Nụ hôn đầu cho em - Chương 05

Chương năm

Trông Simon thật kinh khủng. Anh bước ra khỏi chiếc xe thể
thao nhỏ màu đen với bộ dạng như cả đêm không ngủ. Mà có lẽ anh không ngủ thật.

Frankie dựa vào hàng lan can của ngôi nhà số sáu trên đường
Pelican, cố gắng không căm ghét người phụ nữ mà Simon chắc hẳn đã ở cùng đêm
qua, cố thuyết phục bản thân rằng mình chẳng quan tâm. Nhưng cô có quan tâm.
Tối qua cô đã đi ngủ trước khi nghĩ tới chuyện tìm kiếm Jazz Chester, vậy mà
Simon Hunt vẫn chen vào giấc mơ của cô.

Đủ rồi, cô thầm tuyên bố, hướng sự chú ý sang Clay Quinn
đang loay hoay mở khóa cánh cửa gỗ lớn. Từ giờ trở đi cô sẽ tập trung nỗ lực –
lúc ngủ cũng như lúc thức – vào việc tìm kiếm Jazz.

Điện thoại của Clay rung lên, ông dừng tay để nghe máy, đi
về phía đầu kia hàng hiên.

“Chào buổi sáng.” Giọng Simon khàn khàn, và Frankie biết nếu
quay đầu, cô sẽ thấy anh đang đứng rất gần. Nhưng cô không thể cưỡng lại. Cô
quay đầu.

Anh đang đeo kính râm và mái tóc vẫn còn ẩm ướt, chắc chắn
do vừa tắm qua. Bất chấp thời tiết nóng nực, anh cầm một chiếc cốc có in logo
của tiệm bánh rán nằm ở góc đường Ocean và Main, và
nhấm nháp cà phê nóng qua khe hở của nắp đậy bằng plastic. Anh mặc quần soóc Bermuda kẻ ca rô với áo polo trắng, chân xỏ một đôi giày
vải không tất. Đôi chân anh săn chắc, rám nắng và phủ một lớp lông vàng nhạt
đang ánh lên dưới nắng.

Trông anh vẫn rất tuyệt cho dù rõ ràng đang kiệt sức. Anh
mỉm cười với cô. “Chào.”

“Chào.” Frankie lùi lại, gia tăng khoảng cách giữa hai
người.

“Tôi có tin tốt và tin xấu,” Simon nói. “Cô muốn nghe cái
nào trước?”

Clay đã đóng điện thoại và quay lại tiếp tục chiến đấu với
cánh cửa. “Hai người thông cảm,” ông nói vọng ra. “Văn phòng đang hỗn loạn –
một khách hàng lâu năm của chúng tôi vừa bị bắt tối qua. Từ năm rưỡi sáng nay
tôi đã liên tục phải nghe điện thoại.” Điện thoại của ông lại reo. “Mẹ kiếp!”

Ông vừa tiếp tục loay hoay với cảnh cửa, vừa mở điện thoại
ra và kẹp dưới cằm. Frankie quay lại với Simon. “Tôi chỉ muốn nghe tin tốt,” cô
bảo anh. “Còn tin xấu anh có thể bỏ qua.”

“Tôi đã gọi cho bạn tôi ở đại học Boston.” Simon hạ thấp giọng và Frankie buộc
phải nhích lại gần để nghe cho rõ. “Cậu ta bảo tiết lộ thông tin cá nhân của
sinh viên là việc làm trái phép, nhưng khi tôi giải thích chúng ta cần địa chỉ
đó để làm gì, thì cậu ta nói trường hợp này sẽ được coi là ngoại lệ.”

“Tốt quá,” Frankie nói. “Còn tin xấu là gì?”

Clay Quinn đã mở được cửa, vẫn tiếp tục nói chuyện điện
thoại. Simon tháo kính râm ra và nhét vào túi. Đôi mắt anh không thâm quầng và
đỏ ngầu như Frankie tưởng – chúng trong trẻo và sáng ngời. Cô phải quay mặt đi.

“Tôi tưởng cô không muốn nghe tin xấu?” Simon hỏi vặn, đi
theo cô vào nhà.

Clay đi thẳng vào trong bếp, vẫn đang nói chuyện điện thoại.
Giọng ông vang vang trong không gian tĩnh mịch nghe thật kì quái.

Bên trong nhà tối và lạnh. Điều hòa vẫn hoạt động. Nó đã
chạy trong tám năm. Chỉ có ông lão Alex Bayard đến hiệu chỉnh theo định kì.
Frankie đứng ở tiền sảnh một lúc cho mắt quen dần. Cô vẫn nhớ ngôi nhà này. Bà
Alice Winfield luôn mở hết rèm cửa cho ánh nắng Florida rực rỡ tràn vào. Tất cả các bề mặt
đều được bà lau chùi sạch sẽ, các ô cửa kính sáng như gương. Bà cụ ắt hẳn sẽ
chậc lưỡi bất bình nếu biết ngôi nhà bị để mặc cho bụi bám theo thời gian thế
này.

“Tôi nói dối đấy,” Frankie nói. “Cho tôi biết tin xấu đi.”

“Bạn tôi hiện không ở văn phòng. Cậu ta ở nhà.”

Simon bước vào phòng khách và kéo những tấm rèm xếp nếp nặng
nề ra. Ánh nắng yếu ớt xuyên qua những ô cửa sổ cáu ghét, rọi sáng những vẩn
bụi bay la đà trong không khí. “Cậu ta bị cảm cúm. Ít nhất phải đến thứ Năm cậu
ta mới quay lại làm việc được.”

“Ôi trời.” Thứ Năm. Hôm nay là thứ Ba. Mất những hai ngày
chờ đợi…

“Cậu ta cũng nói với tôi là chưa chắc những thông tin đó đã
được cập nhật.” Simon nói tiếp. Đồ đạc trong phòng được phủ kín bằng những tấm
vải trắng toát. Anh vén một tấm lên và ghé nhìn bên dưới, rồi hạ ngay xuống. “Quỷ
thần ơi, cô nhìn cái này xem!”

Frankie nhìn theo. Nó là một chiếc bàn kiêm tủ ngăn kéo dạng
hộp làm bằng gỗ màu đen sần sùi.

“Gỗ sồi,” Simon nói, giọng đầy kính sợ. “Đó là gỗ sồi. Nó là
một món đồ gỗ của Stickley. Thứ này chắc phải nặng cả tấn.” Anh rút từ túi ra
một chiếc đèn nhỏ bằng cây bút và nằm ngửa ra sàn nhà, lưng dán xuống đất, ép
cánh tay và đầu xuống để có thể lách vào dưới gầm bàn.

“Đúng rồi!” Anh kêu lên. “Một dấu đỏ. Tuyệt!”

“Cái gì đó…?”

“Những món đồ gỗ cũ hơn và giá trị hơn do Gustav Stickley
tạo ra,” Simon giải thích, nhổm dậy từ sàn nhà, mặc kệ bụi bám khắp người. “Chúng
đều có một cái nhãn – một con dấu màu đỏ để nhận dạng. Những đồ gỗ về sau được
đóng dấu đen. Chúng không có giá bằng.”

Anh dợm bước để kéo một tấm vải phủ khác ra, nhưng chợt dừng
lại, nhìn lên Clay Quinn đang đứng ở khung cửa, tay ôm điện thoại. “Ông không
phiền chứ?” anh hỏi.

Quinn nhún vai. “Không, chỉ cần anh phủ chúng lại khi xong
việc thôi.”

Frankie nhìn theo khi Simon rảo bước quanh phòng. Anh kéo
hết vải phủ ra khỏi những món đồ đạc cũng được làm bằng loại gỗ màu đen và có
cùng phong cách mộc mạc như thế.

“Tất cả đều có dấu Stickley đỏ,” Simon nói. “Và đều ở trong
tình trạng hoàn hảo.”

Điện thoại của Clay lại reo, và ông mất hút về phía nhà bếp.
Simon quẳng đống vải phủ cho Frankie rồi xông vào phòng ăn, háo hức muốn xem
trong đó có những bảo vật gì.

Frankie vắt xấp vải lên lưng chiếc sofa thời Victoria. Cô đã uống trà
đá với bà Alice Winfield rất nhiều lần ngay tại căn phòng này, trên chiếc sofa
này.

Phòng khách là gian phòng yêu thích nhất của bà Alice. Nó có một ô cửa sổ
lồi trông ra biển. Họ đã cùng nhau nhấm nháp những chiếc bánh quy tự làm và Alice thường kể về những năm tháng bà dạy học ở một thị
trấn nhỏ gần Midland, Michigan. Bà đã dạy trong ngôi trường có duy
nhất một phòng học, và cô bé Frankie say sưa ngồi nghe những mẩu chuyện ấy.

Ở góc phòng bên kia là chiếc bàn kiểu nắp cuộn của bà.
Frankie lôi chiếc ghế ra và đẩy nắp bàn lên. Mọi thứ được sắp xếp gọn gàng
trong những hộc kín đáo, y như bà đã để. Giấy trắng và phong bì đặt chung một
chỗ. Một cuộn băng dính Scotch và một hộp kẹo cao su nhỏ ở ngăn khác. Một cuốn
sổ thu chi đặt ở ngăn thứ ba. Frankie lấy nó ra rồi giở xem.

Chữ viết tay của bà Alice
ngay ngắn và quen thuộc. Bà đã theo dõi cẩn thận số tiền chi tiêu cho thức ăn
và quần áo trong thời gian bà ở Sunrise Key. Một trang khác dành cho những hóa
đơn điện thoại, tiền điện và gas.

Không có dòng ghi chép nào về hàng xóm láng giềng, không có
thông tin cá nhân nào cả.

Các ngăn kéo bàn đầy chật từng chống giấy trắng và văn phòng
phẩm khác. Bút máy. Bút chì. Dây chun. Kéo. Một chiếc hộp nhỏ đựng đầy những
cục tẩy đủ mọi hình dạng và kích cỡ đã rắn lại theo thời gian. Những tờ tem thư
giá mười hai xu. Vài bộ bài buộc dây chun gọn ghẽ.

Frankie đậy nắp bàn và bước đến giá sách nơi bà Alice để các album ảnh.
Hồi trước cô rất thích lấy chúng xuống và xem những bức ảnh chụp con người thời
xưa trong trang phục cổ. Nó là một cánh cửa mở ra quá khứ. Cô thích bức ảnh bà Alice thời thanh xuân,
cười tươi rói, gương mặt rạng ngời khi bà đứng tay trong tay bên người chồng
điển trai.

Alice
để các album theo trình tự thời gian trên giá, cứ ba đến bốn năm lại bổ sung
một quyển mới. Frankie tìm thấy quyển cuối cùng và rút ra. Ngoài bìa phủ đầy
bụi và cô cẩn thận lau sạch khi mang tới sofa. Cô ngồi xuống, đặt nó lên lòng
rồi giở xem.

Một bức ảnh chụp bà Alice
đứng ngoài trời, cạnh khu vườn. Chính Frankie đã chụp bức ảnh đó. Gương mặt bà
không còn được mịn màng, nhưng nụ cười của bà vẫn trẻ trung và đôi mắt lấp lánh
niềm vui như môt cô gái trẻ.

Frankie lật qua vài trang. Kia rồi, được dán cẩn thận vào tờ
giấy đen của album là một bức ảnh chụp Alice,
Frankie và Jazz.

Cha dượng của Jazz – người Frankie tin chính là ông John bí
ẩn – đã chụp bức ảnh ấy.

Chao ôi, ngày đó Frankie còn trẻ măng. Cô vừa bước vào tuổi
mười tám, và thế giới có vẻ đầy hứa hẹn. Tương lai của cô dường như sáng ngời
tựa pha lê. Jazz đã ngỏ lời yêu cô, và cô không có lí do gì để không tin rằng
tình yêu của họ sẽ kéo dài đến phút cuối – khi hai người đều đã già hơn và
thông thái hơn cả bà Alice Winfield.

Nhưng cô đã lầm. Jazz đã rời khỏi Sunrise Key và chưa một
lần quay lại. Alice Winfield cũng biến mất vài năm sau đó. Sức khỏe yếu kém đã
không cho phép bà trở lại với ngôi nhà thân thương ở Sunrise Key. Frankie rưng
rưng nước mắt.

Tám năm. Tám năm qua bà Alice vẫn còn sống, vậy mà không một ai buồn
cho Frankie biết.

Lẽ ra cô đã viết thư. Lẽ ra cô đã gửi cho bà những bức ảnh
chụp đại dương và bầu trời. Lẽ ra cô đã đến ngôi nhà này và chiến đấu với đám
bụi bẩn. Thậm chí còn có thể đến tận Michigan
để thăm bà cụ nữa.

Cô giở sang bức ảnh bà Alice
đang đứng ở bếp nướng chả trên hiên sau, vẫy tay với máy ảnh – hay đúng ra là
với Frankie, người chụp ảnh, và nước mắt cô chợt ứa ra.

Có lẽ Alice
đã nghĩ Frankie không quan tâm đến bà.

“Này, Frankie, cô ổn chứ?” Simon ngồi xuống bên cạnh cô trên
sofa, đôi mắt tối sầm lại vì lo lắng.

Frankie vội vã lau mặt, nhưng những giọt nước mắt cứ rơi lã
chã. Cô chửi thề, đóng quyển album lại, sợ nó bị ướt, sợ cả sự thương hại của
Simon. “Tôi ổn.”

Anh biết cô đang nói dối. Anh vươn tay ra, nhẹ nhàng đặt lên
đầu cô, khẽ vuốt tóc cô. Bàn tay anh ấm áp, và khi cô ngước lên nhìn anh, cô
thấy đôi mắt anh thật dịu dàng.

“Thật ra tôi không ổn tí nào,” cô thú nhận. “Với tôi bà
Alice Winfield luôn là một người đặc biệt.”

Simon gật đầu. Trong mắt anh không có chút giễu cợt nào, anh
nở nụ cười nhẹ nhàng hòa nhã. “Đó là điều tôi thích ở cô đấy, Francine,” anh
bình thản nói. “Cô biết tường tận từng người đang sống trên đảo này – cả những
người đã từng sống trên đảo nữa. Và đối với cô, mỗi người đều đặc biệt theo
cách nào đó.”

Anh đưa mắt nhìn ra nền trời xanh rực rỡ qua những ô cửa sổ
loang lổ vết bẩn. “Alice Winfield không phải thiên thần. Bà ấy thẳng thừng và
lỗ mãng đến mức khiếm nhã. Bà ấy cũng hà tiện ghê gớm. Nhưng cô chỉ nhìn vào
mặt tốt của bà ấy.”

“Bà rất cẩn thận với tiền bạc của mình. Từ nhỏ tới lớn bà
đã…”

Simon mỉm cười ngắt lời cô. “Nào tôi có công kích bà ấy
đâu.” Anh nhích lại gần cô trên băng ghế, giơ tay chạm vào tóc cô lần nữa. “Tôi
chỉ lấy làm lạ trước việc cô có thể nhắm mắt làm ngơ trước mặt tiêu cực và luôn
tìm thấy một phẩm chất nào đó bù đắp lại trong mỗi con người.”

Frankie buộc phải nhìn đi nơi khác. Cảm giác về những ngón
tay anh trên tóc cô và sự ấm áp kín đáo trong mắt anh mạnh đến mức lấn át hết
thảy. Nhưng cô không thể vùng ra. Cô nhắm mắt, cho phép mình tận hưởng sự tiếp
xúc nhẹ nhàng này.

“Còn tôi thì sao, Francine,” Simon nhỏ giọng hỏi. “Cô thấy
gì ở tôi khi cô nhìn tôi?”

Anh ghé lại gần cô hơn, hơi thở phả vào tai ấm áp. Nếu cô
quay đầu sang, đôi môi anh sẽ chỉ cách môi cô một tiếng thì thầm. Nếu cô quay
đầu sang, anh sẽ hôn cô, và Frankie chắc chắn nụ hôn ấy sẽ dẫn tới nhiều điều
khác.

Cô nhìn thấy gì ư?

Đột nhiên, Frankie nhìn thấy rõ mồn một hình ảnh người phụ
nữ mặc váy hồng đã qua đêm với Simon. Có thể anh mới rời khỏi giường cô ta được
vài giờ. Và có lẽ, sau khi đã chăm sóc đầy đủ cho “đối tác” của mình, Simon cảm
thấy bây giờ anh có thể dồn hết sự tập trung sang Frankie.

Frankie đứng lên. “Tôi thấy một người đã là bạn của tôi
trong nhiều năm,” vừa trả lời anh, cô vừa bước đến khung cửa sổ lớn và nhìn ra
vịnh. “Người ấy sắp gây ra một sai lầm tệ hại.”

“Có thể nó là một sai lầm, nhưng chắc gì đã là sai lầm tệ
hại?”

Cô quay lại đối diện anh. “Chắc chắn là như thế.”

Simon không cử động. Anh chỉ nhìn và mắt cô như đang tìm
kiếm những câu trả lời, những sự thật bị che giấu. “Sao cô có thể quả quyết như
vậy?”

Frankie không quả quyết. Cô không quả quyết được bất cứ việc
gì khi nó dính dáng đến Simon. Đặc biệt là khi anh nhìn cô theo kiểu đó. Nhưng
cô vẫn vững vàng đáp trả ánh mắt anh, và giọng cô cất lên không chút run rẩy, “Si,
tôi sắp tìm lại được Jazz Chester, và tôi cảm thấy đây có thể là một cột mốc
rất quan trọng trong đời mình.” Cô cố gắng thuyết phục anh, đồng thời cũng
thuyết phục chính mình.

“Nếu cậu ta không tốt đẹp như cô còn nhớ thì sao?”

“Nếu anh ấy tốt hơn thì sao?”

Simon vẫn nhìn cô chăm chú, và Frankie ép mình nhìn lại anh.
Anh không mấy tin cô, và đó là quyền của anh. Nhưng cô biết nói gì với anh đây?
Rằng cô không thể mạo hiểm sa chân vào sự hấp dẫn thể xác bất ngờ bùng cháy
giữa hai người? Rằng cô không thể mạo hiểm đầu hàng những cám dỗ mà cơ thể cô
khao khát bởi vì sớm muộn gì con tim cô cũng bị lôi kéo vào ư?

Mà tim cô đã bị lôi kéo vào rồi còn đâu. Khi mơ mộng về
Simon, cô không mơ về một đối tác nóng bỏng trên giường. Mà mơ về một người
yêu. Và đó là chỗ trí tưởng tượng và hiện thực bị mắc vào nhau một cách vô
vọng. Cô mơ về một người không chỉ đáp ứng được những đam mê thể xác, mà còn
thỏa mãn cả những nhu cầu tình cảm của cô nữa. Một người dùng sự thân mật xác
thịt như phương tiện để biểu lộ những cảm xúc sâu kín nhất của tình yêu, chứ
không phải một người – như Simon – đùa cợt với tình yêu để tìm niềm vui xác
thịt.

Frankie có thể giả bộ nhiệt tình tham gia vào mối quan hệ
hời hợt, không ràng buộc mà Simon rất giỏi tạo ra này. Cô biết mình sẽ thích
những cử chỉ âu yếm đang tiềm ẩn trong đôi mắt nóng bỏng của anh. Thực ra, một
phần lớn trong cô đã bị cám dỗ...

Jazz, cô nhắc nhở mình. Việc cô tìm lại được Jazz Chester
chỉ còn là vấn đề thời gian. So với sự nhạy cảm sâu sắc của Jazz, Simon có vẻ
phù phiếm và nông cạn.

“Bà Alice cũng quý Jazz,” cô nói với Simon. “Bà tin chắc
rằng sau này chúng tôi sẽ ở bên nhau, anh biết đấy, nghĩa là lấy nhau ấy. Khi
không thấy Jazz quay lại Sunrise Key, bà buồn chẳng kém gì tôi. Bà nói với tôi
rằng ước gì bà có thể vẩy cấy đũa thần và làm cho anh ấy xuất hiện. Bà sẽ làm
bất cứ điều gì để mang hai đứa tôi trở lại bên nhau. Hồi còn sống bà đã không làm
được điều đó, nhưng giờ đấy khi đã qua đời, biết đâu bà lại thành công.” Simon
cuối cùng cũng đưa mắt đi, và Frankie biết mình đã thắng - ít nhất là vòng này.

Và ngay bản thân cô cũng đang bắt đầu tin những lời nói của
mình. Tìm được Jazz sẽ là một chuyện tốt đẹp.

Simon lại ngẩng nhìn Frankie khi cô đi tới tủ sách và đặt
quyển album lên giá. Quỷ tha ma bắt Jazz Chester. Anh đã không hề thích những
gì mình biết về thằng nhóc năm xưa, và những cảm nghĩ ấy vẫn còn nguyên vẹn đối
với gã đàn ông trưởng thành hiện tại.

Simon hiếm khi có đối thủ trong chuyện tình cảm với phụ nữ.
Sự ghen tuông anh đang vất vả kiềm chế là một cảm giác không thoải mái chút
nào. Anh chán ghét cái ý nghĩ mình còn không thể cạnh tranh nổi với một kẻ
Frankie đã không gặp suốt mười hai năm qua.

Nhưng thế không có nghĩa là Simon bỏ cuộc.

“Tôi nghĩ cô đang níu kéo một giấc mơ,” Simon bảo cô. Dù
Jazz có chưa lấy vợ, cậu ta cũng không thể hoàn hảo như trong trí nhớ của
Frankie. Không đời nào. Hoa hoét và thơ thẩn hẳn là một phần trong kế hoạch
ngọt ngào được cậu tra vạch ra để dễ dàng có được chỗ ngồi cạnh cô gái trên bãi
biển.

Cô nhìn anh, đôi mắt đen không dò đọc nổi cuối cùng đã ráo
nước mắt. Lúc anh trở vào phòng khách và thấy cô đang khóc, ruột gan anh bỗng
dưng quặn thắt và hết thảy mọi suy nghĩ về những báu vật cổ hiếm có anh tìm
được trong ngôi nhà đều bay biến.

“Nếu thế thì sao chứ?”

Thì sao ư? Thì Jazz sẽ là một nỗi thất vọng, và Simon sẽ có
mặt ở đó để thu gom những mảnh vỡ.

Frankie xem hết cả tủ sách và ra khỏi phòng, hướng đến cầu
thang dẫn lên tầng hai của ngôi nhà. Simon theo sau cô.

Clay Quinn vẫn chưa nói chuyện điện thoại xong, giọng ông
vọng ra nghèn nghẹt đằng sau cánh cửa bếp đóng kín.

“Đồ gỗ trong phòng ăn thế nào?” Frankie hỏi, bước lên cầu
thang, chuyển hẳn chủ đề.

“Hoàn hảo. Tất cả đều là gỗ sồi có dấu đỏ Stickley. Thực ra
tôi đang tìm một bộ bàn ghế giống y như vậy cho một khách hàng để bày trong
phòng ăn. Ông ta giao hẹn nếu đến cuối tháng mà tôi chưa tìm được thì ông ta sẽ
chọn những sản phẩm kém chất lượng hơn từ một nhà môi giới khác.”

Cô ngoái đầu nhìn anh. “Chẳng phải cuối tháng là...”

“Thứ Hai tới. Chúng ta cần tìm được ông John này trước thứ
Hai, bằng không cô sẽ không nhận được khoản tiền thưởng, còn tôi sẽ hỏng mất
mối làm ăn này.”

Simon theo Frankie vào một gian phòng hẳn đã từng là phòng
ngủ của bà Alice Winfield. Những tấm rèm nặng nề buông rủ khiến căn phòng chỉ
còn được rọi sáng lờ mờ nhờ ánh sáng hắt vào ngoài hành lang.

“Tôi nghĩ chúng ta không nên trông chờ vào việc anh bạn tôi
ở Boston tìm ra địa chỉ hiện nay của Jazz,” Simon nói tiếp. “Ta cần xem những
trang sổ sách chúng ta vừa photo lại và thử tìm họ của John trong đó.”

Frankie quay lại đối diện với anh, gương mặt thanh tú của cô
trở nên bí ẩn trong bóng tối ảm đạm. “Chúng ta ư?”

“Hãy để tôi giúp cô tìm người này,” anh nói.

Cô không nói gì, chỉ nhìn anh.

“Mọi thám tử tư đều có cộng sự thân thiết,” Simon tiếp tục. “Sherlock
Holmes có Watson. Spenser có Hawk. Rockford có bố mình. Thanh tra Clouseau có
Kato...”

Cuối cùng cô cất tiếng. “Anh không nghĩ tôi có thể tự tìm
được John.”

“Không! Không phải thể! Không liên can tí nào đến chuyện đó,”
Simon vội vàng trấn an cô.

“Thế là về chuyện gì?”

“Hai bộ óc thì vẫn tốt hơn một. Công việc của tôi mấy ngày
tới khá nhẹ nhàng, và...” - cô vẫn nhìn anh, gương mặt gần như vô cảm - “và tôi
phải thú nhận rằng, Francine, tôi vẫn ấp ủ hi vọng có thể đưa cô lên giường với
tôi.”

Frankie lộ vẻ ngạc nhiên trong tích tắc, rồi bật cười. “Rốt
cuộc, cũng có thứ khớp với sự thật.”

Simon hạ thấp giọng, lúc này mới chợt nhận ra bóng tối tĩnh
lặng đang bao trùm gian phòng và chiếc giường lớn kiểu cổ được phủ một tấm vải
kê trong góc. “Nghĩ xem, nó có thể tuyệt diệu đến nhường nào.”

Có điều gì đó lưu chuyển trong mắt cô, mách bảo Simon rằng
cô cũng đã hình dùng được sức nóng hủy diệt mà hai người có thể tạo ra. “Có lẽ
anh đúng.” Cô xoay người và bước tới cửa sổ, gạt những tấm rèm ra. “Nhưng tôi
xin nói luôn với anh, Si, sẽ không có chuyện đó đâu. Cho nên nếu đấy là động cơ
giúp đỡ của anh...”

Simon hơi nheo mắt trước ánh sáng đột ngột. “Vì tôi thích,
Francine. Điều đó - và ý nghĩ sẽ đem lại sự hài lòng cho một khách hàng tối
quan trọng - là động cơ của tôi.”

“Tôi nghiêm túc với những gì tôi nói lúc nãy, rằng anh và
tôi đang phạm sai lầm nghiêm trọng.”

“Tôi biết. Và có lẽ cô đúng.”

“Chắc chắn là tôi đúng. Không là không. Và nếu anh cứ vượt
qua những giới hạn đó...”

“Không đâu. Tôi hứa.”

“Vô cùng xin lỗi,” tiếng Clay Quinn vang lên ở ngoài cửa, và
Simon gần như nhảy dựng lên vì giật mình. “Nhưng văn phòng của tôi gặp rắc rối
lớn và tôi phải đi ngay. Tôi vừa gọi ra sân bay. Chiếc máy bay tôi thuê đã sẵn
sàng cất cánh ngay khi tôi đến đó. Hai người cứ ở lại đây bao lâu tùy thích.
Tôi sẽ để lại chùm chìa khóa cho các bạn. Nó vẫn ở dưới thềm cửa ấy.”

Frankie gật đầu.

“À, và tôi sẽ cho cô số điện thoại của em trai tôi, phòng
trường hợp không liên lạc được với tôi.” Clayton lấy trong túi ra một tập giấy
nhỏ có logo khu resort Seaholm. Ông viết một cái tên và số điện thoại lên một
tờ giấy, rồi xé ra đưa cho Frankie.

Cô nhìn tờ giấy, rồi gấp lại và cất vào túi. “Nếu ông không
ngại, tôi sẽ cho Simon - trợ lí của tôi - đưa ông ra sân bay.”

Trợ lí của cô. Cô sẽ để anh giúp. Simon biết mình đang cười
hớn hở như thằng ngốc, nhưng anh không dừng được. Frankie chỉ nhìn lướt anh
trong một thoáng ngắn ngủi, nhưng đủ để gửi cho anh một thông điệp không lời:
nếu anh đi quá đà, anh sẽ bị tống cổ. Được thôi, Anh có thể chấp nhận những
luật lệ đó.

“Chúc ông một chuyến bay tốt lành,” Frankie nói với Clay.

“Cảm ơn, Tôi sẽ giữ liên lạc.”

“Đợi tôi quay lại nhé,” Simon dặn Frankie, rồi cùng Quinn đi
ra cửa.

Báo cáo nội dung xấu