Thủy Hử - Chương 39
Hồi 39
Cướp nghĩa đảng
Anh hùng mến anh hùng.
Bấy giờ,
Tiều Cái cùng các vị Đầu Lĩnh đều ngơ ngác vội vàng, cùng túm nhau để hỏi xem lầm
lỡ vì đâu? Quân sư Ngô Dụng liền bảo mọi người rằng:
-
Trong bức thư lúc nãy, vì chúng tôi vội vàng không kịp nghĩ cho đóng dấu khắc
có bốn chữ "Hàn Lâm Sài Kính" như thế, quả nhiên Đới Tung bị nguy với
Quan Tư, chứ không khi nào tránh khỏi.
Đại Kiện
nói rằng:
- Cái
đó chính là lối con dấu của Sài Thái Sư, vẫn dùng để đóng vào các văn trát xưa
nay, không lẽ nào mà hỏng được.
Ngô Học
Cứu nói:
- Cái
đó các ông không biết. Xưa nay cha viết thư cho con không khi nào phải đóng dấu
tên húy của mình, bởi vậy tôi chắc khi Đới Tung tới nơi, tất bị họ tra hỏi mà vỡ
chuyện ra mất.
Tiểu
cái lo sợ mà rằng:
- Nếu
vậy ta nên cho hai người theo gọi về đây, để viết lại mới được.
Ngô Dụng
cười rằng:
- Bây
giờ theo thế nào được? Ông ta làm phép thần hành đi từ bấy đến, giờ có tới năm
sáu trăm dặm rồi, còn ai theo kịp. Việc này tất phải kiếm cách cứu mau, không
có thì nguy cả đến nơi.
Tiều
Cái hỏi:
- Vậy
quân sư định có cách gì để cứu?
Ngô Dụng
ghé vào tai Tiều Cái mà hỏi rằng:
- Bây
giờ phải thế này... thế này... chủ tướng nên ám truyền hiệu lệnh cho các tướng
đi mau mới được.
Tiều
Cái nghe nói cả mừng, liền truyền lệnh cho các tướng, lập tức sắm sửa chu tất rồi
cùng nhau xuống thuyền mà kéo sang Giang Châu.
Bên
kia Đới Tung đi ước chừng đúng hạn thì về đến đất Giang Châu liền đem thư vào
trình với Sài Cửu Tri Phủ.
Tri Phủ
thấy Đới Tung về, trong bụng lấy làm vui mừng hớn hở, bèn thưởng cho ba cốc rượu
rồi nói rằng:
-
Ngươi vào đó có gặp Thái Sư không?
Đới
Tung bẩm rằng:
-
Chúng tôi vào đó có một tối, rồi vội về ngay, nên không kịp gặp Ân Tướng.
Tri Phủ
nghe nói liền bóc thư ra xem, thấy trên nói đã thu nhận đủ các đồ lễ vật, rồi
đoạn nữa nói chuyện Tống Giang, phải sai người lập tức đóng xe tù về kinh sư,
giải về cho cẩn thận, còn đoạn cuối cùng nói đến Hoàng Văn Bính, nay mai sẽ tâu
Thiên Tử, tất nhiên cũng có hồng ân. Tri Phủ xem xong cả mừng, lấy ra một đĩnh
hai mươi nhăm lạng bạc thưởng cho Đới Tung rồi nhất diện sai đóng xe tù và bàn
định chọn người để áp giải Tống Giang.
Đới
Tung từ tạ Tri Phủ rồi trở ra mau mua các thức rượu thịt đem vào ngục thiết đãi
Tống Giang, và nói hết mọi chuyện cho Tống Giang biết. Cách hai hôm sau, Sài
Tri Phủ đã thôi thúc đóng xe tù, vừa toan sai người khởi trình áp giải Tống
Giang, thì bỗng thấy nói có quan Thông Phán Hoàng Văn Bính vào hầu. Tri Phủ
nghe nói, liền cho mời vào trong để nói chuyện.
Hoàng
Văn Bính đưa tặng các đồ lễ vật, nịnh hót mấy câu, đoạn rồi cùng ngồi nói chuyện.
Tri Phủ
bảo với Hoàng Văn Bính rằng:
- Tôi
mừng cho ngài, nay mai, tất có việc vinh thăng tới nơi.
Hoàng
Văn Bính hớn hở hỏi rằng:
- Sao
Tướng Công lại biết trước?
- Hôm
qua có người đem thư về, nói rằng tên Tống Giang thì cho giải vào kinh sư, còn
Thông Phán thì thế nào cũng có thăng thưởng đến nơi, hiện có gia thư đó, Thông
Phán xem qua thì biết đoan đích.
