Nghệ thuật đua xe trong mưa - Chương 53 - 54 - 55 - 56
53
Tôi mà biết mình gặp cha mẹ
của Denny thì đã xử sự niềm nở với mấy người lạ này hơn rồi. Tôi chẳng được báo
trước gì cả, không báo động, nên việc tôi bị bất ngờ là hoàn toàn bào chữa
được. Dẫu gì tôi cũng muốn chào đón họ như gia đình hơn.
Họ ở lại với chúng tôi ba
hôm, và hầu như chẳng bước chân ra khỏi căn hộ. Vào một buổi chiều trong mấy
ngày đó, Denny đi đón Zoë, xinh xắn với mái tóc thắt nơ và chiếc váy dễ thương,
và rõ ràng là được Denny dặn dò rồi, vì cô bé sẵn lòng ngồi khá lâu trên ghế
dài và để mẹ của Denny đưa hai tay lần dò trên mặt mình. Nước mắt giàn giụa
trên hai má mẹ của Denny suốt buổi gặp gỡ, những giọt thánh thót lấm tấm trên
chiếc váy in hoa của Zoë.
Denny lo các bữa ăn cho chúng
tôi, và cơ bản là đạm bạc: thịt nướng, quả đậu tây hấp, khoai tây luộc. Họ lẳng
lặng ăn. Chuyện ba con người có thể ở trong một căn hộ bé như vậy và nói rất ít
như thế thì hết sức lạ đối với tôi.
Cha của Denny bớt đi vẻ cộc
lốc khi ở cùng chúng tôi, thậm chí ông còn mỉm cười với Denny vài bận. Có lần,
trong căn hộ vắng lặng, khi tôi đang ngồi trong góc của mình mà quan sát mấy
cái thang máy ở cao ốc Space Needle, ông đi lại đứng sau lưng tôi.
“Mày thấy gì, anh bạn?” ông
hỏi khẽ, rồi sờ đỉnh đầu tôi, mấy ngón tay ông gãi gãi trên tai tôi y như Denny
vẫn làm. Cái cách sờ của một đứa con trai mới giống cách sờ của người cha làm
sao.
Tôi ngoái lui nhìn ông.
“Chăm sóc nó cẩn thận,” ông
nói.
Còn tôi chẳng thể định được
là ông đang nói với tôi hay với Denny. Và nếu ông đang nói với tôi thì ông nói
vậy với ý là một yêu cầu hay một lời cảm ơn? Ngôn ngữ con người, dù chính xác
với cả ngàn ngàn chữ thì cũng vẫn có thể mơ hồ một cách tuyệt vời như vậy đấy.
Đêm cuối chuyến viếng thăm của
họ, bố Denny đưa cho Denny một cái phong bì.
“Mở ra đi,” ông nói.
Denny làm y lời, nhìn vào bên
trong.
“Nó ở đâu ra thế này vậy
trời?” ông hỏi.
“Từ bố mẹ mà ra,” bố ông đáp.
“Bố mẹ làm gì có tiền đâu.”
“Bố mẹ có một căn nhà. Bố mẹ
có nông trại.”
“Bố mẹ không thể bán nhà mình
đi như thế được!” Denny thốt lên.
“Bố mẹ không bán,” bố ông
nói. “Họ gọi đó là thế chấp đối lưu. Ngân hàng sẽ lấy nhà khi bố mẹ chết đi, mà
bố mẹ thì nghĩ con cần tiền bây giờ hơn là sau này, thế nên.”
Denny ngước nhìn cha, rất cao
và quá gầy; áo quần trên người ông như đang khoác trên con bù nhìn.
“Bố...” Denny định nói, nhưng
mắt ông nhòa lệ và ông chỉ còn biết lắc đầu. Cha ông đưa tay ra ôm lấy ông, kéo
ông lại gần rồi vuốt tóc ông bằng những ngón tay dài và các móng tay cong hình
lưỡi liềm to bè, xanh xao gần chỗ thịt mềm.
“Bố mẹ chưa hề làm gì cho
phải với con,” bố ông nói. “Bố mẹ chưa hề làm điều đúng. Cái này sẽ bù đắp lại
điều đó.”
Sáng hôm sau họ đi. Như làn
gió mạnh mẽ cuối thu khua xào xạc cây cối cho đến khi những chiếc lá cuối cùng
rụng xuống, chuyến viếng thăm của họ, ngắn ngủi nhưng mạnh mẽ, báo hiệu mùa đã
chuyển, và chẳng bao lâu nữa, sự sống sẽ lại bắt đầu.
54
Một tay đua phải có niềm tin.
Vào tài năng của mình, sự phán đoán của mình, sự phán đoán của những kẻ quanh y,
vào vật lí. Một tay đua phải có niềm tin vào đội của mình, xe của mình, lốp xe
của mình, phanh của mình, chính bản thân mình.
Mấy cái đỉnh được dựng không
đúng cách. Y buộc phải ra khỏi làn chạy quen thuộc của mình. Y chạy nhanh quá.
Lốp xe của y mất độ bám. Đường đua đã trơn đi. Và thế là y bỗng thấy mình tại
góc cua lối ra, đường đua không còn nữa mà xe lại đang phóng quá nhanh.
Khi đoạn vỉa sỏi ập tới trước
mặt, tay đua phải có những quyết định sẽ ảnh hưởng đến cuộc đua của y, tương
lai của y. Quặt vào sẽ là tai họa: bẻ bánh trước trái với ý muốn tự nhiên của
nó sẽ chỉ làm xe quay thôi. Nhấc chân ga thì cũng tệ như vậy, sẽ làm cho phần
sau xe mất khả năng bám đường. Cần phải làm gì đây?
Tay đua phải chấp nhận số phận mình. Y phải chấp nhận sự
thật là đã phạm sai lầm. Phán đoán sai. Quyết định sai. Một sự hội tụ các tình
huống đã đưa y vào tình thế này. Tay đua phải
chấp nhận tất cả và sẵn lòng trả giá cho điều đó. Y phải đi ngoài đường đua.
Phải bỏ đi hai bánh. Thậm chí
là bốn. Thật là một cảm giác tồi tệ cả với tư cách là một tay đua lẫn một kẻ
thi tài. Sỏi bắn lên gầm xe. Cảm giác chới với trong bùn. Trong khi bánh xe của
y trật ngoài đường đua, mấy tay đua khác vượt qua y. Họ chiếm chỗ của y, tiếp
tục phóng nhanh. Chỉ có y là chậm lại.
Lúc này, tay đua cảm thấy một
cơn khủng hoảng ghê gớm. Y phải nhấn ga trở lại. Y phải trở lại đường đua.
Ồ! Thật điên rồ!
Hãy nghĩ đến những tay đua đã
bị loại khỏi cuộc đua do bẻ bánh lái, do phản ứng quá trớn và trượt xe ngay
trước mặt các đối thủ của mình. Một tình thế thật khủng khiếp nếu ta rơi vào...
Một kẻ chiến thắng, một nhà
vô địch sẽ chấp nhận số phận mình. Y sẽ tiếp tục lăn bánh xe trong bụi đất. Y
sẽ cố hết mình duy trì đường đi của mình và dần dần đưa mình trở lại đường đua
khi đã an toàn để làm như vậy. Đúng, y sẽ sụt vài bậc trong cuộc đua. Phải, y
đang thất thế. Nhưng y vẫn đang còn đua. Y vẫn còn sống.
Cuộc đua thì dài. Thà lái vừa
sức và đến đích cuộc đua sau những kẻ khác còn hơn là chạy quá sức để rồi tan
nát.
