Thủy Hử - Chương 38 - Phần 1
Hồi 38
Gác Tầm Dương đề thơ tâm huyết;
Chốn Lương Sơn nghe nỗi kinh hoàng
Bấy giờ
Tống Giang cùng Đới Tung thấy chủ hàng toan đi trình quan thì lấy lời xếp dẹp
im đi, rồi nhất diện dùng các phép để cứu người con gái tỉnh dậy.
Sau bố
mẹ người con gái đến đó, nghe nói đến tên Hắc Toàn Phong thì lặng người kinh sợ,
mà không dám phàn nàn nói một câu gì. Tống Giang hỏi mụ già rằng:
- Nhà
mụ tên họ chi? Người ở đâu?
Mụ già
đáp rằng:
-
Chúng tôi là người họ Tống, quê ở Kinh Sư, hai vợ chồng già; chỉ có một người
con gái này, phải cho đi hát xướng kiếm ăn. Nhân vì tính nó cấp bách, không hiểu
các ngài đương nói chuyện, nên mới đường đột vô lễ, để đến Ca Ca đánh đập như vậy,
thực đau đớn cho mẹ con tôi quá nỗi!
Tống
Giang nghe nói liền bảo rằng:
-
Ngươi cho người theo đến nhà ta, ta sẽ cho hai mươi lạng bạc để làm vốn kiếm
ăn, rồi kiếm người tử tế, gả bán cho nó nương tựa, khỏi phải đi hát xướng khó
nhọc như thế nữa.
Hai vợ
chồng mụ già cảm tạ mà nói rằng:
-
Chúng tôi đâu dám xin ngài nhiều thế.
Tống
Giang nói:
- Được,
ta đã hứa, là ta cho đủ, không ngại điều chi. Bảo con ngươi cứ theo ta mà lấy.
Hai
người vâng lời cảm tạ vô cùng, Đới Tung trách giận Lý Quỳ mà rằng:
- Hắn
đi đến đâu, chỉ chực sinh sự đánh nhau, để Ca Ca phí tổn biết bao nhiêu tiền bạc...!
Lý Quỳ
nói rằng:
- Tôi
chỉ sẽ để tay vào một tí, mà nó đã ngã ngay, xưa nay chưa thấy đứa nào yếu đuối
thế bao giờ? Bây giờ cho bác đánh tôi trăm cái tát vào mặt tôi, xem tôi có cần
gì không?
Tống
Giang cùng mọi người nghe nói, đều cười ồ cả lên, Trương Thuận gọi tửu bảo lên
bắt tính tiền hàng để nhận trả. Tống Giang nhất định không nghe mà rằng:
- Tôi
mời bác đến đây uống rượu, có lẽ nào lại để bác trả tiền cho tiện.
Trương
Thuận cũng nhất quyết trả tiền, mà rằng:
- Mấy
khi tôi gặp được Ca Ca... khi ngài còn ở Sơn Đông, hai anh em tôi đã bao phen
toan may trời xui nhân huynh đến đây, cho chúng tôi được gặp, xin nhân huynh cứ
cho thế mới được.
Đới
Tung cũng khuyên Tống Giang rằng:
-
Trương Nhị Ca đã có lòng kính đãi như thế, xin nhân huynh cũng nể lòng mà nhận
lời cho là hơn.
Tống
Giang vâng lời mà đáp rằng:
- Nếu
vậy thì lần sau tôi xin đáp lễ lại.
Trương
Thuận cả mừng, liền xâu hai con cá, rồi cùng Đới Tung, Lý Quỳ, và lão già họ Tống
kia, mà cùng đưa chân Tống Giang về dinh. Khi về đến phòng giấy trong dinh, Tống
Giang lấy ra hai mươi lạng bạc, đưa cho lão già họ Tống về trước, rồi cùng ngồi
nói chuyện với nhau.