- Nếu
thế, thì toàn là ân đức của Tướng Công, chúng tôi biết lấy gì mà báo đền cho được.
Nhưng nếu phải là gia thư, thì khi nào tôi dám mạn phép mà xem như vậy?
- Được,
Thông Phán với tôi là chỗ tâm phúc. Thông Phán cứ xem cho biết rõ... có hề chi?
Nói đoạn
liền lấy thư đưa cho Hoàng Văn Bính xem. Hoàng Văn Bính cầm lấy thư xem hết đầu
chí đuôi, rồi xem đến ngoài phong bì thấy có dấu đóng ở đó vẫn còn mới mẻ sáng
sủa, thì lắc đầu mà bảo Thông Phán rằng:
-
Phong thư này có lẽ không được đích thực...
Tri Phủ
nói:
- Mọi
khi không có đóng dấu bao giờ, nhưng hôm nay có lẽ là tiện có con dấu cho nên
đóng vào đó hẳn?
Hoàng
Văn Bính lại tán rằng:
- Tôi
nói câu này, xin Tướng Công bỏ ngoài tai cho. Bức thư này tức là người man trá
Tướng Công đây. Hiện nay thiên hạ thịnh hành bốn lối chữ, Tô, Hoàng, Mễ, Sài, vậy
thì lối chữ của ân tướng Thái Sư, ai mà không viết giống. Còn như con dấu Hàn
lâm này, là khi còn làm chức Hàn Lâm, hay dùng để đóng vào giấy má, cho nên
thiên hạ ai mà không biết. Đến như hiện nay ngài làm chức Thái Sư Thừa Tướng,
thì có khi nào lại còn dùng con dấu ấy nữa. Huống chi Tướng Công là chỗ con
cháu trong nhà thì có cần chi phải cần đến con dấu có tên húy của ngài vào đây.
Thái Sư là thực cao kiến viễn thức nhất trong thiên hạ, không lẽ ngài lại lầm đến
thế? Xin Tướng Công cho đòi người đưa thư đến đây, mà hỏi kỹ càng xem có gặp
người nào ở trong Phủ Thái Sư không? Bằng lúng túng không trả lời được, thì quả
nhiên là giả mạo không sai... Cái đó Tướng Công nên cẩn thận...
Sài
Tri Phủ nghe nói liền đáp rằng:
- Nếu
vậy cũng không khó gì, anh ta từ nhỏ đến nay, chưa qua Đông Kinh một lượt nào,
để ta hỏi qua mấy câu là biết được ngay.
Nói đoạn
liền lưu Hoàng Văn Bính ngồi chơi ở đằng sau bình phong, rồi cho gọi Đới Tung
lên đến công đường. Sài Tri Phủ liền hỏi ngay rằng:
- Hôm
nọ ngươi đi khó nhọc ta chưa kịp hỏi hết đầu đuôi trong phủ Thái Sư, vậy khi tới
đó ngươi đi vào cửa nào?
Đới
Tung bẩm rằng:
- Khi
chúng tôi vào tới nơi, thì trời đã nhá nhem tối, cũng không trông rõ đó là cửa
gì?
- Ở
trong phủ có ai ra tiếp?
- Rồi
sau nghỉ ở đâu?
- Bẩm,
hôm đó chúng tôi đến trước phủ, tìm một người canh gác đưa thư vào, sau người
canh gác trở ra nhận các lễ vật rồi bảo chúng tôi đi hàng trọ để nghỉ. Sáng hôm
sau đầu trống canh năm, chúng tôi lại vào chực ở cửa phủ, thì thấy tên người
nhà đưa bức hồi thư ấy ra, chúng tôi sợ lỡ kỳ hẹn lập tức về ngay, không kịp hỏi
han chi cả.
- Tên
người nhà canh gác đó thế nào? Trắng hay đen, gầy hay béo, to lớn hay thấp lùn,
có râu hay không?
- Bẩm,
bấy giờ đường mờ tối, chúng tôi trông không được rõ lắm... chỉ trông thoáng thấy
anh ta tầm thước không lớn không bé, đã hơi có tuổi, loáng nhoáng vài cái râu...
Tri Phủ
nghe đến đó quát lên rằng:
- Lính
đâu! Trói cổ thằng này lại cho ta.
Vừa
nói dứt lời thì lính tráng dạ vâng, đổ ra trói Đới Tung lại. Đới Tung lấy làm
ngạc nhiên mà kêu lên rằng:
-
Chúng tôi có tội gì?
