03. Trò chơi bắn bi
Trò chơi bắn bi
Tháng Giêng năm 1916
– những ai còn sống đều nhớ rằng, đó là một mùa đông khắc nghiệt nhất.
Những căn phòng tối
hù trong Học viện Bloor cũng lạnh buốt như ngoài trời. Henry Yewbeam, vừa chạy
gấp qua một hành lang lạnh băng, vừa cất tiếng ngâm nga một mình. Tiếng ngâm
nga làm nó phấn chấn lên, giúp sưởi ấm tinh thần cũng như hai bàn chân.
Phía đầu kia hành
lang, ánh đèn khí xanh lét, chập chờn lay động trong những giá đỡ bằng sắt gắn
trên tường. Cái mùi thật kinh khủng. Nếu lúc đó có bắt được con gì chết rữa
trong một góc tối thì Henry cũng sẽ chẳng ngạc nhiên.
Ở nhà, một ngôi nhà
tràn ngập ánh nắng bên bờ biển, em gái Daphne của Henry đang bị bệnh bạch hầu.
Để tránh lây nhiễm, Henry và út James được gởi tới sống với anh trai của mẹ chúng,
Ngài Gideon Bloor.
Ngài Gideon không
phải là mẫu người mà bạn nên chọn để ở cùng trong những ngày nghỉ. Không ai xa
cách hơn ngài. Ngài là hiệu trưởng của một ngôi trường cổ, và ngài quyết không
bao giờ để ai quên điều đó.
Học viện Bloor về
tay gia đình Ngài Gideon từ hàng trăm năm rồi. Đó là ngôi trường dành cho những
đứa trẻ có tài về âm nhạc, kịch và hội họa. Học viện Bloor cũng nhận huấn luyện
những đứa trẻ có phép thuật. Đó là những đứa có khả năng kỳ lạ. Chỉ nghĩ đến
bọn chúng thôi là Henry đã rùng mình.
Henry đã tới được
phòng của thằng anh họ Zeke. Zeke là con trai độc nhất của Ngài Gideon, và
Henry không thể tưởng tượng nổi trên đời lại có thằng anh họ nào có thể tệ hơn
nó. Zeke là một trong những đứa trẻ có phép thuật, nhưng Henry đoán rằng tài
phép của nó kinh tởm lắm.
Henry mở cửa ra và
lom lom dòm vô. Một hàng lũ thuỷ tinh xếp đầy bậu cửa sổ. Bên trong đựng những
vật kỳ dị, trôi lều bều trong một thứ chất lỏng trong veo. Henry đảm bảo chất
đó không phải là nước. Những vật kỳ dị trông nhợt nhạt, không rõ hình thù. Có
một cái xanh da trời.
“Mày nghĩ mày đang
làm gì hử?”
Thím Gudrun lướt
phăm phăm trên hành lang, chiếc váy đen dài lết bết rít lên một tiếng, át cả
tiếng những bước chân của thím. Đó là một phụ nữ cao lớn, tóc vàng rực, búi
thành một cục to tướng ra sau. Một người Viking chính cống (thực tế, thím là
người Na-uy), với khuôn ngực rộng và buồng phổi khỏe mạnh để mà chạy huỳnh
huỵch.
Henry ấp úng, “Ơ…”
“Ơ thôi thế hả,
Henry Yewbeam. Mày đang do thám phòng thằng Zeke của ta, đúng hay không?”
“Không, hoàn toàn
không,” Henry đáp.
“Cấm mày lởn vởn
trên những lối đi, thằng kia. Xuống phòng khách ngay.”
Quý bà Bloor ngoắc
một ngón tay thanh mảnh, và Henry không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải
đi theo bà ta.
Bà thím dẫn nó quay
về lại, ngang qua những cánh cửa khóa im ỉm, bí hiểm, mà chỉ vài phút trước nó
đã liều lĩnh thử mở ra. Nó vốn là đứa hay tò mò và mau chán. Một tiếng thở dài
buột ra khi nó lết những bậc cầu thanh cót két xuống lầu trệt.