Một
lát trời gần tối, Tống Giang liền lấy bức thư của Trương Hoành, đưa cho Trương
Thuận, rồi Trương Thuận để hai con cá lại cho Tống Giang, và từ biệt ra về. Tống
Giang lại lấy một đĩnh năm mươi lạng bạc đưa cho Lý Quỳ mà bảo rằng:
- Anh
em hãy cầm lấy để mà tiêu dùng.
Lý Quỳ
nhận lấy, rồi cùng Đới Tung từ biệt Tống Giang mà trở về trong thành. Bấy giờ Tống
Giang đem một con cá đưa biếu Quản Doanh, còn một con để nấu canh ăn. Tống
Giang ăn cá tươi ngon miệng, ham ăn cá nhiều đến nỗi canh tư đêm ấy sinh ra chứng
đau bụng đi rửa. Từ đấy đến sáng, chàng đi tả có tới hai mươi lần, mê mệt nằm ở
trong phòng không sao dậy được. Các người trong doanh vẫn yêu thích Tống Giang
là người tử tế xưa nay, liền đem cơm cháo mà chữa chạy đỡ vực Tống Giang. Ngày
hôm sau, Trương Thuận thấy lính Tống Giang thích ăn cá tươi, lại xách vào hai
con nữa để biếu, và tạ ơn bức thư Trương Hoành một thể. Khi vào tới nơi, thấy Tống
Giang đương bị bệnh nằm ở bên giường, các tù đồ hầu hạ trông nom ở trong phòng,
liền nói với Tống Giang để mời thầy về chữa. Tống Giang bảo Trương Thuận rằng:
- Tôi
chỉ vì ăn nhiều cá, sinh ra thương thực mà đau bụng, vậy bất tất phải uống thuốc,
chỉ uống một thang hòa hợp, cũng có thể khỏi được ngay.
Nói đoạn,
bảo Trương Thuận đem hai con cá, một con đưa cho Vương Quản Doanh, một con đưa
cho Triệu Sai Bát, Trương Thuận vâng lời đem biếu hai người: Rồi quay ra cân một
thang thuốc hào hợp đem đến, bảo tù đồ sắc thuốc cho Tống Giang rồi mới trở về.
Ngày
hôm sau, Đới Tung mua sắm rượu chè, dắt Lý Quỳ đem đến phòng giấy, định để thiết
đãi cảm vừa khỏi, nên không dám thiết, bèn cùng nhau ngồi ở ngoài phòng để ăn uống,
đến chiều ai nấy về nhà.
Tống
Giang tĩnh dưỡng được dăm bảy ngày, thấy trong mình đã hơi khoe khỏe, thì có ý
mong Đới Tung đến chơi, mà không thấy đến, Ngày hôm sau Tống Giang lại đi vào
thành để tìm Đới Tung. Khi tới trong thành hỏi thăm nhà Đới Viện Trưởng, thì phố
sá đều nói rằng:
- Ông
ta không có vợ con nhà cửa, chỉ trú tạm ở am Quan Âm bên cạnh vách miếu Thành
Hoành gần đó.
Tống
Giang vội vàng tìm tới nơi, thì đã thấy khóa cửa đi vắng. Chàng liền quay ra
tìm hỏi nhà Hắc Toàn Phong, thì thấy nói rằng anh ta không có nhà cửa, cũng
không trọ ở đâu, vẫn cứ quanh quẩn ở trong nhà lao, khi rồi thì lại ở chỗ này
vài hôm, ở chỗ khác vài hôm, không biết đâu mà tìm được. Tống Giang nghe nói,
thì lại hỏi thăm nhà Trương Thuận, thì có người nói, hắn vẫn ở làng xóm ngoài
thành, chỉ trừ khi có thu nhặt tiền nong mới vào thành mà thôi. Tống Giang lại
vội vàng quay ra nẻo bờ sông để tìm Trương Thuận.
