Hạt giống tâm hồn (Tập 11) - Phần 8 (Hết tập 8)

Câu chuyện giáng sinh

Mỗi lần suy nghĩ là mỗi
lần chiến thắng.

- Ralph Waldo Emerson

Tháng 10 năm 1843, một
buổi chạng vạng tối, Charles Dickens lặng lẽ bước ra khỏi mái cổng bằng gạch đá
của ngôi nhà gần công viên Regent ở Luân Đôn đề bắt đầu cuộc đi dạo trên những
con đường thành phố. Không khí lành lạnh của cảnh trời nhá nhem khiến ông cảm
thấy dễ chịu phần nào so với tiết trời ẩm thấp bất thường đeo bám cả ngày hôm
nay.

Dickens là một người đầy
cuốn hút với mái tóc nâu bồng bềnh và đôi mắt sáng long lanh. Lúc này đây, ông
đang gặp rắc rối thực sự. Người cha của bốn đứa con này từng nghĩ mình đang ở
đỉnh cao của danh vọng. Những cuốn tiểu thuyết như The Pickwick Papers, Oliver
Twist và Nickolas Nickleby được công chúng đón nhận nồng nhiệt; còn cuốn Martin
Chuzzlewit mà ông xem là đứa con tinh thần hoàn hảo nhất đang được xuất bản
hàng tháng. Nhưng nhà văn được mọi người ca tụng này lại đang phải đối mặt với
những khoản nợ nần chồng chất.

Một vài tháng trước, nhà
xuất bản đã cho biết số lượng sách của ông bán ra không cao như mong đợi và có
lẽ, họ phải cát giảm số lượng sách xuất bản hàng tháng của ông trong những đợt
bán sách sắp tới.

Thông tin đó khiến ông
vô cùng kinh ngạc. Với ông, điều này chẳng khác nào tài năng của ông đang bị
người ta đặt dấu hỏi. Ký ức về tuổi thơ nghèo khó bỗng chốc ùa về trong tâm trí
ông. Dickens đang phải gồng gánh một gia đình lớn, đa thế hệ. Những khoản chi
tiêu trong gia đình luôn vượt quá số tiền ông kiếm được. Cha và các anh em của
ông đang nợ nần chồng chất. Vợ ông, Kate, đang chuẩn bị chào đón sự ra đời của
đứa con thứ năm.

Cả mùa hè, Dickens không
thôi lo lắng về tập hóa đơn ngày càng dày, đặc biệt là khoản thế chấp lớn mà
ông dùng chính ngôi nhà đang ở làm vật thế nợ. Ông dành thời gian đi đến khu
nghỉ mát dọc bờ biển nhưng không thể tìm cho mình một giấc ngủ sâu, vì thế ông
thường đi bộ dọc các vách đá hàng giờ liền. Ông hiểu rằng mình cần một ý tưởng
giúp kiếm được một khoản tiền lớn và ông muốn ý tưởng đó đến với ông thật
nhanh. Nhưng với tâm trạng chán chường như hiện tại, viết một đoạn văn ra hồn
cũng là một việc khó khăn với Dickens. Sau khi tới Luân Đôn, ông hy vọng rằng
những phút giây đi dạo khi đêm về sẽ gợi mở trí tưởng tượng cho ông.

Ánh đèn đường nhạt nhòa
dẫn lối Dickens bước vào những vùng lân cận Luân Đôn. Khi ông tới gần sông
Thames, ánh sáng duy nhất lúc này là ánh đèn từ ô cửa sổ của khu dân cư xập xệ
soi xuống con đường ngập ngụa rác thải và những đoạn cống mới thông vẫn chưa
kịp đóng nắp. Không còn bóng dáng của các quý bà duyên dáng và các quý ông sang
trọng, ở đây chỉ toàn nhan nhản những cô gái bán hoa tục tĩu, những tay móc túi
chuyên nghiệp, trộm cướp và ăn xin la liệt trên đường.