Tri Phủ
quát lên rằng:
- Tội mày
đáng chết... nhà tao có lão họ Vương, thì đã chết rồi, hiện nay có tên tiểu
vương canh gác hãy còn trẻ tuổi, sao ngươi lại nói là đã nhiều tuổi và có râu.
Vả chăng tên tiểu vương cũng không khi nào được vào phủ bao giờ, xưa nay phàm
có thư tín ở các nơi đưa đến, thì tất do qua tay Trương Cán Biện, đến tay Lý Đô
Quản, rồi mới vào đến trong phủ, vậy có nhanh ra cũng phải ba ngày mới lấy được
hồi thư mang về. Huống chi ta đưa mấy hòm lễ vật như vậy, lẽ đâu lại không có
ai là người ở trong nhà, ra hỏi cặn kẽ đầu đuôi, mà lại nhận liều lĩnh thế được?
Cái đó tất là ngươi man trá chi đây, muốn sống phải nói thực cho ta biết.
Đới
Tung kêu lên rằng:
-
Chúng tôi vì vội vàng, mong cho chóng việc, nên không kịp xét hỏi đầu đuôi, chứ
thực có điều chi dám man trá.
Tri Phủ
thét tả hữu mà rằng:
- Quân
này gan tướng cướp đây, không tra tấn sao có chịu thú... chúng đâu đem tra đánh
xem sao?
Lính
tráng nghe nói, biết chừng không thể nào nể được Đới Tung, liền vâng lời đem ra
tra tấn. Đới Tung bị đòn vọt đau đớn, từ chối không xong, bất đắc dĩ phải tiêu
xưng ra bức thư giả mạo. Tri Phủ quát hỏi rằng:
- Bức
thư ấy ở đâu mà đến đây được?
Đới
Tung nói rằng:
- Khi
chúng tôi đi qua đất Lương Sơn, bị bọ cướp bắt lên núi, sau chúng lần được bức
thư, liền cướp lấy cả hai hòm châu báu, rồi tha cho về. Chúng tôi biết thế trở
về không được, đã toan liều tử tử ngay, song họ nhất định giữ gìn cẩn thận, rồi
viết phong thư ấy, mà bắt phải đem về... Nhân chúng tôi cũng sợ quở phạt đến
thân, cho nên phải mạn phép Ân Tướng mà nói liều như vậy, xin Ân Tướng xét cho.
Tri Phủ
nói:
- Việc
đó chắc là man trá không sai, vậy tất nhiên còn có tính gì khác, ngươi phải nói
cho rõ. Ta quyết rằng ngươi thông đồng với bọn Lương Sơn để cướp hai hòm châu
báu của ta, muốn sống phải thú mau mới được. Chúng đâu đánh nữa cho ta xem.
Đới
Tung bị tra khảo lần nữa, song chàng nhất định đau, mà không dám đem chân tình
ra thổ lộ. Tri Phủ tra hỏi hồi lâu, thấy lời lẽ trước sau như một, liền bất đắc
dĩ sai đóng gông Đới Tung, mà cho giam xuống ngục.
Khi
tra hỏi xong rồi. Tri Phủ liền vào nhà trong cảm tạ Hoàng Văn Bính mà rằng:
- Việc
này nếu không có Thông Phán chỉ giáo cho, thì tất là nguy hiểm chứ không chơi.
Hoàng
Văn Bính lại nói với Tri Phủ rằng:
- Người
ấy chắc là thông đồng với bọn Lương Sơn Bạc để mưu việc phản nghịch, vậy nếu không
sớm liệu trừ đi, thì tất là sinh sự về sau...
Tri Phủ
nói:
- Bây
giờ chỉ đem hai thằng ấy kết án mà xử tử ngay đi, rồi sẽ biểu tấu triều đình mới
được.
- Tướng
Công nghĩ thế thực phải lắm, làm như vậy một là triều đình cũng biết được tài mẫn
cán của Tướng Công, hai là bọn Lương Sơn khỏi đến đây để cướp ngục, thì tất
nhiên khỏi sinh nhiễu loạn về sau.
-
Vâng, việc đó tôi phải biểu tấu triều đình, rồi xin để bảo cử cho Thông Phán một
thể.
Hoàng
Văn Bính nghe nói cả mừng, so vai rụt cổ nịnh hót một hồi lâu mới đứng lên từ tạ
ra về.
Gớm
quân khốn nạn đê hèn,
Tài
thua sức kém còn ghen ghét người.
Rồi
đây lay đất chuyển trời.
Tiền
nhân phổng thoát với đời được chăng?
Mấy
hôm sau, Tri Phủ gọi người Khổng Mục là người làm văn án lên, truyền lập án Tống
Giang cùng Đới Tung, để đến ngày sau nữa đem ra chém.
Người
Khổng Mục này là một người họ Hoàng, vốn thân mật với Đới Tung xưa nay, song
cũng không có cách gì cứu gỡ cho được, liền bẩm với Tri Phủ rằng:
- Ngày
mai là ngày kỵ nhật của quốc gia, ngày kia là ngày tết Trung Nguyên rằm tháng Bảy,
đều không nên hành hình cả, đến ngày thứ ba cũng là ngày cảnh mệnh của nhà nước,
vậy thì để năm hôm nữa thì mới có thể thi hành được.
Tri Phủ
nghe nói cũng cho là phải, liền theo lời Khổng Mục mà để đến sáu hôm sau.
Sáng sớm
hôm thứ sáu, Tri Phủ sai quét dọn pháp trường, ở sau con đường chữ thập, rồi kiểm
điểm bộ binh cùng các tay đao trượng, ước hơn năm trăm người, đều tề tựu ở trước
nơi nhà ngục.
Vào
khoảng giờ Tỵ hôm ấy, ngục quan vào bẩm với Tri Phủ để ra giám trảm. Hoàng Khổng
Mục đem bản án lên trình quan Phủ, rồi viết hai chữ "Trảm" rất to, mà
niêm yết ra ngoài pháp trường. Bấy giờ các Tiết Gấp và cùng Lao Tử ở đất Giang
Châu, ai cũng lấy làm phàn nàn thương tiếc cho Đới Tung, mà không còn kế chi cứu
được. Khi các công việc sửa soạn xong, lệnh quan trên bắt Tống Giang, Đới Tung
đem búi ngược tóc lên, cắm bông hoa giấy đỏ lên đầu, dắt đến trước mặt thân án,
cho mỗi người ngồi ăn bát cơm từ giã với đời, rồi sáu bảy mươi tên ngục tốt
cùng dong ra ngoài pháp trường.
Bấy giờ
nhân dân ở đất Giang Châu, kéo đàn kéo lũ đi xem, không biết mấy ngàn người mà
kể. Chúng dong phạm nhân ra đến pháp trường, rồi đặt Tống Giang ngồi quay mặt
sang Nam, Đới Tung ngồi quay mặt sang Bắc, để đợi đến giờ Ngọ là quan giám trảm.
Bọn nhân dân kéo đi xem, ngửa trông thấy trên bản án viết có mấy câu rằng:
-
"Phủ Giang Châu xử hai
tên phạm; Một tên là Tống Giang ngâm thơ phản nghịch, kết bọn Lương sơn để gây
một đường rối loạn, tội nên xử trảm. Một tên là Đới Tung, thông với Tống Giang,
đưa thư cho bọn Lương Sơn Bạc để mưu phản lại triều đình, tội nên xử tử. Giám
trảm quan là Sài mỗ, Tri Phủ Giang Châu".
Được một
lát Tri Phủ cỡi ngựa ra đứng ở pháp trường, để đợi báo đúng giờ là truyền cho hạ
thủ. Chợt đâu thấy bên đông pháp trường có bọn ăn mày chen vào xem chém, tụi thổ
binh ngăn cản không xong, đôi bên liền ầm ĩ cả lên.
Đương
khi ấy, thì phía bên tây lại có bọn bán thuốc cao len vào. Bọn thổ binh thấy vậy
quát lên rằng:
-
Chúng bây người ở đâu? Có biết gì không? Ai cho phép len vào đây để xem?
Lũ đánh
gậy bán thuốc cao đáp lên rằng:
-
Chúng tôi đây đến phủ huyện nào, mà không vào xem được. Dẫu cho Thiên Tử chém
người, cũng còn cho người dân vào xem, huống chi một chỗ đất cỏn con này, mà lại
không vào xem được hay sao?
Giám
Trẩm Quan nghe thấy vội quát lên rằng:
- Đuổi
chúng nó ra, không cho chen vào đấy.
Chưa dứt
lời, thì đã thấy phía bên Nam pháp trường có một tụi phu gánh cũng sấn sỉ mà
cùng nhau chen vào. Lũ thổ binh quát hỏi rằng:
-
Chúng bây người ở đâu? Mà dám chen vào đây?
Bọn
phu gánh đáp rằng:
-
Chúng tôi gánh các đồ vật, để đưa cho Tri Phủ Tướng Công đây.
Bọn thổ
binh ngăn lại mà rằng:
- Có
phải là người nhà quan Phủ, thì bây giờ cũng không đi qua đây được.
Bọn
phu gánh thấy vậy, liền hạ gánh xuống, rồi đứng len lỏi vào trong đám đông người
để xem. Chợt đâu thấy phía Bắc, có một đám buôn, kéo hai xe gỗ đến, đẩy xô mọi
người mà toan vào pháp trường. Tụi thổ binh thét mắng đuổi ra mà rằng:
- Các
anh đi đâu thế này.
Lũ lái
buôn đáp rằng:
-
Chúng tôi phải đi có việc cần, xin các ông cho phép chúng tôi đi qua đây...
Lũ thổ
binh lại quát mắng rằng:
- Các
anh nói lạ, ai cho các anh đi lối này? Có vội kiếm lối khác mà đi.
Bọn
lái buôn cười rằng:
- Các
bác nói dễ nghe chưa? Chúng tôi ở Kinh Sư đến đây, còn biết lối cóc nào nữa? Chỉ
có một con đường lớn này phải cho đi mới được.
Nói
xong toan chen lấn đi vào, song bọn thổ binh nhất định không nghe, mà cố dồn để
đuổi ra. Đám lái buôn bất đắc dĩ phải dừng xe lại, rồi trèo lên xe để xem. Được
một lát, trong pháp trường có người báo lên rằng:
- Bây
giờ đúng giờ Ngọ ba khắc rồi.
Giám
Trảm Quan nghe báo, liền truyền lệnh rằng:
- Cho
phép chém.
Bọn
lính coi tù vâng lệnh tháo gông cho tội nhân, rồi hai người hành hình cầm đao
ra để chém.
Bấy giờ
bọn lái buôn đứng trên xe kia, nghe thấy ba tiếng "Cho phép chém", một
người thì lấy thanh la ở trong bọc ra mà đánh lên mấy tiếng rất to, rồi bỗng
dưng tứ phía đều nhao nhao lên như vỡ chợ vậy.
Đoạn rồi
ở trên gác hàng nước, bên cạnh con đường Thập Tự, có một anh chàng cởi trần
trùng trục, mình đen chùi chũi, tay cầm hai cây búa, thét lên một tiếng như sấm
động vang trời, mà nhảy ngay xuống pháp trường, vung cái búa lên chém luôn hai
người hành hình, rồi quay ra đuổi chém Giám Trảm Quan.
Bọn thổ
binh thấy vậy, vội vàng xô nhau để ngăn cản, song không sao mà chống cự cho nổi,
chúng liền hớt hơ hớt hãi túm đến cứu Giám Trảm Quản, là Sài Tri Phủ để chạy trốn
cho mau.
Khi đó
lũ ăn mày ở phía Đông, đều tuốt dao nhọn ở trong mình ra, để đánh giết thổ
binh. Phía bên Tây, tụi đánh gậy bán thuốc cao, đám phu gánh bên Nam cũng
múa đòn gánh lên, gặp ai thì phang cho người ấy, làm cho bọn lính ngục, và thổ
binh ngã chết không biết bao nhiêu mà kể. Còn bọn lái buôn ở phía Bắc, thì nhảy
xuống xe, quay xe ngăn lấy lối đi, rồi hai anh xông vào cướp lấy Tống Giang
cùng Đới Tung, còn bọn người thì hoặc bắn cung, hoặc ném đá, hoặc đánh gươm
giáo, mà giết hại thổ binh chết như canh hẹ.
Nguyên
bọn lái buôn này là Tiều Cái, Hoa Vinh, Hoàng Tín, Lã Qương, Quách Thịnh. Bọn
phu đánh gậy bán thuốc cao là Yên Thuận, Lưu Đường, Đỗ Thiên, Tống Vạn. Bọn
phu gánh là Chu Quý, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên Thọ, Thạch Dũng. Và bọn ăn
mày kia là Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất cùng Bạch Thắng,
cộng tất cả là mười bảy vị Lương Sơn Bạc, hơn một trăm lâu la giả dạng làm các
hạng người, mà đánh cướp pháp trường ở đó.
Khi ấy
Tiều Cái trông thấy anh chàng đen lớn; vác hai cây búa xông pha tả hữu, đánh giết
ầm ầm, thì trong bụng lấy làm ngờ ngợ, không biết là ai. Sau lại nhớ ra khi trước
Đới Tung thường nhắc đến tên anh Hắc Toàn Phong Lý Quỳ, đi lại với Tống Giang rất
là thân ái, liền hỏi to lên rằng:
- Hảo
hán kia có phải là Hắc Toàn Phong đó chăng?
Anh
chàng kia không trả lời, cứ lẳng lặng vác hai cây búa mà chém giết loang loáng
như sét đánh ngang trời. Tiều Cái biểu hai người cõng Tống Giang cùng Đới Tung
phải theo sau anh chàng to lớn ấy mà chạy.
Đương
lúc bấy giờ, trên con đường chữ Thập kia, vô luận là quân dân lính tráng, hoặc
người bị thương, hoặc người bị giết, nằm vật ngổn ngang không biết tới đâu mà kể.
Còn bọn đàn anh và tụi lâu la kia, đều theo anh chàng đen lớn mà chạy ra ngoài
thành, và để cho bọn Hoa Vinh, Hoàng Tín, Quách Thịnh, bốn người cầm bốn tay
cung đi sau, mà bắn chặn lấy đường; khiến cho quân dân ở đất Giang Châu không
có ai dám gan theo đuổi.
Khi đó
chàng đen lớn kia, vừa đi vừa chém, máu me đầm đìa khắp cả chân tay, mà vẫn còn
hăng hái chém giết.
Tiều
Cái liền cầm đao thét lên rằng:
- Đại
Hán kia, không can thiệp gì đến nhân dân, không được chém người ta nữa.
Anh
chàng kia im lặng không thèm nghe đến, cứ phăm phăm múa đôi đại phủ mà chém rẽ
người ta để đi. Ước chừng đi được bảy tám dặm đường, thì có một giải trường
giang chắn ngang trước mặt, Tiều Cái lấy làm lo sợ, không còn biết lối nào mà
chạy trốn cho thoát.
Bấy giờ
anh chàng đen lớn kia nói lên rằng:
-
Không ngại gì hãy đem Ca Ca vào trong miểu kia đã. Chúng nghe nói, liền kéo
nhau để xem, thấy bên sông có một tòa cổ miếu, hai bên cửa vẫn đóng chặt. Chàng
đen lớn kia vác đôi phủ, đến chém phá tung cửa ra cho mọi người vào. Khi vào tới
nơi, thấy thông xanh liễu tốt cây cỏ um tùm, trước cửa có cái biển thiếp vàng bốn
chữ "Bạch
Long Thần Miếu" rất to, bọn tiểu lâu la cõng Tống Giang cùng Đới
Tung đặt nghỉ ở đó.
Lúc ấy
Tống Giang mới mở mắt ra, trông thấy Tiều Cái cùng mọi người thì gạt hai hàng lệ
mà nói rằng:
- Chẳng
hay là gặp nhau trong giấc chiêm bao?
Tiều
Cái an ủi Tống Giang mà rằng:
- Đó
chẳng qua nhân huynh không chịu ở sơn trại, cho nên mới xảy ra như vậy... Song
không biết rằng anh chàng đen lớn ra sức cứu giúp kia là ai?
Tống
Giang đáp rằng:
- Ấy
chính là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đấy, anh ta đã mấy lần xui tôi vượt ngục mà ra,
song tôi sợ không sao mà chạy thoát được, nên không dám nghe lời.
Tiều
Cái kính phục mà khen rằng:
- Được
một người cố công ra sức, không ngại búa rìu can đảm như thế, thực là hiếm có.
Hoa
Vinh liền bảo chúng lấy quần áo đưa cho Tống Giang và Đới Tung mặc, rồi cùng ngồi
bàn định với nhau. Đương khi ấy trông thấy Lý Quỳ tay cầm đôi phủ, ở dưới hành
lang chạy lên, Tống Giang liền gọi mà hỏi rằng:
- Anh
em đi đâu thế?
Lý Quỳ
đáp rằng:
- Tôi
đi tìm thằng coi miếu để giết nó đi một thể, nó làm cái gì mà ban ngày ban mặt
cũng cứ đóng cửa, không biết rằng nó trốn đi đâu mà tìm mãi không thấy...?
Tống
Giang gạt đi mà rằng:
-
Ngươi hãy đến đây để chào các Ca Ca Đầu Lĩnh đã.
Lý Quỳ
nghe nói, liền vứt đôi phủ xuống mà quay mặt vào Tiều Cái rồi quỳ vội mà rằng:
- Xin
Ca Ca chớ cười Thiết Ngưu này lỗ mãng.
Nói đoạn
lại quay ra chào hỏi mọi người, và nhận được Chu Quý là người đồng hương, thì
đôi bên lấy làm hoan hỷ vô cùng. Bấy giờ Hoa Vinh nói với mọi người rằng:
- Vừa
rồi Ca Ca truyền lệnh cho anh em cứ theo Lý Ca mà chạy, vậy bây giờ đến đây trước
mặt có con sông ngăn trở, mà thuyền bè không có, thì đi làm sao được?
Lý Quỳ
ứng lên rằng:
- Cái
đó không cần, tôi với các bác, ta hãy kéo cả vào thành, tìm thằng Sài Tri Phủ,
mà giết phăng nó đi rồi sẽ liệu.
Đới
Tung vội ngăn rằng:
- Làm
như thế không được, trong thành có tới bảy tám trăm quân, nếu mình sấn vào, thì
lỡ ra nguy mất.
Nguyễn
Tiểu Ngũ nói lên rằng:
- Ở bến
sông xa kia có mấy chiếc thuyền để anh em tôi lội sang cướp đem về đây, mà chở
người vào thành, thì có lẽ tiện hơn.
Tiều
Cái khen phải mà rằng:
- Nếu
thế thì còn gì hơn nữa. Nói đoạn thì ba anh em họ Nguyễn cởi trần cầm đao, nhảy
xuống sông mà bơi cướp lấy thuyền.
Ba người
lội dưới sông, thì thấy mấy chiếc thuyền kia thổi còi lên hiệu mà kẽo kẹt chèo
thuyền, thấy mỗi thuyền, mỗi người cầm một thứ binh khí trong tay hết thảy.
Chúng
thấy thế, đều kinh ngạc mà nhao nhao cả lên. Tống Giang nghe thấy chúng kinh
hãi, thì cũng than thân gặp bước cùng đường, bèn chạy ra trước cửa miếu bên
sông, nom thấy một đại hán đứng ở trên thuyền, tay cầm binh khí mặc giáp có
kính đỏ, yểm tâm, coi rất hùng dũng, thổi sáo mà tới.
Tống
Giang nom xem nhận ra là Trương Thuận, bèn vẫy tay gọi.
- Anh
em đến cứu tôi với!
Trương
Thuận biết là Tống Giang gọi đến, liền chèo thuyền nhanh tới bờ. Ba anh em họ
Nguyễn lui bước lại, rồi lũ Trương Thuận lên tới miếu. Tống Giang đón tiếp.
Trương Thuận dẫn đến mươi người khỏe mạnh ở dưới thuyền lên. Lại thấy cả Trương
Hoành, dẫn Mục Hoằng, Mục Xuân, và Tiết Vĩnh, và một số trang khách ở dưới thuyền
lên. Đến chiếc thuyền thứ ba, thấy Lý Tuấn, dẫn Lý Lập, Đồng Uy, Đồng Mãnh, và
mươi người trang khách khỏe mạnh, đều cầm thương gậy lên bờ.
Trương
Thuận gặp được Tống Giang lấy làm mừng rỡ, khóc mà sụp lạy nói rằng:
- Từ
khi nghe tin Ca Ca bị bắt, khiến tôi ngồi đứng không yên, mà không còn cách nào
cứu được. Lại nghe cả Đới Viện Trưởng cũng bị giam giữ, mà tôi tìm Lý Đại Ca
cũng chả thấy đâu. Sau chúng tôi đến nhà Mục Thái Công, rủ những anh em quen biết,
đem số trang khách, để phá ngục Giang Châu cứu lấy Ca Ca và Đới Viện Trưởng.
- Nào
ngờ nhân huynh đã được các vị hào kiệt cứu ra, còn họp ở chốn này, vậy dám hỏi
các vị hảo hán đây có phải là những nghĩa sĩ của Tiểu Thiên Vương ở Lương Sơn Bạc
chăng?
Tống
Giang bèn trỏ vào Tiều Cái mà giới thiệu rằng:
- Đây
là Tiều Thiên Vương Ca Ca, cùng các vị nghĩa sĩ, vậy xin các anh em hãy vào
trong miếu, để cùng nhau gặp mặt.
Bấy giờ
lũ Trương Thuận chín người, lũ Tiều Cái mười bảy người, và Tống Giang, Đới Tung,
cùng Lý Quỳ, cộng tất cả hai mươi chín người, đều hội họp ở Bạch Long miếu. Sau
khi hai mươi chín vị làm lễ ra mắt nhau; thì tiểu lâu la vào miếu báo rằng:
- Nay
thành Giang Châu, khua chiêng dóng trống, cờ xí rợp trời, sửa soạn binh mã đuổi
theo để đánh, gần tới miếu Bạch Long, việc nguy cấp lắm.