Chàng
đương một mình vơ vẩn, xem ngắm cảnh vật bên sông, chợt thấy một tòa tửu lâu ở
trước mặt, bên cửa treo một lá cờ viết mấy chữ "Hiệu Chính sông Tầm
Dương" giữa lúc hiên chạm treo một biển để ba chữ "Lầu Tầm
Dương" chữ của ông Tô Đông Pha viết rất lớn. Nghĩ đoạn liền bước tới nơi,
thấy hai bên cửa đỏ bên lầu đều có biển trắng, mỗi bên viết năm chữ: "Lầu
lớn trong thiên hạ: Rượu ngon nhất thế gian!" Tống Giang lên trên gác, chọn
một chỗ ngồi, gần phía ngoài sông, rồi tựa hàng lan can, nom ra phong cảnh khen
ngợi vô cùng. Một lát tên tửu bảo chạy lên bảo rằng:
- Quan
nhân định đợi ai, hay tiêu khiển một mình?
Tống
Giang nói:
- Ta
còn đương đợi hai ông khách nữa, mà chưa thấy đến. Ngươi hãy lấy một be rượu và
một ít thức nhắm lên đây, đừng lấy cá mới được.
Tửu bảo
vâng lời đi xuống gác; một lát mang lên một be rượu Lam Kiều Phong Nguyệt, và lấy
các thức rau quả, thịt gà dê bày lên bàn. Tống Giang nom thấy bàn đỏ đũa đỏ thức
ăn sạch sẽ ngon lành, thì trong bụng vui mừng mà rằng: "Thế này mới thực
là phong cảnh Giang Châu! Ta tuy bị tội đến đây, song ngắm những sơn thủy thế
này, dẫu đến danh sơn cổ tích xứ mình, cũng không sao mà ví được? "
Chàng
nghĩ vậy liền rót rượu vui uống một mình, mà bất giác say sưa quá độ. Bấy giờ
trong bụng nghĩ rằng: Ta sinh ở đất Sơn Đông lớn lên ở đất Vận Thành, làm Lại
xuất thân, kết thúc kể biết bao giang hồ hảo hán. Trong bấy nhiêu lâu tuy chưa
lưu được một cười hư danh, song hiện nay công nghiệp cũng chẳng ăn thua, lại
còn bị tội đày ải đến đây, khiến cho ta bao giờ về được cố hương mà trông thấy
phụ huynh tôn tộc! Nghĩ đến đó thì lấn lòng cố quân tha hương, xúc cảnh hứng
hoài, bất giác trông ngắm giang hồ mà tầm tã đôi hàng lụy nhỏ. Chàng liền nghĩ
một bài tức cảnh "Tây giang nguyệt" rồi gọi tửu bảo mượn bút nghiên để
viết.
Chợt
đâu đứng lên nom hai bên vách phấn, thấy có nhiều văn thơ của người xưa đề vịnh,
chàng liền nghĩ thầm trong bụng rằng: "Tiện đây bất nhược ta viết ngay lên
vách phấn, để làm di tích ở đất Giang Châu, sau này dù có hiển vinh qua đến đất
này, trông thấy mấy câu ở trên vách phấn kia, cũng đủ nhắc lại cho ta biết cái
cảnh huống ấy bây giờ, thế này thực là cùng cực." Chàng nghĩ đoạn, liền
nhân lúc tửu hứng, mài mực đặc, lấy bút đẵm, rồi viết lên vách phấn mấy câu:
Thủơ nhỏ theo đòi kinh sử,
Lớn lên thông thạo quyền mưu,
Khác nào hổ mạnh nấp hang sâu,
Kín nanh dấu vuốt ai biết đâu?
Chẳng may thời vận cơ cầu.
Bỗng dưng chạm mặt đầy Giang Châu,
Một mai may báo được oan cừu,
Máu nhuộm Tầm Dương sẽ biết nhau.
Tống
Giang viết xong, xem ngắm một mình lấy làm vui mừng thích chí, lại ngồi uống
luôn mấy chén rượu nữa, rồi múa chân múa tay cười nói một mình, xuống dưới bài
Tây giang tử.