Khung cảnh Âm đạm ấy
khiến ông nhớ đến cơn ác mộng thường xuyên quấy nhiễu giấc ngủ của mình: Một đứa
trẻ 12 tuổi ngồi bên bàn làm việc chất đầy những hộp xi đánh giày màu đen. 12
giờ một ngày, 6 ngày một tuần, nó ngồi dán nhãn lên đống hộp chồng chất chỉ để
kiếm 6 si-linh duy trì sự sống.

Nhìn xuống dưới sàn nhà
kho mục nát, thằng bé phát hiện ra một hầm rượu - vương quốc lý tưởng cho bọn
chuột. Ngước mắt lên, nó chi thấy một khung cửa sô đầy bụi và đẫm hơi sương giả
mùa đông. Anh sáng mờ ảo hệt như hy vọng về cuộc đời của nó. Cha nó đang ngồi
tù vì thiếu nợ, và nó chỉ được một giờ tới trường trong thời gian nghi giải lao
mỗi bữa tối ở nhà kho đó. Nó cảm thấy vô vọng, thế giới như đang khép chặt
trước mặt nó. Có lẽ sẽ chẳng bao giờ còn có những buổi lễ, niềm vui hay hy vọng
nào nữa...

Đó cũng chính là những
năm tháng tuổi thơ khốn khổ của Dickens. May mắn thay, cha của Dickens được
thừa kế một số tiền đủ để ông trả hết nợ nần, thoát cảnh tù tội, cậu con trai
nhỏ cũng nhờ thế mà thoát khỏi số phận thê lương.

Lúc này đây, nỗi sợ
không trả nổi nợ nần lại đeo bám giày vò Dickens. Mệt mỏi và buồn chán, ông rẽ
về nhà sau một chuyến đi dài. So với lúc bước chân ra đi, trong đầu ông vẫn
chưa tìm ra được ý tưởng nào cho câu chuyện “vui vẻ và sinh động” mà ông đang
từng giờ mong ngóng.

Tuy nhiên, khi gần về
tới nhà, trong đầu Dickens bỗng lóe lên một ý tưởng bất ngờ. Một câu chuyện về
ngày lẻ Giáng sinh thì sao nhỉ? Ông sẽ viết một câu chuyện vẻ cuộc sống của
những người mà ông vừa đi ngang qua họ trên con đường tối om ở thành phố Luân
Đôn. Những con người đó cũng giống như ông, đang sống và chiến đấu từng ngày
với cùng một nỗi sợ hãi và khát khao mà ông rất hiểu. Những con người đói khát
niềm vui và hy vọng!

Nhưng còn chưa đầy 3
tháng nữa thôi là Giáng sinh rồi. Làm thế nào ông có thể hoàn thành một cuốn
tiểu thuyết tuyệt vời trong khoảng thời gian ngắn ngủi như thế? Cuốn sách cần
phải ngắn, thậm chí không thể là một cuốn tiểu thuyết hoàn chỉnh. Nó cần phải
được hoàn thành vào cuối tháng 11 để có thể in và xuất bản đúng dịp Giáng sinh.
Để rút ngắn thời gian, ông nảy ra ý tưởng là lấy câu chuyện hồn ma trong mùa
Giáng sinh từ một chương trong cuốn the Pickwick Papers.

Ông sẽ thêm vào câu
chuyện những hình ảnh và nhân vật mà độc giả của ông yêu thích. Đó sẽ là một
đứa trẻ nhỏ bé và yếu ớt, một người cha lương thiện nhưng bất lực và trung tâm
của câu chuyện là một nhân vật phản diện sống ích kỷ, một ông già mũi to với gò
má nhản nheo.

Khi những ngày tháng 10
ấm áp qua đi nhường chỗ cho cái lạnh se sắt của mùa đông, bản thảo của Dickens
ngày một dày lên, ông đang tiến gần đến việc hoàn thành tác phẩm của mình. Với
cuốn sách này, trẻ nhỏ cũng có thể đọc và hiểu bởi cốt truyện rất đơn giản, bên
cạnh đó nó vẫn đủ sức khơi dậy dòng ký ức và cảm xúc ấm áp nơi trái tim những
người trưởng thành.