55
Những ngày sau đó rất nhiều
thông tin đã được tiết lộ, nhờ Mike, ông ta cứ bám theo Denny mà hỏi cho đến
khi ông trả lời mới thôi. Về bệnh mù của mẹ ông, nó xảy ra từ hồi ông còn nhỏ;
ông chăm sóc bà cho đến khi xong trung học thì bỏ nhà đi. Về việc bố Denny đã
bảo, nếu không ở lại phụ giúp việc nông trại và chăm nom mẹ ông thì bố ông sẽ
chẳng màng liên lạc nữa. Về chuyện Denny suốt nhiều năm trời, Giáng sinh nào
cũng gọi điện về cho đến khi cuối cùng mẹ ông cũng chịu nghe máy, chỉ lắng nghe
mà không nói gì. Nhiều năm trời, cho đến khi cuối cùng bà cũng hỏi ông ra sao
và ông có hạnh phúc không.
Tôi biết ra là bố mẹ Denny
không chi tiền cho chương trình lái thử ở Pháp, như ông nói; ông đã trả cho
chương trình đó bằng khoản vay thế chấp nhà. Tôi biết được rằng bố mẹ Denny
không góp phần vào khoản tài trợ mùa xe con, như ông đã nói; ông đã trả bằng
một khoản thế chấp thứ hai, điều Eve khuyến khích.
Luôn cố gắng tới cùng. Thấy
mình khánh kiệt. Và thấy mình nói chuyện điện thoại với người mẹ mù của mình,
xin bà một giúp đỡ nào đó, bất kì giúp đỡ nào, để ông có thể giữ lại đứa con
gái của mình; và câu trả lời của bà là bà sẽ cho ông mọi thứ giá được gặp cháu
gái bà. Vậy là hai bàn tay bà đã được vuốt ve gương mặt Zoë đầy hi vọng; nước
mắt bà rơi trên váy áo Zoë.
“Câu chuyện buồn quá,” Mike
nói, rót cho mình một phần tequila nữa.
“Thực ra,” Denny nói, nhìn
đăm đăm lon Diet Coke của mình, “tớ tin nó có một kết thúc có hậu.”
56
“Xin mời tất cả đứng lên,” viên
thừa phát lại hô to, đúng là thủ tục thời xưa trong một khung cảnh thời nay như
vậy. Tòa án mới của Seattle: những bức tường kính và xà lim loại đâm ra từ mọi
góc, sàn bê tông và cầu thang lót cao su, và tất cả phủ một ánh đèn xanh xanh,
lạ lùng.
“Ngài thẩm phán Van Tighem.”
Một người đàn ông lớn tuổi,
mặc áo thụng đen, sải bước vào phòng. Ông thấp và to bè, chải một dải tóc bạc
vắt qua một bên đầu. Cặp lông mày ông đen rậm treo trên đôi mắt ti hí như hai
con sâu róm xù xì; ông nói bằng giọng Ireland trầm bổng.
“Mời ngồi,” ông ra lệnh. “Ta
bắt đầu.”
* * *
Thế là, phiên tòa bắt đầu. Ít
ra cũng là trong trí tôi. Tôi sẽ không kể cặn kẽ cho các anh đâu vì tôi không
biết các tình tiết đó. Tôi không có ở đó vì tôi là một con chó, mà chó thì
không được phép vào dự phiên tòa. Ấn tượng duy nhất tôi có về phiên tòa là
những hình ảnh và khung cảnh tuyệt vời mà tôi nghĩ ra trong các giấc mơ của
mình. Sự thực duy nhất tôi biết là những cái tôi góp nhặt khi nghe Denny kể
lại; ý niệm duy nhất của tôi về phòng xử án, như tôi đã nói trước đây, là những
điều tôi học được khi xem mấy cuốn phim ưa thích và các chương trình truyền
hình. Tôi xâu chuỗi những ngày ấy lại với nhau như một người ráp một trò chơi
xếp hình mới chỉ xong vài phần - cái khung đã xong, các góc đã ghép rồi, nhưng
còn vài mảnh ghép ở giữa thì vẫn còn thiếu.