Tâm ở Giang Đông thân ở Ngô,
Mấy phen than thở mấy giang hồ,
Ngày sau như thỏa lòng non nước,
Mới biết Hoàng Sào cũng trượng phu.
Viết cạn
lại thêm mấy chữ "Vận Thành Tống Giang đề" ở dưới, rồi vất bút xuống
bàn, một mình ngồi ngâm đọc hồi lâu. Lại uống thêm mấy chén rượu đầy, nghe chừng
rượu đã quá say liền gọi tửu bảo lên tính trả tiền hàng, còn thừa lại thưởng
thêm cho tửu bảo, rồi đứng dậy giũ áo mà đi xuống lầu. Bấy giờ chang tử vội vội
vàng vàng đi về phong giấy, mở cửa vào phòng nằm vật xuống ngủ thẳng một giấc đến
canh năm mới tỉnh dậy, không còn nhớ chi đến sự đề thơ ở gác Tầm Dương.
Năm canh say tỉnh mơ màng,
Sơn Đông chí ấy, Tầm Dương thân rày.
Giang hồ trải mấy đắng cay,
Biết rằng non nước vơi đầy ra sao?
Đối ngạn
với đất Giang Châu có một thành nhỏ, là thành Vô Vị Quân, có ông Thông Phán tại
gia là Hoàng Văn Bính ở đó. Hoàng Văn Bính tuy có học hành kinh sử, song tính
người siểm nịnh, tâm địa hẹp hòi, xưa nay thường hay ghen ghét tài năng; hại kẻ
hơn mình, mà xoay kẻ kém mình, chỉ quanh năm quấy nhiễu chốn hương thôn, không
ai là không khinh ghét. Nhân chàng ta biết Xài Cứu Phủ là con quan Xái Thái Sư
đương triều nên thường thường đi lại mà tán hót phỉnh phờ, để kiếm đường kiếm lối
ra làm quan.
Một
hôm, Hoàng Văn Bính đương ngồi buồn bã ở nhà, không có cách gì tiêu khiển,
chàng liền dẫn hai đứa đầy tớ theo hầu đi mua một lễ vật để qua sông vào hầu
Tri Phủ. Bất đồ hôm đó, trong phủ có mở tiệc công yến, chàng ta sợ tai tiếng,
không dám đem vào, liền thầy trò cùng quay ra thuyền để trở về. Khi đến trước lầu
Tầm Dương, Hoàng Văn Bính thấy khí trời hơi có phần nóng bức, bèn lững thững
quay vào trong lầu chơi ngắm, mà chưa quyết ra về. Chàng ta lên gác dạo mát hồi
lâu, chợt nom lên vạch phấn ở gần phía lan can, thấy có nhiều thơ đề vịnh, xem
ra cũng có bài nghe được, cũng có bài lôi thôi lốn thốn, đọc chẳng thành câu.
Chàng vừa cười nhạt vừa xem đọc một mình, chợt xem đến bài "Tây giang từ"
và bốn câu thơ của Tống Giang, thì bỗng cả kinh mà nói một mình rằng:
- Quái
lạ! Có lẽ là thơ phản trắc? Ai viết ở đây như thế?
Chàng
nói xong liền xem xuống dưới có năm chữ "Vận Thành Tống Giang đề" thì
lại ngâm một lượt mà rằng: "Thuở nhỏ theo dõi kinh sư. Lớn lên thông thạo
quyền mưu."
Đọc đến
đó, chàng bèn cười nhạt mà rằng:
- Anh này
cũng tự phụ lắm đây...
Lại đọc
tiếp rằng: "Khác nào hổ mạnh nấp rừng sâu. Kín nanh, dấu vuốt ai biết
đâu?". Đọc đến đó, thì ngoảnh cổ lên mà rằng:
- Anh này
ra dáng không theo bổn phận của mình...
Lại đọc
tiếp luôn: "Chẳng may thời vận cơ cầu. Bỗng dưng chạm mặt đầy Giang
Châu". Chàng lại cười mà rằng:
- Tưởng
cao thượng quái gì? Té ra thằng tù xung quân ở đây.