Sau khi trở về căn hộ
lạnh lẽo và thiếu sinh khí trong đêm Giáng sinh, Ebenezer Scrooge -một thương
nhân hà tiện ở Luân Đôn - đã có buổi gặp gỡ với linh hồn của một người bạn đã
khuất, Jacob Marley. Chính sự tham lam và vô cảm với đồng loại khi còn sống đã
khiến linh hồn của Marley không thể siêu thoát mà phải lang bạt khắp nơi với
hàng mớ dây xích chằng chịt quanh người. Ông ta khuyên Scrooge nên thay đổi,
nếu khống sẽ phải chịu một số phận nghiệt ngã tương tự. Những linh hồn từ Giáng
sinh đã qua, Giáng sinh hiện tại và cà những mùa Giáng sinh sắp tới lần lượt
hiện về và tải hiện trước mắt Scrooge cuộc sống ích kỷ, thiếu tình thương yêu
của họ, đồng thời nhắc nhở một tương lai khốn khổ đang chờ đón nếu Scrooge không
thay đổi cách sống. Ăn năn và hối hận, Scrooge đã từ bỏ lối sống ích kỷ, quyết
tâm trở thành người tốt bụng, rộng lượng và giàu tình yêu thương. Đây chính là
những bài học, những giá trị thấm thía mà ông học được từ lễ Giáng sinh.

Dần dần, trong quá trình
viết văn, một điều gì đó bất ngờ đã xảy đến với Dickens. Không biết tự lúc nào,
kế hoạch liều lĩnh có chủ ý nhằm mục đích giải cứu ông khỏi cảnh nợ nần - mà
theo cách ông nói chỉ là “một kế hoạch nho nhỏ” - đã sớm tạo ra sự thay đổi
trong con người ông. Khi ngời bút dần vẽ ra mùa Giáng sinh mà ông ấp ủ - bữa
tiệc gia đình ấm áp, những nhánh tầm gửi treo trên trần nhà, bài hát vui vẻ
mừng Giáng sinh, những trò chơi, điệu nhảy và những món quà bất ngờ; những bữa
tiệc thịnh soạn có ngỗng quay, bánh put- đinh, bánh mì nóng hổi, và tất cả mọi
người cùng cất cao tiếng cười trước cây Noel rực rỡ đèn hoa - chính niềm vui từ
mùa Giáng sinh an lành đã làm dịu vơi bao lo toan đang đè nặng trong lòng
Dickens.

A Christmas Carol (Khúc
hát mừng Giáng sinh) đã chiếm trọn trái tim và tâm hồn ông. Tác phẩm đã trở
thành đứa con tinh thần xuất phát từ niềm đam mê đích thực. Mỗi khi ông chấm
bút xuống lọ mực, nhân vật của ông lại dần bước ra cuộc sống: Tiny Tim nhỏ bé
với cái nạng bên mình, Scrooge chìm đám trong nỗi sợ hãi trước những bóng ma,
Bob Cratchit tận hưởng cốc bia Giáng sinh trong sự nghèo đói.

Mỗi buổi sáng, Dickens cảm
thấy vô cùng phấn khích và không thể ngăn mình bắt tay ngay vào công việc.
"Cuốn sách nhỏ bé đó đã thực sự rung động trái tim tôi, khiến tôi khó có
thể rời nó dù chỉ một lúc”, ông đã trả lời như thế với một nhà báo. Một người
bạn, đồng thời cũng là người viết tiểu sử về Dickens sau này, John Forster,
từng viết về “sự chi phối lớn lao” của cuốn sách đối với nhà văn. Khi trò
chuyện với một giáo sư ở Mỹ về sự ra đời của tác phẩm, Dickens kể lại rằng ông
từng khóc rồi lại cười trong lúc sáng tác. Thậm chí, đích thân Dickens đã đứng
ra đảm nhận việc thiết kế cho cuốn sách. Ông quyết định bìa sách phải dán tem
vàng, trang bìa giả sẽ có màu truyền thống đặc trưng cho mùa Giáng sinh còn bìa
lót phải có màu sắc sặc sỡ, ngoài ra còn phải có bốn bản khác axit phun màu thủ
công và bốn bản khắc gỗ được chạm trổ. Đề cuốn sách có thể đến tay của đồng đảo
độc giả, ông đã đưa ra mức giá chỉ có năm si-linh mỗi cuốn.