Gia đình Bloor sống
ở trái phía tây của Học viện, nhưng họ chỉ ở những căn phòng ở lầu trên. Tầng
trệt là cả một tiền sảnh rộng mênh mông, lộng gió, một nhà nguyện, và năm sáu
hội trường cùng lớp học. Henry đã thám hiểm một vài căn phòng đó và thấy chúng
chán phèo. Tất cả đều có những hàng bàn với ghế dị dạng cùng những kệ sách
trông kết sức bụi bặm.
“Tới rồi!” Quý bà
Bloor mở một cánh cửa và dúi Henry vô phòng.
Một thằng bé, đang
quỳ trên chiếc ghế đẩu gần của sồ, liền phóng xuống và chạy như bay lại chỗ
Henry.
“Nãy giờ anh ở đâu
vậy?” Bé hét lên.
“Thám hiểm tí thôi,”
Henry đáp.
“Em cứ tưởng anh về
nhà rồi.”
“Nhà ở cách đây bao
nhiêu dặm cơ mà, Jamie.”
Henry buông mình vô
chiếc ghế da sâu hoắm bên cạnh lò sưởi. Khi lim dim mắt, nó như thấy rõ căn
phòng khách ấm cúng ở nhà. Và thế là nó lại thở dài.
Thím Grudrun nhăn
mắt, đe :
“Liệu đấy, bọn bay,”
đoạn đi ra và đóng cửa lại.
Bà thím đi rồi, bé
James lại ngồi lên thành ghế của Henry.
“Anh Zeke nãy giờ
đang làm cái gì đó tức cười lắm,” bé thì thầm.
Nãy giờ Henry không
nhìn ra Zeke, nhưng giờ thì nó nhận thấy thằng anh họ lạ lùng của mình đang chìm
trong im lặng ủ ê ở đầu kia căn phòng. Zeke đang ngồi bên bàn, đắm đuối vô
những thứ trải ra trước mặt. Gương mặt xương xẩu, tím mét của nó đông cứng
trong lúc tập trung cao độ. Không một cơ bắp nào động đậy, không một hơi thở
thoát ra.
“Em sợ,” bé James
thì thầm.
“Sao vậy? Anh ấy
đang làm gì vậy?” Henry nói thầm với bé James. “À, anh ấy đang chơi trò ghép
hình. Có những mảnh ghép đầy trên bàn kìa. Đó, Zeke nhìn chăm chú, rồi xếp
chúng lại với nhau hết rồi kìa. À, mới gần hết thôi. Thành một bức tranh. Anh
ấy có cho anh coi rồi. Đó là hình một con tàu, nhưng có vài mảnh không khớp.”
“Thì thầm là thô lỗ
đấy,” Zeke nói, không rời mắt khỏi miếng ghép hình.
Henry nhấc mình khỏi
ghế và đi về phía thằng anh họ. Liếc nhìn mười hai mảnh ghép còn lại, rồi nhìn
bức tranh con tàu. Mất chưa đầy một phút nó đã biết chính xác vị trí của từng
mảnh.
“Hừm.”
Henry chỉ nói thế,
và không thêm lời nào nữa, nó tuần tự nhặt những mảnh ghép lên, từng cái, từng
cái một, và lắp nó vô bức tranh; hai cái cho bầu trời, ba cái ở thân tàu, hai
cái ở dây buồm, và bốn cái cho mặt biển.
Mất một lúc, Zeke đã
nhìn theo bàn tay của Henry một cách thích thú. Nhưng đúng lúc Henry đặt miếng
ghép cuối cùng vô đúng vị trí, thì Zeke đột ngột đứng dậy và rú lên :
“Ai khiến mày? Tao
làm được mà. Tao làm được !”
“Xin lỗi,” Henry vội
lùi lại. “Em tưởng anh muốn em giúp.”
“Anh Henry chơi ghép
hình hay lắm,” bé James khoe.
“Hừ, tao giỏi những
thứ khác,” Zeke gầm gừ.
Bé James còn quá nhỏ
để mà nhận ra những dấu hiệu nguy hiểm. Tia giận dữ long lên trong đôi mắt đen
của Zeke chĩa thẳng qua đầu thằng bé.
“Phép thuật đâu phải
lúc nào cũng xài được đâu!” Bé James nói một cách vô tình. “Anh Henry thông
minh hơn anh mà, Zeke.”