Lại đọc:
(Một mai may báo được oan cừu. Máu nhuộm Tầm Dương sẽ biết nhau...)
Chàng
lắc đầu nói rằng:
- Thằng
này định báo thù ai mà lại chực sinh sự ở đây? Ôi cha! Một thằng tù xung quân,
thì phỏng làm gì được?
Nói đoạn
lại đọc bốn câu thơ: (Tâm ở Sơn Đông, thân ở Ngô. Mấy phen than thở với giang hồ.)
- Phải,
hai câu này có thể tha thứ được.
Lại đọc
luôn rằng: "Ngày sau như thỏa lòng non nước. Mới biết Hoàng Sào cũng trượng
phu."
Đọc đến
đó thì lắc đầu lè lưỡi mà rằng:
- Thằng
cha này xấc thực, nó định làm hơn họ Hoàng Sào, chắc là định mưu phản nghịch chứ
không sai.
Nói
xong lại đọc đến năm chữ "Vận Thành Tống Giang đề" thì lại nghĩ thầm
trong bụng: Tên anh này nghe cũng quen quen... chừng như có chỉ là một anh tiêu
lại thì phải...?
Nghĩ
đoạn lại gọi tên tửu bảo lên mà hỏi rằng:
- Hai
bài thơ này ai đề vào đây ngươi có biết đích xác không?
Tửu bảo
đáp rằng:
- Hôm
qua có người khách vào uống rượu một mình rồi viết lên đó.
- Người
như thế nào?
- Người
ấy béo đen thâm thấp, trên mặt có thích kim ấn, có lẽ ở trong lao thành đi ra
thì phải.
Hoàng
Văn Bính nghe nói, gật đầu đắc ý, nhờ tửu bảo cho mượn bút nghiên, chép mấy câu
thơ bỏ vào túi áo, rồi dặn tửu bảo phải giữ gìn cẩn thận mà không được xóa đi.
Đoạn rồi xuống lầu trở về thuyền nghỉ.
Sáng
hôm sau, thầy trò lại dậy sớm, khệ nệ mang lễ vật vào biếu Tri Phủ. Bấy giờ Tri
Phủ đương ngồi ở nhà trong, nghe nói là có Hoàng Văn Bính đến, liền cho lính mời
vào tiếp chuyện. Hoàng Văn Bính đưa tặng lễ vật, rồi hai người cùng ngồi nói
chuyện rất là mật thiết. Hoàng Văn Bính nói với Tri Phủ rằng:
- Hôm
qua chúng tôi đã định vào chầu Tướng Công, song nghe nói trong phủ đương có yến
tịch, nên lại phải hoãn đến ngày hôm nay mới dám vào hầu...
Xài
Tri Phủ nói:
-
Thông Phán với tôi là chỗ tâm phúc với nhau, ngài cứ vào chơi có gì mà ngại. Từ
nay xin ngài chớ nệ làm chi, phải lấy tình thân mới được.
Hoàng
Văn Bính vâng lời rồi lại hỏi rằng:
- Dám
thưa Tướng Công, lâu nay trên Thái Sư Ân Tướng có sai người qua đây chăng?
- Hôm
trước mới có thư đến đây.
Tri Phủ
nói xong, thì tả hữu pha trà lên, hai người cùng uống, Hoàng Văn Bính lại hỏi
luôn rằng:
- Chẳng
hay lâu nay trong kinh sư có tin tức gì lạ không? Tri Phủ nói rằng:
- Tôi
vừa mới nhận được thư của tôn gia nói rằng:
Mới
đây Tôn Thái Tử Viện Tư Thiên Giám có tâu rằng: Nhân thế Gia Tôn tôi có dặn
phái giữ gìn trong hạt, cho khỏi sự mang tiếng mang tai...
Hoàng
Văn Bính nghe đến đó, thì nghĩ thầm một lúc, rồi cười mà nói với Tri Phủ rằng:
- Dám
thưa Âm Tướng, nếu vậy thì việc này cũng không phải ngẫu nhiên mà thôi...