Cuối cùng, vào ngày 2
tháng 12, đứa con tinh thần của ông cũng chào đời. Bản thảo ngay lập tức được
gửi đi in. Vào ngày 17 tháng 12, sách được phát hành và cái tên Dickens lại
được mọi người yêu mến đón đợi. Mặc dù đoán biết rằng cuốn sách sẽ được độc giả
đón nhận nồng nhiệt, nhưng cả ông và nhà xuất bản đều không ngờ họ lại nhận
được sự phản hồi lớn lao và mạnh mẽ từ phía độc giả đến thế.

Ấn bản đầu tiên gồm
6.000 quyển đã bán hết ngay trong dịp Giáng sinh, và khi thông điệp ấm áp của
cuốn sách nhỏ lan rộng, sau này Dickens nhớ lại rằng ông đã nhận được “vô số
bức thư qua đường bưu điện”. Tất cả đều đến từ những độc giả của ông. Họ đã
viết về gia đình và tổ ấm của họ, rằng họ đã đọc to cuốn sách thế nào và cuốn
sách được họ giữ gìn cẩn thận trên giá sách ra sao. Nhà văn William Makepeace
Thackeray đã tán dương cuốn A Christmas Carol rằng: “Dường như cuốn sách đã trở
thành tài sản quốc gia

không chi với cá nhăn
tôi mà còn với tất cá những người đàn ông và phụ nữ đã tìm thấy ở đó một tăm
lòng nhăn ái”.

Tuy dư luận đánh giá rất
cao vẻ cuốn sách, nhưng vẻ mặt tài chính, nó không đem lại thành công lớn như
Dickens mong đợi. Lý do là vì ông yêu cầu chất lượng cuốn sách quá cao trong
khi giá bán đẻ nghị lại khá thấp. Nhưng dù sao, cuốn sách cũng mang về cho ông
một khoản tiền đủ để ông vượt qua thời gian khó khăn. Thêm vào đó, cuốn sách
được yêu mến cũng khuyến khích độc giả mua thêm những cuốn truyện khác đồng
thời mở ra một hướng đi mới cho cuộc đời và sự nghiệp của Dickens.

Mặc dù nghiệp văn của
Dickens được đánh dấu bằng sự thành công của không ít cuốn sách vừa chất lượng,
vừa đem lại một khoản lợi nhuận to lớn như David Copperfield, A Tale of Two
Cities và Great Expectations, nhưng không gì có thể sánh với niềm vui và sự mán
nguyện mà ông có được từ cuốn sách nhỏ này. Và khi ông qua đời vào năm 1870,
người ta nghe thấy một đứa trẻ nghèo ở Luân Đôn cất tiếng hỏi: “Ông Dicken mất
rồi ư? Vậy Cha Giáng sinh cũng mất luôn ư?”.

Trên thực tế, rất nhiều
tập tục trong đêm Giáng sinh đã được phổ biến rộng rái nhờ cuốn sách của
Dickens như những cuộc hội họp gia đình, đồ ăn thức uống cùng với tục lệ tặng
quà. Thậm chí, cuốn sách này còn làm giàu thêm cho ngôn ngữ tiếng Anh bằng cụm
từ “Scrooge” hay qua cách nói “Hừ! Trò bịp bợm!” (Bah! Humbug!) khi ai đó cảm
thấy bực tức hoặc hoài nghi. Và cụm từ “Chúc mừng Giảng sinh” (Merry Christmas)
cũng trở thành cách nói phổ biến sau khi câu chuyện này ra đời.