Chính vì lời nhận
xét ấy mà bé James Yewbeam tội nghiệp đã đóng dấu lên số phận của anh mình, và
dĩ nhiên cả số phận của bé.
“Cút đi!” Zeke rít
lên. “Cả hai thằng mày. Đồ Yewbeam đáng ghét. Đi! Ngay! Tao không thể chịu nổi
cái bản mặt tụi mày.”
Henry và James chạy vội ra cửa. Gương mặt nhợt nhạt của thằng anh họ đã có
hơi hám bạo lực, và chúng không muốn ở lại cho hắn trút cơn thịnh nộ.
“Tụi mình đi đâu đây?” James thở hổn hển khi lao theo thằng anh dọc hành
lang.
“Tới tiền sảnh, Jamie. Ra đó chơi bắn bi.” Henry rút từ túi quẩn ra một cái
bao nhỏ và vẫy vẫy trước mặt em.
Nhưng không. Chúng chưa kịp chạy thêm được bước nào thì có một tiếng quát
của thím Gudrun.
“James, đi ngủ!”
Bé James giả bộ như không nghe thấy.
“Ngay lập tức!”
“Em nên đi ngủ đi thì hơn,” Henry nhẹ nhàng. “Bà ấy sẽ phạt nếu em không nghe
lời.”
“Nhưng em muốn chơi bắn bi cơ,” bé James nói.
Henry lắc đầu. “Thôi mà, Jamie. Bây giờ không được rồi. Ngày mai nhé. Nhưng
chút nữa anh sẽ tới đọc truyện cho em.”
“Hứa đi? Anh đọc nốt truyện Võ sĩ Ngốc nhé?”
“James, lại đây,” thím Gudrun quát.
“Ừ, hứa,” Henry nói và nhất định sẽ giữ lời. Thế nhưng, Zeke đã có một kế
hoạch khác dành cho nó.
Đầu cúi gục, bé James thất thểu lê bước về phía thân hình to lớn đứng ở
cuối hành lang.
“Còn mày, Henry!” Thím Gudrun gọi. “Đừng có gây rắc rối đấy.”
“Vâng, thưa thím,”
Henry nói.
Nó vừa tính xuống
cầu thang rộng dẫn xuống tiền sảnh, thì chợt nảy ra một ý. Trời buốt lạnh đến
nỗi nó trông thấy cả hơi thở mình tuôn ra cuồn cuộn như những đám mây nhỏ màu
xám. Dưới tiền sảnh có khi còn lạnh hơn. Và nó có thể chết cóng.
Henry quay gót trở
lại, cho đến khi thấy cánh cửa một căn phòng mà nó đã điều tra. Đó là một nhà
kho rộng, chứa đầy quần áo do những học sinh cũ của Học viện bỏ lại. Những hàng
áo chùng xếp theo màu: xanh da trời, xanh lá cây, tím; những giá treo mũ và áo
khoác; những hộp ủng da cổ xưa.
Henry chọn một chiếc
áo chùng xanh da trời ấm áp và mặc vô. Cái áo dài tới đầu gối, lý tưởng để mặc
ở tiền sảnh có gió lùa. Nó có thể bò lê dưới sàn nhà mà không cảm thấy nền đá
lạnh toát.
Henry lao xuống tiền
sảnh. Bộ sưu tập bi của nó là nỗi ghen tị của tất cả đám bạn. Cha của Henry hay
đi đó đi đây, và không bao giờ về nhà mà không mang theo ít nhất một viên bi
quý cho bộ sưu tập của con trai. Trong cái túi da của Henry có bi bằng inox, bi
mã não lên nước bóng nhẫy, bi thủy tinh, bi đá vôi, bi thạch anh, và cả những
viên bi bằng sứ có hoa văn.
Trong tiền sảnh
không có đèn, nhưng mặt trăng non luồn qua những ô cửa sổ dài, mù sương, khiến
những phiến đá xám lót sản sáng nhờ nhờ như ngọc trai.