Nói đoạn
liền móc túi lấy mảnh thơ biên lúc nãy, đưa trình Tri Phủ mà rằng:
-
Không ngờ việc đó lại chính ở đây rồi...
Xài Cửu
xem thơ xong liền nói rằng:
- Cái
này là thơ mưu phản đây mà... Thông Phán bắt được ở đâu thế?
Hoàng
Văn Bính liền đem chuyện đến chơi lầu Tầm Dương, bắt được hai thơ trên vách,
nói cho Tri Phủ nghe. Xài Cửu Tri lại hỏi rằng:
- Vậy
thì người nào viết bài này?
- Bẩm
Tướng Công, họ đã viết rõ ràng là Vận Thành Tống Giang đề ở đó.
- Vậy
Tống Giang là người nào?
- Bẩm
trong thơ nói là: "Bỗng dưng chạm mặt đầy Giang Châu"? Thì có lẽ hiện
là tù tội trong đám lao thành thì phải?
Tri phủ
gạt đi mà rằng:
- Một
thằng tù thì làm được gì mà sợ!
Hoàng
Văn Bính so vai rụt cổ kêu rằng:
- Chết
nỗi! Tướng Công đừng coi là thường mới được! Vừa rồi Tướng Công nghe đọc bốn
câu ca dao, của trẻ con, chính là ứng vào hắn đó.
- Thế
nào mà bảo rằng ứng vào hắn được?
- Bẩm
Âm Tướng: Hao nước vì Gia Mộc, là nói tốn tiền của nước nhà vì chữ Gia bên trên
chữ Mộc, tức là chữ Tống đó. Câu thứ hai Binh đao bởi Thủy Công, là nói người
này gây việc binh đao, tức là người chữ Thủy bên chữ Công, chính là chữ Giang vậy.
Nay người này họ Tống tên Giang, mà lại làm thơ mưu phản như thế, thì quả nhiên
lạc vào thiên số chứ chẳng sai...
Tri Phủ
nghe nói đến đó, thì lại hỏi luôn rằng:
- Vậy
còn hai cầu Ngang dọc ba mươi sáu. Khắp loạn đất Sơn Đông, là nghĩa làm sao!
- Cái
đó hoặc là đến năm sáu sáu, hay là số vận sáu sáu cũng nên. Còn câu Khắp loạn đất
Sơn Đông, thì Vận Thành chính thuộc về Sơn Đông đó. Bốn câu ấy quả nhiên ứng
vào người ấy chứ không sai.
-
Nhưng không chắc ở đây có người ấy hay không?
- Chiều
hôm qua tôi đã hỏi tên tửu bảo, nói rằng hắn mới viết hôm kia xong.. Cái đó xin
ân tướng sai đem sổ lao thành lên tra một lượt, xem có hay không là biết ngay lập
tức...
Tri Phủ
khen là phải, liền gọi người nhà vào kho lấy sổ lao thành, đem ra để tra. Tra
mãi đến cuối sổ quả nhiên thấy tên Tống Giang ở huyện Vận Thành, mới đến đây ở
Giang Châu vào độ tháng năm vừa rồi. Hoàng Văn Bính thấy vậy, liền bảo với Tri
Phủ rằng.
- Người
này đích xác là ứng vào câu ca dao ấy, không phải chuyện chơi, xin Tướng Công
hãy cho người bắt giam riết, rồi sau sẽ liệu, nếu để chậm trễ lỡ ra lộ chuyện mất
chăng?
Tri Phủ
cho lời nói của Hoàng Văn Bính là phải, liền ra sảnh đường cho đòi Tướng Công
hai viện là Đới Tung lên, mà truyền lệnh rằng:
- Người
lập tức phải đem lính xuống lao thành, bắt tên đề thơ phản loạn trên lầu Tầm
Dương, là Tống Giang ở huyện Vận Thành đến đây cho ta...
Đới
Tung vâng lời quay ra, thì trong bụng lấy làm sợ hãi kinh ngạc, vội vàng điểm lấy
mấy người coi lao dặn về lấy binh khí và nhất tề đến miếu Thành Hoành, để đi
làm việc. Khi chúng vâng lời đi rồi, Đới Tung bèn làm phép thân hành, đi thẳng
ra lao thành, đến chỗ phòng giấy để thăm Tống Giang. Bấy giờ Tống Giang đang nằm
một mình ở trong phòng, chợt thấy Đới Tung đến, liền vội vàng đón vào mà hỏi rằng:
- Hôm
trước tôi vào trong thành tìm mãi không gặp Viện Trưởng, sau nhân buồn quá, một
mình lững thững trên lầu Tầm Dương uống mấy chén rượu, thành ra mệt nhọc say
sưa mãi đến ngày nay vẫn còn chưa tỉnh.
Đới
Tung hỏi:
- Hôm ấy
Ca Ca viết những câu gì trên gác thế?
- Bấy
giờ say rượu viết liền, tôi có nhớ được đâu?
- Vừa
rồi Tri Phủ bắt tôi phải sai đem lính đến bắt tên phản tặc đề thơ ở lấu Tầm
Dương, là Tống Giang, tôi lấy làm kinh ngạc quá chừng, không biết vì lẽ gì mà đến
thế? Hiện tôi đã bảo lính đón đợi ở miếu Thanh Hoàng, rồi tôi cất lẻn đến đây
báo cho Ca Ca biết... Làm cách nào mà giải thoát được đây?
Tống
Giang nghe nói, gãi đầu gãi tai mà kêu lên rằng:
- Nếu
vậy thì phen này ta nguy với họ mất.
Đới
Tung nói rằng:
- Tôi
có một kế này, thì may ra mới thoát được. Bây giờ thể nào tôi cũng phải dẫn người
đến bắt, không sao mà trốn được, vậy huynh trưởng nên bỏ xõa tóc rồi phóng uế
vung vãi ra phòng, để giả làm người điên, hễ tôi đến thì cứ nói càn nói dở, nói
láo nói lếu, cho họ yên chí là chứng điên, thì bấy giờ nói với Tri Phủ may ra mới
có thể thoát được.
Nói
xong thì Đới Tung từ biệt, rồi vội vàng trở về miếu Thanh Hoàng để đem lính đến
bắt. Khi đem lính vào đến lao thành, Đới Tung làm bộ quát to lên rằng:
- Tên
nào là Tống Giang mới đến ở đất này?
Tụi
bài đầu thấy đới Trung hỏi vậy, liền dẫn vào phòng giấy của Tống Giang. Bấy giờ
thấy Tống Giang rũ rợi đầu tóc, phóng uế khắp cả nhà nằm ngồi be bét cả lên.
Khi Tống Giang trông thấy Đới Tung cùng bọn lính Đới Tung lại giả vờ quát lên rằng:
- Lũ
chúng bay là người nào?
Đới
Tung lại giả vờ quát lên rằng:
- Bắt
lấy thằng này cho ta.
Tống
Giang trợn mắt lên, đánh khắp cả mọi người, rồi lảm nhảm nói rằng:
- Ta
đây là con rể Ngọc Hoàng Thượng Đế, bố vợ ta sai đem mười vạn thiên binh, đến
giết hết mọi người ở Giang Châu, hiện có Diêm La Đại Vương làm tiên phong, Ngũ
Đạo Tướng Quân làm hợp trận, cho ta một tay kim ấn nặng tám trăm cân, giết hết
chúng bay đây.
Tụi
lính nghe thấy vậy bảo với Đới Tung rằng:
- Anh
này điên mà, chúng tôi bắt làm gì?
Đới
Tung làm ra bộ nghĩ ngợi, rồi bảo với chúng rằng:
- Nếu
vậy, ta về bẩm với Tri Phủ xem sao? Nếu ngài có định bắt thì ta lại đến đây
cũng được.
Nói đoạn
dẫn lính về trong thành báo với Tri Phủ rằng:
- Tên
Tống Giang hiện bị chứng điên, nói càn nói bậy mình mẩy nhơ bẩn thối tha, chúng
tôi không dám bắt lên để nộp.
Tri Phủ
nghe nói, chưa kịp hỏi rõ ra sao, thì đã thấy Hoàng Văn Bính đứng nấp ở đằng
sau binh phong chạy ra mà nói rằng:
- Tướng
Công chớ nên tin thơ như thế, chữ như thế, không phải là một thằng điên viết rồi.
Cái này tất nhiên là có giả dối chi đây, xin ngài cứ hạ lệnh cho bắt, nếu không
đi được, thì khiêng hắn về đây.
Xài Tri
Phủ lấy làm phải, truyền lệnh cho Đới Tung:
- Bắt
vấn như thế nào, phải bắt về cho kỳ được.
Đới
Tung vâng lệnh lui ra, trong bụng lấy làm băn khoăn đau đớn, liền đem lính đến
lao thành mà bảo với Tống Giang rằng:
- Công
việc nguy lắm rồi, huynh trưởng cứ đến đấy xem sao.
Nói đoạn
sai lấy cái bồ lớn, bỏ Tống Giang vào đấy, rồi khiêng giải vào phủ. Khi vào tới
phủ, Tống Giang đứng ở dưới thềm, trợn mắt nhìn Xài Tri Phủ mà quát hỏi rằng:
- Bây
là người nào, dám bắt hỏi ta? Ta là rể Ngọc Hoàng Thượng Đế, cho ta đem năm vạn
thiên binh, đến giết thành Giang Châu, có Diêm La Đại Vương làm tiên phong, Ngũ
Đạo Tường Quân làm hợp hậu, sắc cho ta một tay kim ấn, nặng tám trăm cân để giết
các ngươi. Ta truyền cho ngươi chỉ một lát nữa gọi là chết hết.
Xài Cửu
nghe vậy, không biết xử trí làm sao? Hoàng Văn Bính lại tán với Tri Phủ rằng:
- Xin
tướng công cho đòi Sai Bát và Bài Đầu ở bản doanh đến, để hỏi xem tên này mới
có chứng điên, hay là từ khi mới đến đây đã thế? Nếu vẫn có chứng điên từ khi mới
đến đây thì sẽ tha cho, bằng không thì tất là giả dối...
Tri Phủ
nghe nói lấy làm phải, liền cho đòi Quản Doanh, Sai Bát đến mà hỏi. Hai anh em
kia không dám man trá Tri Phủ, liền bẩm rằng:
- Tên ấy
nguyên trước đến đây, không có chứng điên, chứng đó chứng mới phát ra mấy hôm
nay.
Tri Phủ
thấy nói vậy, bèn đùng đùng nổi giận, thét lính đem Tống Giang ra tra đánh. Đới
Tung thấy thế, chỉ cắn răng kêu khổ, mà không biết làm cách gì để cứu ra cho được.
Tống Giang trước còn hàm hồ nói bậy nói xằng, sau bị đánh tấn dữ dội, bắn máu xé
thịt, không sao mà giấu cho nổi, đành phải thú thực là say rượu viết càn, thực
không có chủ ý mưu mô chi cả. Tri Phủ liền lấy lời cung, rồi sai đóng gông tử
tù nặng hai mươi nhăm cân, mà cho giam xuống đại lao. Bấy giờ Tống Giang đau đớn
ê chề, không sao mà nhắc chân đi được, Đới Tung liền hết sức trông coi, dặn bảo
các lính canh ngục, đều phải trông nom tử tế, và hằng ngày sắp sẵn cơm nước để
cung đãi Tống Giang.
Dây
đâu ai buộc vào thân,
Anh
hùng là kiếp nợ nần với ai?
Bắc
thang lên hỏi ông trời?
Văn chương
là giống hại người đó ru?