Ngày xử đầu tiên dành cho các
kiến nghị trước khi xét xử, ngày thứ hai là để chọn bồi thẩm đoàn. Denny và
Mike chẳng nói gì nhiều về các sự kiện đó nên tôi cho là mọi thứ diễn ra như
mong muốn. Cả hai ngày, Tony và Mike đều đến căn hộ của chúng tôi lúc sáng sớm;
Mike tháp tùng Denny tới tòa còn Tony ở lại để chăm sóc tôi.
Tony và tôi chẳng làm gì
nhiều lúc ở với nhau. Chúng tôi ngồi đọc báo, hay đi dạo một lát, hay liều tới
Bauhaus để y kiểm tra email bằng wi-fi miễn phí của quán. Tôi thích Tony cho dù
mấy năm trước y đã giặt con chó của tôi. Cũng có thể là vì y đã làm vậy. Con
chó ấy, thật tội nghiệp, cuối cùng đã rách hết thịt xương chỉ còn là một mớ chỉ
và bị quẳng vào thùng rác mà không được làm lễ gì cả, không có bài điếu. “Con
chó của mình,” là tất cả những gì tôi nghĩ ra được mà nói. Con chó của mình. Và
tôi nhìn Denny thả nó vào thùng rồi đóng hộc lại, và thế là hết.
Sáng ngày thứ ba, có một sự
thay đổi rõ rệt trong bầu không khí khi Tony và Mike tới. Căng thẳng nhiều hơn,
ít đi những câu đùa tếu vô vị, không có câu pha trò. Đó là ngày vụ kiện sắp được
bắt đầu thật sự, vậy nên tất cả chúng tôi hết sức lo lắng. Tương lai của Denny
đang lâm nguy, và đó chẳng phải là chuyện đùa.
Hiển nhiên là, về sau tôi
được biết, ông Lawrence đã đưa ra một bài bào chữa hùng hồn. Ông đồng tình với
khẳng định của công tố rằng bản chất của gạ gẫm tình dục là sự khống chế bằng
vũ lực, nhưng chỉ ra rằng các cáo buộc vô căn cứ là thứ vũ khí cũng mang tính
hủy diệt tương đương, và nó cũng mang bản chất khống chế vũ lực như thế. Rồi
ông cam đoan sẽ chứng minh Denny vô tội trước các cáo buộc đang nhắm vào.
Bên công tố khởi đầu vụ kiện
của mình bằng một loạt nhân chứng, tất cả đều đã ở với chúng tôi trong cái tuần
ở Winthrop ấy, từng người họ đều khai cung cách cợt nhả thiếu đứng đắn của
Denny và kiểu ông rình mò theo Annika như dã thú. Đúng, họ thừa nhận, cô ta đã
hùa theo ông, nhưng cô ta là con nít mà! (“Như Lolita vậy đó!” Spencer Tracy
chắc đã phải la lên vậy.) Denny là một người đàn ông thông minh, mạnh mẽ, đẹp
trai, nhân chứng nói, và đáng lẽ phải hiểu rõ hơn. Hết người này đến người
khác, họ mô tả một thế giới trong đó Denny lén lút làm cách này cách khác để
được cùng Annika, để chạm vào cô ta, để cầm tay cô ta một cách bất chính. Theo
sau mỗi lời làm chứng thuyết phục là một lời làm chứng còn thuyết phục hơn, rồi
lại lời làm chứng khác nữa. Cho đến khi, cuối cùng, chính kẻ tự cho là nạn nhân
được gọi đến đứng trước bục.
Mặc một cái váy dịu dàng với
áo choàng cổ cao, tóc kẹp ra sau và mắt cúi xuống, Annika bắt đầu kể lại từng
cái nhìn, từng cái liếc mắt, từng hơi thở, từng cái đụng chạm vô tình mà hữu ý.
Cô ả thừa nhận là mình đã sẵn lòng - thậm chí còn hăm hở - đồng lõa, nhưng lại
một mực rằng, là một đứa trẻ, cô chẳng biết mình đang dấn thân vào chuyện gì.
Buồn bực thấy rõ, cô ta nói toàn bộ sự việc đã dằn vặt mình ra sao kể từ hồi
đó.
Dằn vặt cô ta kiểu nào chứ,
tôi lẽ ra đã hỏi rồi, do sự thơ ngây của cô ta, hay tội lỗi của cô ta? Nhưng
tôi đâu có ở đấy mà đặt câu hỏi. Khi xong phần thẩm vấn trực tiếp Annika thì
không một ai trong phòng xử án, trừ Denny, chắc chắn tuyệt đối là trong tuần ấy
ông không có thái độ sỗ sàng với cô ta. Và ngay cả sự tự tin của Denny cũng
lung lay.
Đầu giờ chiều hôm ấy - hôm ấy
là thứ Tư - khí trời thật ngột ngạt. Mây trĩu nặng nhưng trời chưa chịu mưa.
Tony và tôi đi bộ xuống Bauhaus để y mua cà phê. Chúng tôi ngồi bên ngoài mà
ngây nhìn xe cộ đi lại trên đường Thông cho đến khi tâm trí tôi ngừng hoạt động
và tôi mất dấu thời gian.
“Enzo...”
Tôi ngóc đầu lên. Tony bỏ
điện thoại vào túi.
“Mike đấy. Công tố viên yêu
cầu thời gian nghị án đặc biệt. Đang có chuyện gì đó.”
Y dừng, chờ tôi đáp lại. Tôi
chẳng nói gì.
“Ta nên làm gì đây?” y hỏi.
Tôi sủa hai tiếng. Chúng tôi
nên đi.
Tony đóng máy và thu dọn túi
xách. Chúng tôi vội xuôi đường Thông rồi băng qua cầu vượt trên đường cao tốc.
Y đi nhanh quá, tôi phải vất vả lắm mới theo kịp. Khi cảm thấy sợi dây bị căng,
y mới ngoái nhìn tôi rồi chậm lại. “Ta phải nhanh lên nếu muốn theo kịp họ,” y
nói. Tôi cũng muốn bắt kịp họ mà. Nhưng hông tôi đau quá. Chúng tôi tất tả đi
qua nhà hát Paramount đến đại lộ Năm. Chúng tôi hối hả về phía Nam, quanh co
hết từ cái biển Đi bộ này đến biển Cấm đi bộ kia cho đến khi chúng tôi đến được
quảng trường trước mặt tòa án trên đại lộ Ba.
Không thấy Mike và Denny ở
đó. Chỉ có một nhóm vài người ở góc quảng trường, nói năng gấp gáp, điệu bộ
kích động. Chúng tôi cất bước về phía họ. Chắc họ biết đang có chuyện gì. Nhưng
đúng lúc đó, mưa bắt đầu rơi. Nhóm người tức thì giải tán, và tôi thấy Annika
giữa họ. Mặt cô ta rầu rĩ và xanh xao; cô ta đang khóc. Khi nhìn thấy tôi, cô
ta nhăn mặt, vội quay đi, rồi khuất dạng vào trong tòa nhà.
Sao cô ta lại buồn bực vậy?
Tôi chẳng biết, nhưng chuyện đó khiến tôi hết sức bồn chồn. Chuyện gì có thể
đang xảy ra bên trong tòa nhà đó, trong mấy phòng tòa án âm u đó? Cô ta có thể
đã nói những gì để buộc tội ông thêm và hủy hoại đời ông? Tôi cầu mong có một
kiểu can thiệp nào đó quá, cầu mong linh hồn của Gregory Peck hay Jimmy Stewart
hay Raul Julia giáng xuống quảng trường để dẫn dắt chúng tôi đến sự thật. Cầu
cho Paul Newman hay Denzel Washington sẽ bước xuống từ một chiếc xe buýt chạy
ngang qua và cho một bài phát biểu hùng hồn khiến mọi chuyện đâu vào đó.
Tony và tôi nấp dưới một mái
hiên; chúng tôi đứng đó căng thẳng. Có chuyện gì đó đang xảy ra, và tôi chẳng
biết đó là gì. Tôi ước có thể tự cài mình vào phiên xử, lẻn vào trong phòng xử
án, nhảy chồm lên bàn, và khiến mọi người nghe ý kiến của mình. Nhưng việc tôi
tham gia ấy không nằm trong kế hoạch.
“Giờ thì xong rồi,” Tony nói.
“Ta chẳng thể thay đổi những điều đã được định đoạt.”
Không thể sao? Tôi thắc mắc.
Dù chỉ một chút thôi sao? Ta không thể bằng ý chí khiến bản thân đạt được cái
bất khả sao? Ta không thể dùng uy lực của sức sống ta mà thay đổi cái gì đó:
một cái nhỏ nhoi, một khoảnh khắc vô nghĩa, một hơi thở, một cử chỉ? Ta chẳng
thể làm gì để thay đổi những thứ quanh mình sao?
Hai chân tôi nặng đến độ
không đứng thêm được nữa; tôi nằm xuống nền bê tông ướt, và thế là tôi chìm vào
một giấc ngủ chập chờn đầy những giấc mơ rất lạ.
“Thưa quý ông quý bà bồi thẩm
đoàn,” ông Lawrence nói, đứng trước bục của bồi thẩm đoàn. “Điều quan trọng
phải lưu ý rằng vụ kiện mà công tố đưa ra là hoàn toàn do suy diễn. Không hề có
bằng chứng xâm phạm nào cả. Sự thật của cái thực sự xảy ra đêm đó chỉ có hai
người biết. Hai người, và một con chó.”
“Một con chó sao?” vị thẩm
phán hỏi ngờ vực.
“Phải, thưa thẩm phán Van
Tighem,” ông Lawrence nói, mạnh bạo bước tới trước. “Toàn bộ sự việc đã được
con chó của bị đơn làm chứng. Tôi xin gọi Enzo ra trước bục!”
“Tôi phản đối!” viên công tố
quát.
“Chấp nhận,” thẩm phán nói. “Tạm
thời lúc này.”
Ông lấy ra một tập sách dày
cộp dưới bàn mình và lật kĩ hồi lâu, đọc hết đoạn này đến đoạn kia.
“Con chó này có nói không?”
vị thẩm phán hỏi ông Lawrence, đầu vẫn còn vùi trong cuốn sách.
“Nếu có sự trợ lực của một bộ
tổng hợp thoại,” ông Lawrence nói, “thì vâng, con chó nói.”
“Tôi phản đối!” viên công tố
lớn tiếng chen vào.
“Khoan đã,” thẩm phán nói. “Cho
tôi biết về thiết bị này, ông Lawrence.”
“Chúng tôi đã mượn một bộ
tổng hợp thoại đặc biệt thiết kế cho Stephen Hawking,” ông Lawrence tiếp. “Bằng
cách đọc các xung điện bên trong não...”
“Đủ rồi! Ông lấy ‘Stephen
Hawking’ ra mà bỡn cợt tôi!”
“Với thiết bị này, con chó có
thể nói,” ông Lawrence tiếp tục.
Thẩm phán gập cuốn sách to sụ
của ông lại.
“Phản đối vô hiệu. Thế thì,
hãy cho gọi hắn, con chó này! Hãy cho gọi hắn!”
Căn phòng đầy hàng trăm
người, và tôi đang ngồi trên bục nhân chứng, được buộc vào thiết bị mô phỏng
thoại của Stephen Hawking; ông thẩm phán yêu cầu tôi tuyên thệ.
“Mi có thề sẽ nói sự thật,
toàn bộ sự thật, và chỉ sự thật mà thôi?”
“Tôi thề,” tôi nói bằng cái
giọng khào khào, kim loại chẳng giống như tôi hình dung tí nào. Tôi luôn mong
giọng mình nghe có vẻ oai vệ và hữu hình hơn, như James Earl Jones.
“Ông Lawrence,” ông thẩm phán
nói, kinh ngạc. “Người làm chứng của ông.”
“Enzo,” ông Lawrence nói, “có
phải mi đã có mặt tại sự việc gạ gẫm bị cáo buộc?”
“Đúng vậy,” tôi nói.
Trong phòng đột nhiên im
phắc. Bỗng dưng chẳng ai dám mở miệng, khúc khích, hay dù chỉ là thở. Tôi đang
nói, còn họ đang lắng nghe.
“Hãy tự nói cho chúng ta biết
những điều mi đã chứng kiến trong phòng ngủ của ông Swift tối hôm ấy.”
“Tôi sẽ nói cho quý vị,” tôi
nói. “Nhưng trước tiên, với sự cho phép, tôi muốn nói với cử tọa phiên tòa.”
“Mi được phép,” thẩm phán
nói.
“Bên trong mỗi người chúng ta
có một sự thật,” tôi mở lời, “sự thật tuyệt đối. Nhưng đôi khi sự thật khuất
kín trong phòng gương. Đôi khi chúng ta tin mình đang nhìn vật thật trong khi
thực ra ta đang nhìn một bản sao, một sự lệch lạc. Khi nghe phiên tòa này, tôi
nhớ lại cảnh cao trào trong phim James
Bond, The man with the golden gun.
James Bond thoát ra được phòng gương bằng cách đập vỡ gương, đập tan những ảo
ảnh, cho đến khi chỉ còn sự thật trần trụi đứng trước mặt y. Chúng ta nữa, phải
đập tan những tấm gương. Chúng ta phải nhìn vào bên trong bản thân mình và xóa
bỏ những sai lệch cho đến khi cái mà thâm tâm ta biết là toàn hảo và chân thực,
đứng trước mặt ta. Chỉ khi ấy thì công lí mới được phụng sự.”
Tôi nhìn qua mấy bộ mặt trong
phòng và thấy từng người trong họ đang ngẫm nghĩ những lời tôi nói, gật đầu cảm
kích.
“Giữa họ đã không có gì xảy
ra cả,” cuối cùng tôi nói. “Chẳng có gì cả.”
“Nhưng chúng tôi lại nghe quá
nhiều những tố cáo này,” ông Lawrence nói.
“Thưa ngài thẩm phán” - tôi
cao giọng - “thưa quý ông quý bà bồi thẩm đoàn, tôi cam đoan với quý ngài là
ông chủ tôi, Dennis Swift, không hề cư xử thiếu đứng đắn bên thiếu nữ đó,
Annika. Tôi thấy rõ là cô ta yêu ông ấy hơn bất cứ gì trên đời, và sẵn lòng
hiến dâng cho ông. Ông đã cự tuyệt sự dâng hiến của cô ta. Sau khi chở chúng tôi
qua đoạn đèo khổ ải, sau khi đã làm kiệt sức mình, vắt cạn mọi sức lực để đưa
chúng tôi về nhà bình an vô sự, Denny chỉ có lỗi là ngủ thiếp đi. Annika, cô
gái này, người phụ nữ này, có thể không nhận thức được những hệ lụy từ hành
động mình, đã tấn công Denny của tôi.”
Tiếng xì xầm dậy lên trong
phòng.
“Cô Annika, chuyện này có
đúng không?” ông thẩm phán hỏi.
“Điều đó đúng,” Annika đáp.
“Cô có từ bỏ những lời cáo
buộc này không?” Van Tighem hỏi.
“Có,” cô ta khóc. “Tôi xin
lỗi vì nỗi đau mà tôi đã bắt tất cả mọi người phải chịu. Tôi từ bỏ!”