Henry quyết định
chơi trò Thiện xạ, trò mà nó thích nhất. Dẫu không có đối thủ, nó vẫn hay luyện
bằng cách chơi một mình. Chỉ với một mẩu phấn, luôn có sẵn trong túi, Henry vẽ
một vòng tròn lớn ở ngay giữa tiền sảnh. Xong, nó vẽ thêm một vòng tròn nhỏ hơn
bên trong vòng đầu tiên. Chọn ra mười ba viên bi trong túi, nó xếp chúng thành
hình cây thánh giá bên trong vòng tròn nhỏ.
Giờ thì Henry quỳ
xuống nền đá lạnh băng, ngay bên ngoài vòng tròn lớn. Đôi tay đã tím ngắt vì
lạnh, nó không sao kìm cho hàm răng thôi va nhau cầm cập. Nhét vạt áo chùng
xanh da trời xuống dưới đầu gối, nó lôi ra viên bi yêu quý nhất của mình – viên
bi trong, màu xanh da trời, có một lằn bạc bên trong, tựa như ánh sao. Đó luôn
luôn là hòn bi cái, hay hòn bi xạ thủ.
Đặt những khớp ngón
tay phải xuống sàn, lòng bản tay ngửa lên, Henry đặt viên bi xanh da trời lên
đầu ngón trỏ và giơ ngón cái búng nó về phía hàng thánh giá bi. Một tiếng
“cách” thật đanh, nó bắn bật viên bi màu cam ở bên phải ra khỏi hai vòng tròn.
“Hoan hô!” Henry hét
lên.
Có một tiếng két nhẹ
sau lưng. Henry nheo mắt nhìn vô những mảng tối đen trên những bức tường ốp ván
gỗ sồi. Đó là do nó tưởng tượng? Hay một bức thảm thêu dài vừa rung lên? Ở đầu
kia của bức thảm thêu, có một cánh cửa dẫn đến chái phía tây. Henry thích cầu
thang chính hơn. Còn hành lang đằng sau cánh cửa kia tối quá và ma quái quá.
Một cơn gió lạnh lùa
qua đầu gối Henry, và bức thảm thêu lại cuộn lên một lần nữa. Một loạt mưa đá
nện rầm rầm lên những cánh cửa sổ, và gió rít thê lương, luẩn quẩn quanh mảnh
sân ngập tuyết.
“À, gió.”
Henry run tay, kéo
áo chùng lên sát người hơn. Rồi nó kéo chiếc mũ lên, trùm kín đầu.
Trong hành lang phía
sau tấm thảm thêu, Ezekiel Bloor đứng, một tay cầm đèn lồng, và tay kia cầm một
quả cầu pha lê lấp lánh. Những tia màu sáng chói, xoáy cuộn, tỏa ra từ quả cầu,
thành một cầu vồng được viền vàng và bạc. Ánh mặt trời và ánh trăng nối tiếp
nhau vần vũ trên quả cầu. Zeke hiểu rằng nó tuyệt đối không được nhìn vô đấy.
nó đang cầm một trong những viên bi cổ xưa nhất thế giới.
Ngày trước, trên
giường hấp hối, bà cô Beatrice của Zeke, một phù thuỷ, đã ấn quả cầu này vô tay
nó.
“Quả Cầu Xoắn Thời
Gian,” bà thều thào bằng giọng của người sắp chết.”Để du hành xuyên thời gian.
Không được nhìn vô nó, Ezekiel, trừ khi con muốn du hành.”
Ezekiel không muốn du hành. Nó lớn lên trong tòa nhà lớn âm u của gia đình,
và rất hiếm khi có ai thuyết phục được nó rời khỏi nơi này.
Tuy nhiên, nó ao ước muốn biết điều gì sẽ xảy ra nếu ai đó nhìn vô Quả Cầu
Xoắn Thời Gian. Và theo như Zeke nghĩ, thì không có ai xứng đáng để làm một chuyến
xuyên thời gian hơn là thằng em họ kém cỏi Henry Yewbeam của nó.
Henry tính đến giờ đã búng bay thêm được ba viên bi nữa ra khỏi vòng tròn
nhỏ. Nó không bắn hụt viên nào, mặc cho những ngón tay tê cứng. Nó đang chuyển
vị trí, lùi lại bên ngoài vòng tròn, thì một viên bi pha lê lăn về phía nó.
Viên này to hơn viên xạ thủ xanh da trời của Henry, và có những tia sáng đủ màu
sắc, lung linh nhảy múa xung quanh.
“Ui trời,” Henry nín thở.
Nó ngây ra như phỗng trong khi viên bi lạ vẫn lăn, cho tới khi chạm vô chân
nó.
Henry nhặt viên bi lạ lên. Nó nhìn trân trối vô những lằn sáng bên trong
viên bi. Nó thấy những mái vòm bằng vàng, những thành phố rực nắng, những bầu
trời không một gợn mây, và nhiều, nhiều thứ nữa. Nhưng ngay cả khi đang bị cuốn
theo cảnh tượng diễn ra trước mắt, Henry vẫn nhận ra rằng có một sự thay đổi
đang xảy ra trong cơ thể mình, và nó biết mình không nên nhìn vô những hình ảnh
khó tin và ngoạn mục này nữa.
Những bức tường ốp ván gỗ sồi đang toác ra. Ánh trăng giá lạnh mờ dần. Đầu
óc Henry quay cuồng và bàn chân nó bắt đầu hổng lên. Xa, rất xa, một co mèo cất
tiếng meo meo. Và rồi, thêm một con mèo khác, lại một con nữa.
Henry nghĩ đến thằng em bé bỏng của mình. Liệu nó có đủ thời gian để đến
bên em trước khi bị cuốn trôi đi hẳn?
Và nếu thế… Nếu bé James trông thấy anh mình biến mất ngay trước mắt, liệu
bé có hoảng sợ mà đến nỗi bị ác mộng suốt đời không? Henry quyết định chỉ để
lại một lời nhắn.
Trong khi vẫn còn sức lực, Henry móc mẩu phấn từ trong túi quần ra và bằng
tay trái (tay phải nó vẫn kẹp chặt Quả Cầu Xoắn Thời Gian), viết vội lên nền
đá, “XIN LỖI JAMES, BI…”
Đó là tất cả thời gian mà Henry có.Chỉ một giây sau, nó dừng lại ở năm có
sinh nhật thứ 11 của mình mà lao về phía trước, rất nhanh, tới một năm mà hầu
hết những người quen của nó khi đó hẳn đã chết hết rồi.
*
* *
Trong căn phòng lạnh giá, nhỏ tí ở lầu trên cùng chái phía tây, bé James
đang chở anh mình. Thằng bé lạnh đến nỗi phải tròng thêm áo khoác ra ngoài áo
ngủ bằng vải nỉ. Trên bàn ngủ bên cạnh, ngọn nến run rẩy trước cơn gió từ ngoài
cửa lùa vô. Anh Henry đang ở đâu? Sao anh ấy lại lâu thế nhỉ?
Bé James dụi mắt. Nó mệt lắm, nhưng lạnh quá không tài nào ngủ được. Nó kéo
tấm trải giường lên tận cằm và lắng nghe tiếng mưa tuyết rít gióng, đập ình ình
vô kính cửa sổ. Và rồi, ngọn nến tắt phụt.
Bé James ngồi im thin thít trên giường, kinh khiếp đến mức không dám gọi to
lên. Thím Gudrun sẽ nổi cáu, còn ông anh họ Zeke sẽ chế giễu nó là đồ con nít.
Chỉ có anh Henry là hiểu nó thôi.
“Anh Henry! Anh Henry! Anh đang ở đâu?” Bé James nhắm mắt lại và úp mặt vô
gối khóc nức nở. Trước khi cạn hết nước mắt, James chợt ngừng run rẩy. Căn
phòng đang ấm dần lên. Nó mở mắt và nhận ra mình có thể nhìn thấy chiếc gối,
thấy bàn tay mình và thấy cửa sổ. Một luồng sáng dịu quét khắp trần nhà. James
nhìn theo xem luồng sáng xuất phát từ đâu, và nó kinh ngạc thấy có ba con mèo
đang lặng lẽ đi quanh giường. Một con màu cam, một con màu vàng và con thứ ba
màu đồng đỏ.
Ngay khi biết mình đang bị quan sát, bọn mèo liền nhảy lên giường và dụi
đầu vô đôi bàn tay, vô cổ và đôi má tế buốt của thằng bé. Bộ lông của chúng ánh
rực lên và ấm áp hệt như ánh nắng mặt trời. James vuốt ve chúng, thấy nỗi sợ
hãi cũng bắt đầu tan đi. Nó quyết định đi tìm anh Henry.
Có vẻ như ý tưởng này vừa nảy khỏi đầu bé James là lũ mèo liền nhảy ra khỏi
giường và chạy ra cửa. Chúng đứng chờ, meo meo lên đầy lo âu, trong khi James
mang vớ và xỏ chân vô đôi ủng da.
Với những sợi ria và đầu mút từng sợi lông sáng lấp lánh, lũ mào dẫn đường
băng qua những hành lang tối om, những cầu thang hẹp, trong khi bé James co giò
chạy theo. Cuối cùng, chúng tới một cầu thanh rộng dẫn xuống tiền sảnh. Tại đây
lũ mèo thoáng lưỡng lự trước khi bước xuống căn phòng ngập ánh trăng.
Không có anh Henry ở đây. Mấy viên bi nằm chơ vơ dưới sàn đá, loang loáng
dưới ánh sáng lạnh lẽo từ các cửa sổ rọi vô. Khi bé James chầm chậm bước xuống
cầu thang, đám mèo chạy trước nó, rú rít, tru lên.
James xuống hết cầu thang rồi bước tới vòng tròn phấn .Nó thầy những viên
bi mà Henry đang chơi trò Thiện Xạ – trò ưa thích nhất của anh nó.
“Anh Henry!” James
gọi lớn. “Anh Henry, anh đi rồi à?”
Chưa bao giờ có một
nơi trống trải và rộng mênh mông thế này hiện ra trong đời béo James Yewbeam.
Chưa bao giờ anh nó lại vắng mặt lại đột ngột và hoàn toàn như thế này. James
không cố gọi thêm nữa. Rõ ràng là anh Henry đã đi rồi. Và anh ấy đi mà không
chào tạm biệt.
Nước mắt thằng bé
chưa kịp tuôn trào thì ba con mèo đã nhảy vô vòng tròn, hướng sự chú ý của
James vô bốn chữ được viết dưới sàn. Một lời nhắn? Nhưng phải chi bé James biết
đọc. Anh Henry đã cố công dạy nhiều tuần rồi, nhưng cho đến bây giờ James vẫn
chưa thể đọc nổi một từ.
Có lẽ là do nó chưa
cố hết sức. Còn bây giờ, khi tình thế vô cùng nghiêm trọng…
“X… x… x…,” James
lẩm nhẩm trong khi ba con mèo nhảy chồm chồm theo từng mẫu tự.
Chữ kế tiếp James
nhận ra là “i” rồi “n”, xa hơn là tên của bé. Ngay lập tức, James chợt đoán ra
những từ anh Henry đã gởi lại cho mình.
“XIN LỖI JAMES,” bé đọc. “BI…” Lời nhắn kết thúc ở đó.
Rõ ràng anh Henry muốn James giữ kỹ giùm những viên bi. Nó nhặt cái túi da
lên, nhưng khi nó vừa sắp với tới viên xạ thủ xanh da trời, thì con mèo màu cam
liền nhanh nhảu chạm vô viên bi, làm viên bi lăn vọt qua tiền sảnh. Con mèo màu
vàng lập tức đuổi theo, trong khi con mèo đồng gạt thêm ba viên bi khác ra khỏi
vòng tròn.
Bỗng nhiên, tiền sảnh sống động hẳn lên vì những âm thanh va đập lách tách,
vì những tiếng rừ rừ thích chí. James được những khối cầu đậm sắc, rừng rực
nhảy múa, bao quanh. Bọn mèo đang chơi đùa. James nhìn chúng chơi, một nụ cười
rạng rỡ trên gương mặt thằng bé.
“Ở lại với ta nhé,” James nài nỉ bọn mèo.
Và lũ mèo ở lại. Chừng nào mà James còn ở trong tòa nhà lạnh lẽo, đáng sợ
này, chúng còn giữ ấm cho James Yewbeam; và chúng sