắc Nam ở phía trung nam Hoa Kỳ, kéo dài từ Hialeah, Florida tới Sault
ste. Marie, Michigan ở Ontario, biên giới Canada.

(8) Alligator Alley (hay còn được gọi là đại lộ
Everglades) là chỗ giao nhau giữa Interstate 75 và đường quốc lộ 84, mở rộng từ
Naples ở mũi tây của Florida sang Weston ở phía đông.

Đây là nơi cư trú của
hàng ngàn con cá sấu Mỹ và hàng trăm con cá sấu châu Phi.

Một lúc sau, người đàn
ông nói:

- Chạy vài dặm nữa tao
sẽ thả cho mày xuống. Tao sẽ gọi cha mày tới đón mày về.

Chiếc xe tiếp tục đi
thêm một hồi rồi rẽ vào một con đường bẩn thỉu và đi vào một khoảng rừng hoang
vắng.

- Xuống đi. - Người đàn
ông đáng sợ ấy bảo Hugh.

Bước ra khỏi xe, Hugh đi
thêm một đoạn ngắn rồi ngồi đối diện với một bụi cây. Vì thế, nó không nhìn
thấy người đàn ông vừa tấn công nó đang tiến lại gần với một khẩu súng ngắn
nòng nhỏ. Và thằng bé cũng không kịp nhận ra một viên đạn nóng giẫy đang găm
thẳng vào thái dương bên trái của nó.

Suốt sáu ngày liền, cha
mẹ Hugh như ngồi trên đống lửa, họ không biết con trai mình còn sống hay đã
chết. Ngày qua ngày, những tia hy vọng mỏng manh đang chết dần trong họ. Chẳng
ai chứng kiến vụ bắt cóc, cảnh sát cũng không tìm ra bất kỳ manh mối nào. Tất
cả diễn ra cứ như thể đứa con trai út của họ đã bốc hơi khỏi trái đất vậy.

Sau Giáng sinh một ngày,
họ nhận được một cú điện thoại từ phòng cảnh sát Coral Gables báo tin rằng đã
tìm thấy Hugh nằm trên một tảng đá đối diện với một con đường ở Everglades.

Câu chuyện Hugh bị bắt
cóc và được cứu sống nhanh chóng trở thành tin tức nóng bỏng ở Miami. Sau gần
một tuần mê man bất tỉnh ở Everglades, thằng bé bỗng tỉnh dậy. Nó cố gắng lết
tấm thân ra đường cái, và ở đó một người đi xe mô tô ngang qua đã cứu nó. Viên
đạn lồi ra ở thái dương bên phải của Hugh đã hủy hoại dây thần kinh thị giác
của thằng bé và khiến nó mãi mãi bị mù con mắt bên trái. Nhưng hết thảy mọi
người đều công nhận rằng việc thằng bé sống sót quả là một phép lạ.

Trong nhiều ngày, rồi
nhiều tuần sau đó, các thám tử luôn theo sát Hugh để cố gắng xác định người đã
tấn công thằng bé. Hugh miêu tả lại sự giận dữ của người lạ mặt khi nhắc tới
cha nó và còn mô tả chi tiết hình dạng người đàn

Ông đó cho cảnh sát,
trong đó có nhắc tới vết xăm đã mờ trên cánh tay của hắn. Từ những chi tiết đó,
các thám tử đã đưa ra một loạt nghi vấn có nhiều khả năng. Trong số đó có một
nam y tá do cha của Hugh thuê để chăm sóc người chú đã già nhưng mới bị cha
Hugh sa thải gần đây do ông ta uống rượu trong lúc làm việc. Theo nhận định của
các thám tử, động cơ gây án của hắn chính là xuất phát từ đây - trả thù.

Nghi phạm này cũng có
một ngôi nhà di động đúng như Hugh mô tả và hán ta đã từng có tiền án trộm,
cướp có vũ khí, giả mạo chữ ký và trốn tù. Tên của hắn ta là David McAllister.

Trong mấy tuần, Hugh đã
xem qua hàng trăm tấm ảnh nhưng có lẽ thằng bé vẫn còn bị ảnh hưởng do chấn
động mạnh từ vụ bắt cóc nên không thể xác định chính xác McAllister có phải là
thủ phạm hay không. Không có tín hiệu nhận dạng rõ ràng, các thám tử không thể
có đủ bằng chứng để xin lệnh bắt giữ.

Và hàng tháng rồi hàng
năm cứ lần lượt trôi qua, trong khi đó McAllister vẫn nhởn nhơ bước đi trên hè
phố như một công dân tự do.

Chuck Scherer - một cảnh
sát ở Coral Gables đặc biệt quan tâm đến vụ án này. Scherer là một trung sĩ
cảnh sát đã trực tiếp tham gia điều tra. Ông có hai đứa con cũng trạc tuổi
Hugh. Ông rất đỗi kinh hoàng trước tội ác của tên McAllister và cũng giống như
các điều tra viên khác, ông cũng cảm thấy mình có trách nhiệm phải đưa
McAllister ra trước vành móng ngựa.

Khi cảnh sát tới để chất
vấn, hán ta mở cửa với một nụ cười hết sức tự mãn. Hán còn nói: “A, các ông làm
gì mà lại lâu như vậy? Tôi đã chờ đợi các ống hai tuần nay rồi Rồi hán lại ra
sức phủ nhận việc mình có liên can trong vụ án.

Tính tự phụ của
McAllister nhanh chóng khiến Scherer điên tiết. Mấy năm sau đó, Scherer vẫn
theo sát hắn ta và hy vọng hắn ta sẽ sập bẫy. Nhờ nói chuyện với những người
quen của gã mà Scherer dần nhận rõ chân tướng của gã là một con người độc ác,
hằn học và nghiện rượu. McAllister không có bạn bè, gia đình cũng đã ruồng bỏ
hán.

Scherer cảm thấy tạm an
ủi rằng cuộc đời đã giáng cho kẻ đã bắt cóc Hugh một bản án thích đáng: một
cuộc sống cô độc và bất hạnh.

Tuy nhiên, ông vẫn quyết
tâm bắt McAllister phải đền tội cho những tội ác mà hắn đã gây ra.

Nói về Hugh, cuộc sống
của thằng bé ngày càng tồi tệ. Cảm giác sợ hãi thường xuyên ám ảnh khiến nó
không còn dám ra ngoài một mình. Gần như mọi buổi tối trong suốt ba năm tiếp
theo, thằng bé ngủ trên sàn ở dưới chân giường của cha mẹ và có thể run bán
trước mọi tiếng động.

Khi lớn hơn, Hugh luôn
tự ti trước con mắt trái bị mù đã che mất của nó một nửa thế giới và nó chẳng
thể tìm được nhiều lý do để cười vui hạnh phúc. Thằng bé luôn cảm thấy người ta
đang nhìn nó và chắc chắn rằng nó không bao giờ có thể có một cuộc sống bình
thường. Cuối cùng, nỗi sợ hãi dần chuyển sang sự phẫn uất và cướp luôn sự ngây
thơ của Hugh. Mặc cho cha mẹ và bạn bè ra sức động viên khích lệ, Hugh vẫn sống
trong trạng thái sợ hãi và bất an.

Năm 13 tuổi, Hugh đã tìm
ra một nơi khác cũng an toàn ngoài ngôi nhà của mình: ngôi nhà thờ gần đó. Tại
đây, những thông điệp về hy vọng và tha thứ trong Kinh Thánh đã tác động sâu
sắc đến thằng bé. Nó cảm thấy những lời nói ấy dường như dành riêng cho mình.
Kể từ lúc bị bắt cóc, thằng bé luôn cố gắng tìm cách giúp bản thân đối diện với
nỗi sợ hái và tức giận. Cuối cùng thì câu hỏi của nó cũng được giải đáp.

Một buổi tối, trước sự
thuyết phục của mấy người bạn mà Hugh gặp ở nhà thờ, thằng bé đã kể lại cho
chúng nghe câu chuyện của mình. Thằng bé nói ngập ngừng vì không biết bạn bè sẽ
phản ứng thế nào.

Khi câu chuyện kết thúc,
Hugh rất ngạc nhiên vì bạn bè đều tán thưởng và động viên nó. Nước mắt lăn dài
trên gương mặt, lần đầu tiên Hugh nhận ra rằng sự sống sót kỳ diệu của mình
không phải là nỗi sợ hãi hay căm ghét mà là nguồn cổ vũ cho mọi người.

Niềm tin của Hugh ngày
càng sâu sắc hơn, nỗi sợ hãi dần biến mất và thằng bé bắt đầu cười trở lại. Nó
đã nhận ra rằng chia sẻ niềm tin chính là điều nó muốn làm trong cả cuộc đời
mình.

Hugh tốt nghiệp phổ
thông và theo học trường Đại học Mercer ở Macon, Georgia, theo đuổi việc nghiên
cứu giáo lý Cơ Đốc và tâm lý học. Sau đó, Hugh tiếp tục học trường Southwestern
Baptist Theological Seminary ở Fort Worth, Texas, và đã nhận được bằng thạc sĩ
thản học.

Năm 1991, Hugh gặp
Leslie Ritchie - một cô gái cuốn hút có mái tóc đỏ. Họ tìm thấy ở nhau sự đồng
điệu trong niềm tin tưởng và khao khát được làm việc với những người trẻ tuổi.
Một năm sau đó, đám cưới đã chính thức gắn kết họ với nhau và vào năm 1994,
Leslie sinh Amanda - đứa con đầu trong ba đứa con của họ - Anh biết Chúa chắc
chắn phải có lý do khi giữ cho anh mạng sống ở Everglades. Và bây giờ anh đã
biết chính xác nó là gì. - Hugh nói với Leslie khi ôm cô bé Amanda bé bỏng vào
lòng.

Sau khi trở lại Miami
vào năm 1995, Hugh làm trưởng đoàn mục sư trẻ ở nhà thờ địa phương của Coral
Gables. Các học sinh thường thắc mắc về con mắt bên trái của Hugh. Sau khi nghe
câu chuyện, hết thảy đều nói đó là một kỳ tích. Và khi đã hiểu rõ về quá khứ
của Hugh, bọn trẻ dần trở nên cởi mở hơn khi chia sẻ với anh về những rắc rối
của mình.

Năm 1996, Hugh 32 tuổi
và có cuộc sống vô cùng hạnh phúc. Anh đã vượt qua nỗi đau kinh hoàng trong quá
khứ, nhưng một câu hỏi vẫn đeo bám anh: Anh sẽ làm gì nếu một lần đối diện với
người đàn ông từng cố gắng giết anh? Câu hỏi thường trực xuất hiện trong đầu
mỗi khi Hugh kể chuyện về cuộc đời mình, và khi đó, anh luôn đáp lại rằng: “Tôi
hy vọng mình có đủ sức mạnh để tha thứ cho ông ta. Vì như thế, tôi sẽ hoàn toàn
được giải thoát khỏi thế giới của sự giận dữ và thù hận như thế giới của ông
ấy”.

Mặc dù vậy, trong thâm
tâm, chính Hugh cũng không dám chắc mình có thực sự làm được điều đó hay không.

Đầu năm 1996, Hugh rất
bất ngờ khi nhận được cú điện thoại của Chuck Scherer. Scherer giải thích rằng
một đồng nghiệp khi biết ông rất quan tâm tới vụ án của Hugh đã thông báo cho
ông sau khi ghé thăm một bệnh xá ở phía bác Miami. McAllister hiện là một bệnh
nhân đang nằm ở đó. Scherer đã lái xe tới bệnh xá và nói chuyện với McAllister.

- Ban đầu hắn ta vẫn rất
ngoan cố, nhưng sau đó hán đã thú nhận tội bắt cóc cậu vào ngày hôm đó. -
Scherer nói với Hugh.

Hugh im lặng. Scherer
nói thêm:

- Cậu có muốn đối mặt
với người đàn ông đã từng cố gắng giết cậu không?

Những suy nghĩ và cảm
xúc bối rối xuất hiện trong đầu Hugh. Nhưng một tiếng nói trong thâm tâm đã cất
tiếng trả lời rằng: “Có... Mình muốn gặp ống ta”.

Ngày hôm sau, Hugh tới
bệnh xá. Anh cảm thấy tim mình như thắt lại khi bước xuống hành lang dẫn tới
phòng của McAllister.

Chưa bao giờ anh hồi hộp
và lo lắng đến thế. Anh có thể bắt tay người đàn ông hiểm ác đã bắt cóc rồi bỏ
mặc mình chờ chết hay không? Nếu anh không thể làm điều đó thì chẳng lẽ mọi bài
học anh từng dạy học trò của mình về sự tha thứ hóa ra chỉ là một sự giả dối?

Khi đến nơi, Hugh bỗng
cảm thấy lo sợ rằng việc gặp gỡ McAllister sẽ đánh thức một mảng tối bây lâu
nay ngủ lịm trong anh. Anh đứng bên ngoài cánh cửa và hít một hơi thật sâu rồi
lấy hết sức mạnh và sự can đảm để bước vào.

Những hình dung trước
đây của Hugh hoàn toàn khác xa những điều đang diễn ra trước mắt. nằm trên
chiếc giường không phải là con quỷ hung ác trong những cơn ác mộng của anh mà
chỉ là một người đàn ông yếu đuối 77 tuổi đang không thở ra hơi. Ông ta nặng
chưa tới 30 ký. Gương mặt ông toàn da bọc xương. Đôi mắt đã mờ do căn bệnh tăng
nhãn áp đang nhìn trân trân vào khoảng không vô định trên trần nhà.

Hugh tự giới thiệu về
mình và khi anh nói, người đàn ông già nua đó vẫn có vẻ bộc lộ tính tự phụ cố
hữu.

- Tôi không hiểu cậu
đang nói gì! - Ông ta nói khi được nhác lại lời thú tội của ông với Scherer.

Nhưng vài phút sau, điều
đó dường như lại khuấy động nội tâm người đàn ông già nua này. Ông ta trầm lặng
một lúc lâu rồi bắt đầu run rẩy và bật khóc. Ông ta nâng cánh tay yếu ớt gầy
guộc lên và Hugh đã đỡ lấy bàn tay đó bằng chính đôi tay mình.

- Tôi xin lỗi. Tôi thành
thật xin lỗi!

Cuối cùng McAllister đã
nói những lời này. Hugh lặng nhìn ông ta và một cảm giác xen lấn giữa xúc động
và tiếc nuối bỗng trào dâng trong lòng anh.

- Tôi chỉ muốn ông biết
rằng tôi đã được Chúa ban ơn. Những điều ông làm đã không kết thúc cuộc đời tôi
mà chỉ là điểm khởi đầu cho một trang mới. - Hugh nói.

McAllister cầm chặt lấy
bàn tay của Hugh. Ông ta thểu thào: “Tôi rất mừng”.

Ba tuần sau đó, gần như
ngày nào Hugh cũng ghé thăm McAllister. Gương mặt nhăn nheo của ông ta sáng rỡ
mỗi lần nghe thấy giọng nói của anh.

Mặc dù quá yếu không thể
nói chuyện nhiều nhưng McAllister đã kể cho Hugh một vài điều về cuộc đời mình.
Sống không cha, tuổi thơ của ông lang thang ở những vệ đường và đến tuổi thanh
thiếu niên, ông đã là một con sâu rượu. Gia đình ruồng bỏ ông còn xung quanh
ông không có một người bạn nào cả. Hugh có thể thấy rõ ràng rằng ông ta đang
hối tiếc vì đã sống một cuộc đời đầy thù hận và tủi hổ.

McAllister luôn cho rằng
chỉ “những thằng điên” mới tin vào Chúa. Nhưng nhờ sự giúp đỡ của Hugh, ông bắt
đầu cầu nguyện.

Một buổi chiều mùa thu ở
bệnh xá, Hugh đã chân thành chia sẻ niềm tin và hy vọng của mình với McAllister
và chính điều đó càng thắp sáng niềm tin đang nhen nhóm trong ông.

- Tôi muốn sau này được
lên thiên đàng và tôi muốn gặp ông ở đó. Tôi muốn chúng ta tiếp tục là bạn. -
Hugh nói với ông ta.

Đêm ấy, McAllister đã ra
đi thanh thản.

Thậm chí ngay cả bây
giờ, tôi vẫn cảm thấy thật khó khăn khi bước ra đại lộ Aledo mà không nghĩ về
buổi chiều khi McAllister bước ra từ bóng tối.

Một phần trong tôi cảm
thấy thực sự khuây khỏa khi ông ta đã vĩnh viễn ra đi còn một phần nhận thấy
rằng sau cái chết của ông, con quỷ đó sẽ không bao giờ trở lại. Dường như trong
những ngày cuối đời, McAllister đã hoàn toàn lột xác thành một con người khác,
bước ra khỏi bóng tối. Người đàn ông đó phải trải qua những nỗi đau đớn kinh
khủng hơn bất cứ ai trong chúng ta có thể tưởng tượng ra. Và có lẽ, xét theo
nghĩa nào đó, ông ta đã phải trả giá cho những điều mình đã gây ra.

Thật lạ, người đàn ông
đó đã làm cho tôi nhiều điều hơn ông ấy tưởng. Từ bóng tối của ông ấy, tôi tìm
ra được ánh sáng cho mình.

Hành động tha thứ cho
David McAllister đã mang lại cho tôi một sức mạnh diệu kỳ.

Bạn có nhận ra không,
Hugh là tên đệm của tôi. Tôi chính là cậu bé đó.

- Christopher Carrier

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3