“Đây là một tiết lộ kinh
ngạc!” Van Tighem tuyên bố. “Chó Enzo đã nói! Sự thật đã rõ. Vụ án khép lại.
Ông Swift được tự do đi lại, và ông ấy được trao quyền giám hộ con gái mình.”
Tôi vọt ra khỏi bục nhân
chứng mà ôm chầm lấy Denny và Zoë. Cuối cùng, chúng tôi lại là một gia đình,
lại bên nhau.
* * *
“Xong rồi.”
Giọng ông chủ tôi.
Tôi mở mắt. Denny đi giữa
Mike và ông Lawrence, ông ta cầm một cái ô rất to. Bao lâu trôi qua rồi, tôi
không biết. Nhưng cả Tony lẫn tôi đều ướt mưa.
“Kì nghị án đó là bốn mươi
lăm phút dài nhất trong đời tớ,” Denny nói.
Tôi chờ câu trả lời của ông.
“Cô ta phản cung rồi,” ông
nói. “Họ bỏ các cáo buộc.”
Ông đã tranh đấu, tôi biết,
nhưng ông cũng thấy khó mà thở nổi.
“Họ bỏ các cáo buộc, vậy là tớ
được tự do rồi.”
Denny đã có thể kìm lại nếu
chúng tôi có một mình, nhưng Mike ôm ghì ông, và thế là Denny để tuôn trào hàng
bao năm nước mắt đã nén lại sau lớp bùn đen, sau lòng quyết tâm và khả năng
luôn tìm thấy một ngón tay nữa để bịt lỗ rò nước, cứu nguy cho con đê đời mình.
Ông khóc giàn giụa.
“Cám ơn, ông Lawrence,” Tony
nói, bắt tay ông Lawrence. “Ông làm tuyệt vời lắm.”
Ông Lawrence mỉm cười, có lẽ
là lần đầu tiên trong đời.
“Họ chẳng có bằng chứng cụ
thể nào,” ông nói. “Họ chỉ có mỗi lời khai của Annika. Tôi dám chắc, ngay lập
tức, là cô ta đang dao động - còn gì đó nữa mà cô ta muốn nói - nên tôi truy
riết cô ta ở phần đối chất, và thế là cô ta khuất phục. Cô ta nói là cho đến
lúc này cô ta vẫn kể với mọi người điều cô ta mong xảy ra. Hôm nay, cô ta thừa
nhận là chẳng có gì xảy ra cả. Không có lời khai của cô ta mà công tố cứ tiếp
tục vụ án thì thật ngu ngốc.”
Cô ta khai như vậy ư? Tôi
thắc mắc cô ta ở đâu, cô ta đang nghĩ gì. Tôi liếc nhìn quanh quảng trường và
phát hiện thấy cô ta đang rời tòa án cùng gia đình. Không hiểu sao cô ta có vẻ
mong manh.
Cô ta liếc nhìn thấy chúng
tôi. Annika không phải là người xấu, tôi chợt hiểu ra. Ta không bao giờ có thể
giận một tay đua khác vì một sự cố trên đường đua. Ta chỉ có thể giận bản thân
mình vì bị kẹt ở sai chỗ vào sai lúc thôi.
Cô ta vẫy nhanh một cái với
Denny, nhưng duy chỉ mình tôi trông thấy vì tôi là kẻ duy nhất nhìn. Nên tôi
sủa để cho cô ta biết.
“Mày có một ông chủ tốt đó,” Tony
nói với tôi, vẫn còn chú ý vào nhóm chúng tôi ngay đó.
Y nói đúng. Tôi có ông chủ
tốt nhất.
Tôi nhìn Denny khi ông ôm
chặt Mike, đu tới đu lui, cảm thấy niềm khuây khỏa, sự giải tỏa, biết rằng một
con đường khác có thể đã dễ dàng hơn cho ông, nhưng có lẽ nó sẽ không đưa ra
một kết cục mãn nguyện hơn.