Quả thực, cuộc sống luôn
chứa đựng nhiều điều bất ngờ. Vào những lúc rối bời, thiếu niềm tin và mất
phương hướng, đôi khi con người lại khám phá ra những thành tựu vĩ đại nhất.
Giữa bão bùng khốn khó đớn đau, con người lại được khích lệ bằng một món quà vô
giá. Với Charles Dickens, cuốn tiểu thuyết nhỏ về ngày Giáng sinh không chỉ đem
lại niềm tin vào chính bản thân mà còn đem lại sự tin tưởng vào niềm vui dâng
tràn của một mùa an lành ấm áp.

- Thomas J. Burns

Nghệ thuật quản lý khách sạn

Trí tưởng tượng còn quan
trọng hơn cả kiến thức.

- Albert Einstein

Trong tiếng Anh, từ
“ritz” hay “ritzy” được dùng để chỉ sự sang trọng, lịch lãm. Đây cũng là tên
gọi của một người đàn ông Thụy Sĩ - César Ritz - người mà trình độ học vấn chỉ
dừng lại ở những phép toán đơn giản, nhưng ông lại là một trong những người đặt
nền móng cho việc đưa quản trị khách sạn trở thành một nghệ thuật. Ngày nay,
bạn có thể thấy dấu ấn của ông trên rất nhiều phương diện, ở bất cứ khách sạn
nào lấy tiện nghi và thẩm mỹ làm điểm nhấn.

Ritz sống vào thời kỳ
chuyển giao giữa hai thế kỷ, khi người phụ nữ bắt đầu lên tiếng đòi quyền bình
đẳng, ông đã khuyến khích, giúp họ thoát khỏi những luật lệ tù hãm dưới thời nữ
hoàng Victoria. Vào cuối thế kỷ 19, khi ông đặt chân tới Luân Đôn, không người
phụ nữ xuất thân từ gia đình gia giáo nào dám để người khác nhìn thấy mình dùng
bữa tối nơi công cộng. Khi đó, Ritz đã thuyết phục một số quý bà có địa vị cao
như phu nhân Công tước Devonshire hay quý bà Dudley tới dùng bữa tối tại khách
sạn của ông. Những người khác lần lượt học theo và chỉ một thời gian ngắn sau
đó, ăn tối tại Savoy Carlton đã trở thành một nghi thức xã giao bắt buộc.

Ritz là người tiên phong
trong việc đưa vào sử dụng những chiếc đèn mờ để khơi dậy tối đa vẻ đẹp làn da
và nhấn mạnh nét duyên dáng từ những nếp áo của người phụ nữ. Ông sắp xếp phòng
ăn trong khách sạn của mình sao cho phụ nữ có thể vào ngay sau khi bước lên
những bậc thang ngắn. Rồi ông cùng người bếp trưởng nổi tiếng, Auguste
Escoffier, chế biến rất nhiều món ăn dường như chỉ dành riêng cho phụ nữ. Thêm
nữa, ông còn đưa âm nhạc vào phục vụ bữa tối - đây là điều lần đầu tiên xuất
hiện ở Luân Đôn. Không những thế, Ritz luôn là một người cầu toàn, ông thường
chọn dàn hợp xướng của Johann Strauss để đem lại cho các vị khách của mình
những giai điệu mượt mà du dương nhất.

César Ritz sinh ra tại
một vùng núi thuộc Niederwald, Thụy Sĩ. Ông đi làm từ năm 16 tuổi tại phòng ăn
của khách sạn trong một thành phố gần đó. Mấy tháng sau, ông bị đuổi việc.
“Kinh doanh khách sạn đòi hỏi nhân viên phải có năng khiếu - đó chính là khả
năng quan sát tinh nhạy, trong khi đó cậu lại không có một chút năng khiếu nào.”
- Quản lý đã nhận xét về ông như vậy.

Sau đó, Ritz kiếm được
một công việc thứ hai là bồi bàn, và thêm một lần nữa ông lại bị sa thải. Ông tới
Paris, ở đây ông kiếm được hai công việc mới và rồi lại mất việc như những lần
trước. Sự nghiệp của ông chỉ thực sự bắt đầu với công việc thứ năm, trong một
nhà hàng nhỏ lịch lãm gần Madeleine. Ở đây, ông đã leo lên từng bậc, từ vị trí
hầu bàn phụ tới bồi bàn và cuối cùng là quản lý. Khi ông chủ mời ông hợp tác
làm ăn, ông mới 19 tuổi. Với bất cứ một thanh niên trẻ tuổi nào, đây chính là
một cơ hội tuyệt vời. Nhưng lúc đó Ritz hiểu rằng mong muốn thực sự của mình là
thế giới của những người vĩ đại và những món ăn tuyệt vời.

Vì thế, cởi bỏ chiếc tạp
dề, ông bước xuống con đường dấn tới nhà hàng hàng đầu thời bấy giờ là Voisin’s
rồi xin vào làm phụ hầu bàn - một vị trí gần như thấp kém nhất. Ông quan sát và
học hỏi. Ông học cách làm món vịt quay và thịt nướng, cách rót rượu vang đỏ;
cách chuẩn bị đồ ăn vừa đẹp mắt vừa ngon miệng.

Vào năm 1871, Ritz rời
Paris. Trong ba năm sau đó, ông kiên trì làm việc và rèn giũa kỹ năng ở những
khách sạn thời thượng tại Đức và Thụy Sĩ. Sau thời gian này, ông trở thành quản
lý của Rigi-Kulm - một khách sạn nổi tiếng vì quang cảnh đẹp và đồ ăn tuyệt hảo
gần dãy Alpine. Một ngày, hệ thống sưởi của khách sạn bị chập nổ. Ngay lúc đó,
ban quản lý khách sạn nhận được tin 40 vị khách người Mỹ giàu có đang trên
đường tới dùng bữa trưa.

Nhiệt độ trong phòng ăn
giảm xuống một cách rõ rệt. Ngoài trời đang rất lạnh. Khoác lên mình chiếc áo
choàng, rất nhanh, Ritz yêu cầu chuyển các bàn ăn trưa sang phòng vẽ - phòng
này có rèm cửa màu đỏ, trông ấm áp hơn. Trong bốn chiếc thùng lớn bằng đồng mới
được mua để trồng cọ, Ritz tưới rượu vào và châm lửa. Gạch nhanh chóng được bỏ
vào lò.

Khi đoàn khách tới, căn
phòng đã ấm lên đáng kể, và dưới chân mỗi vị khách đều đặt một hòn gạch nóng có
vải lanen bọc ngoài. Bữa ăn là kiệt tác trong tiết trời giá lạnh, mở đầu bằng
nước dùng nóng có vị cay và kết thúc bằng bánh Suzette của Pháp mới ra lò.

Khả năng phản ứng nhanh
nhạy của Ritz được những người có mặt tại khách sạn hôm ấy không ngừng truyền
tai nhau và nhanh chóng lan rộng khắp nơi. Cuối cùng, tin đồn tới tai chủ của
một khách sạn lớn ở Lucerne đúng vào thời gian khách sạn này đang trên đà thua
lỗ. Ngay sau đó, Ritz được mời trở thành quản lý trưởng của khách sạn. Trong
hai năm, chàng thanh niên 27 tuổi này đã khiến khách sạn làm ăn ngày càng phát
đạt.

Ritz từng nói: “Con
người luôn muốn được phục vụ nhưng họ muốn được phục vụ một cách thầm lặng”.
Ông đưa ra bốn quy tác nổi tiếng đối với một người quản lý khách sạn hiện đại:
Phải quan sát tất cả dù không cần nhìn, phải biết tất cà dù không cần nghe,
phải chu đáo mà không gây phiền toái và phải tích cực mà không vượt quá quyền
hạn của mình.

Nếu một vị khách than
phiền về khoản tiền trong hóa đơn quá cao, ông sẽ mỉm cười thân ái, đem tờ hóa
đơn đi và quên không đem nó trở lại. Nếu khách dùng bữa không hài lòng với món
thịt hay rượu thì chúng sẽ được dọn khỏi bàn ăn. Ritz có một trí nhớ rất tuyệt
vời. Ông nhớ chính xác vị khách nào thích nhân hiệu xì gà của Thổ Nhĩ Kỳ và vị
khách nào thích vị cay tương ớt, và khi những vị khách này tới thì các món trên
đã chuẩn bị sấn sàng chờ họ.

Ông cũng dành nhiều ưu đãi
cho những khách hàng thân thiết. Vị khách cao lớn sẽ được trang bị trong phòng
một chiếc giường dài hai mét rưỡi để họ có thể nghỉ ngơi một cách thoải mái. Bà
Smith không thể chịu nổi hoa sẽ không bao giờ bị chúng làm phiền; còn bà Jones
thích vườn tược lại luôn tìm thấy một bó hoa trên khay đồ ăn sáng.

Vào năm 1892, Ritz tới
Luân Đôn để tiếp quản khách sạn Savoy đang gặp khó khăn vẻ mặt tài chính. Sự
hài lòng của khách hàng đã khiến khách sạn thoát khỏi tình trạng nợ nần trong
một thời gian ngắn. Tuy nhiên sau đó, khó khăn lại trở lại. Ritz đã cẩn thận đi
kiểm tra từng phòng và làm lại những chiếc giường để đảm bảo rằng chúng hoàn
hảo. Một lần, khi kiềm tra phòng ăn, ông ngửi thấy mùi xà phòng trong một chiếc
ly và ông đã nghiêm khắc yêu cầu nhân viên rửa lại hàng trăm chiếc.

Một lần khác, trong khi
đang thiết kế lại cách bài trí của dãy phòng cưới, ông bỗng thấy một chiếc đèn
chùm bằng đồng thò ra từ trần nhà và cảm thấy vô cùng khó chịu. Thế là ông loay
hoay tìm cách khác để thắp sáng căn phòng một cách thẩm mỹ hơn. Đúng lúc đó,
một ý tưởng nảy sinh khi ông nhìn thấy một gờ trần lồi ra. Ông đặt chiếc đèn
vào sau những chiếc gờ, và cũng từ đây ánh sáng gián tiếp mới được biết đến.

Trong khi thu xếp một
bữa tiệc cho Alfred Beit - vị vua giàu có của xứ Nam Mỹ, Ritz đã cho trang
hoàng lại phòng khiêu vũ của khách sạn Savoy, biến nó thành một Venice thu nhỏ.
Các vị khách được phục vụ chẳng khác nào đang được nằm tận hưởng trên những con
thuyền đáy bằng lờ lững trồi trên sông đào giữa thành phố Venice.

Thời vàng son của Ritz
tại khách sạn Savoy kết thúc sau một cuộc cãi vã giữa ông và các giám đốc. Ông
trở lại Paris thân thương và nhận ra giấc mơ mình từng ấp ủ bao năm qua. Ông
quyết định mở một khách sạn tuyệt vời nhất ngay tại quảng trường Place Vendôme.
Để rủ rê những kẻ lười biếng chịu nhấc chân dạo bước, ông đã thiết kê một hành
lang nhỏ. Để khuyến khích những cuộc chuyện trò nhâm nhi bên tách trà và cà
phê, ông đã thiết kế một khu vườn. Mong muốn sự sạch sẽ, ông sơn tường thay vì
dán giấy bởi sơn có thể dễ dàng lau rửa. Để có được những thiết kế vừa ý và
sang trọng nhất, ông đã tới cung điện Versailles  và Fontainebleau.
Còn cách phối màu là do ông học hỏi từ một bức vẽ của họa sĩ Van Dyck.

Sự sáng tạo của ông còn thể
hiện ở số phòng được trang bị phòng tắm riêng. Trong ngày khai trương, khách
hàng xếp hàng dọc các hành lang như du khách chờ vào viện bảo tảng, vì ai cũng
muốn nhìn ngắm những phòng tắm riêng tư đó.

Thành công của Ritz ở
Paris không còn gì để bàn cãi. Trong một thực đơn cho bữa tối do nhân viên của
Ritz còn lưu giữ có bút tích của bốn vị vua, bảy hoàng tử và vô số quý tộc.
Ritz luôn cẩn trọng để ý đến tình hình và giá cả.

Ở đây, Ritz chính là
người khởi xướng trang phục truyền thống cho ngành kinh doanh khách sạn: nơ
trắng cho bồi bàn, nơ đen cho ông chủ khách sạn. Ông cũng đưa cho nhân viên
trực tầng những chiếc cúc đồng.

Những năm đầu thế kỷ 20,
Ritz đã xây dựng và khai trương khách sạn Carlton ở Luân Đôn. Một vài năm sau
đó, ông mở thêm khách sạn ở Piccadilly, lấy tên mình đặt cho khách sạn. Đây là
khách sạn đầu tiên ở Anh sử dụng vật liệu khung thép và được Ritz lấy cảm hứng
từ kết cấu của tháp Eiffel. Một nhóm các chuyên gia tài chính đã cùng Ritz tham
gia thành lập Ritz Hotel Development Corporation. Công ty này đã xây dựng phần
lớn các khách sạn của Ritz ở khắp nơi trên thế giới.

Vào tháng 10 năm 1918,
trước phút lâm chung, Ritz đã thì thầm với vợ ông rằng: “Hãy chăm sóc cho con
gái chúng ta”. Họ có hai con trai nhưng không có con gái. “Con gái ” mà ông ám
chỉ ở đây chính là Khách sạn Ritz tại Paris.

- George Kent

Người lính không quen

Tôi mong muốn sống một
cuộc đời thật ý nghĩa. Vì thế, nếu tôi có thể làm điều gì để giúp đỡ mọi người,
hãy để tôi làm điều đó ngay từ bây giờ.

- William Penn

Một hôm, khi đang quá
cảnh chuyến bay ở Chicago, tôi gọi điện thoại cho vợ báo là mình sắp về đến
nhà.

Trong lúc đang nói
chuyện với vợ thì tôi nghe thấy ở buồng điện thoại bên cạnh, một người lính trẻ
cũng đang gọi điện thoại cho mẹ:

- Mẹ ơi, con không biết
phải làm sao nữa. Họ vừa cho con biết họ sẽ không đổi vé máy bay nếu con không
bù thêm tiền, mà hiện giờ trong túi con không còn đồng nào cả.

Sau một lúc im lặng, anh
nói tiếp:

- Mẹ gọi lại cho con sớm
nhé. Con đang đứng ở trạm điện thoại công cộng. Số điện thoại ở đây là....

Người lính trẻ gác máy,
trên gương mặt anh lộ rõ nét lo lắng. Anh đứng bên cạnh trạm điện thoại, sốt
ruột chờ mẹ gọi lại.

Tôi nói tạm biệt với vợ
rồi quay sang chàng trai trẻ đang đứng bên cạnh, hỏi:

- Xin lỗi! Anh có thể
cho tôi hỏi, anh đang cần bao nhiêu tiền vậy, anh lính?

- Thưa ông, tôi chỉ còn
thiếu hai mươi đô-la để về đến nhà. - Anh đáp.

Tôi lấy ví trong túi của
mình ra và nói:

- Nhân danh đất nước
chúng ta, tôi rất hân hạnh được tặng anh hai mươi đô-la này.

Người lính nhìn tôi rồi mỉm
cười. Anh nhận lấy tiền và nói:

- Cám ơn ông!

Tôi cũng mỉm cười đáp
lại anh:

- Giờ thì chúng ta về
nhà thôi!

- Terry Paulson

HẾT

Thực
hiện bởi

nhóm
Biên tập viên Gác Sách:

sienna
– vuthungoc –
nangmualachuyencuatroi

(Tìm
- Chỉnh sửa - Đăng)

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3