Lý Quỳ
nghe nói, thét lên một tiếng, cầm hai đại phủ mà đi, ra khỏi cửa.
Tiều
Cái gọi lại nói rằng:
- Nếu
muốn rửa hận giết đám tham tàn, thì Tiều Cái xin cùng các vị hảo hán, cùng nhau
ra sức giết lũ quan quân, mới trở về Lương Sơn Bạc.
Chúng
anh hùng đều nói lên:
- Theo
lệnh.
Lúc ấy
một trăm năm mươi người đón đánh quan quân thành Giang Châu, khiến cho máu chảy
đầy sông, xương phơi khắp chốn. Thực là:
Anh
hùng mới thực anh hùng,
Đất
bằng nổi sóng đùng đùng bởi đâu?
Quyền
môn muốn những đè đầu,
Ngán
lời cẩu trệ vuốt râu báo hùm!
Lời
bàn của Thánh Thán:
Theo
phép nhà văn tả việc gấp, không thể dài lời nhiều bút, vì dùng nhiều bút, thì
việc thấy hoãn đi không còn gấp nữa. Thế mà sách này không thế, tả việc gấp, vẫn
dùng nhiều bút mực với nhiều lời, vì rằng dùng ít bút mực, thì việc gấp giải
đi. Đây tả việc gấp vẫn nhiều lời, toàn là những lời của việc gấp, như con người
mưu nghịch Tống Giang, Đới Tung quyết không đợi mãi, dẫu được Hoàng Khổng mục
kéo dài ra năm ngày, cho đến ngày cuối cùng, đã thành mây cùng nước tận, bấy giờ
chỉ đợi đến giờ Ngọ ba khắc, thì phải khai đao, thì phải kết thúc.
Thế mà
đoạn văn ấy tả ra, nào là buổi sáng ăn cơm sớm, rồi sửa soạn pháp trường, nào
là thổ binh mang khí giới chỉnh tề, đến giờ Tỵ ngục quan bẩm trình quan Giám Trảm,
Khổng Mục cũng trình mọi công việc tới kỵ, nào là tả Tống Giang, Đới Tung xõa
tóc cắm bông koa giấy, trước khi xử trảm cho uống rượu, ăn cơm bữa cuối cùng từ
giã cõi đời. Nào là số sáu bảy mươi kẻ ngục tốt, đều đổ cả ra. Rồi lại
tả trên đường Thập Tự giáo mác chung quanh, một kẻ quay mặt về Nam, một kẻ quay
mặt về Bắc, để đợi Giám Trảm Quan đi tới. Nào tả số người ra vào chen xem,
chưa thấy quan Giám Trảm tới. Trước khi đó tuyên án xử trảm hai người, tên
mỗ vì phạm tội này, theo luật phải xử trảm... Tên mỗ vì phạm tội này, theo luật
phải xử trảm... Một lát sau Quan Phủ tới, dừng ngựa lại đợi đến giờ Ngọ ba khắc
thì xử trảm. Quan Giám Trảm đã tới, chỉ đợi đến giờ, khiến độc giả xem tới
ba chữ "Ngày thứ sáu" phải đến khiếp lên, đọc một câu thấy khiếp một
câu, đọc một chữ mà kinh một chữ... Đoạn văn có tả kỹ càng như thế, làm sống lại
cảnh kinh người, mới thấy đoạn văn sau biến ra kỳ tuyệt. Hồi này rất khéo, ở chỗ
tới ngày mai xử quyết như sấm nhanh không kịp bịt tai. Thế mà bây giờ đã có người
báo cho Sơn Bạc, há phải tới nơi không phép Rút Đường. Nào ai biết hai người
có tình phận với Lương Sơn Bạc, nay ở hồi trước Ngô Dụng đã dự đoán việc sai lầm,
vội vàng trao kế cho đám hảo hán hạ sơn, khi đi đường vài ngày, thì vừa gặp Khổng
mục xin hoãn được năm ngày, khiến mấy đám tới nơi, đến thời vừa việc, đã nên
khéo léo! Lại tả sau khi việc Đới Tung lộ ra, không nói đến hai tay Lý Quỳ,
Trương Thuận, chả những không thấy, còn chép thêm mọi người (đám ngục tù và người
quen thuộc) thương xót, cho thấy khác đi, khiến độc giả cũng thêm buồn, tới khi
đọc đến chàng đại hán đen chũi to lớn, chẳng ngờ khiếp vía sởn gai. Và sau
Trương Thuận chèo thuyền đi đến, laị làm cho người ta không mơ tưởng tới, mới
thấy rõ kỳ văn.

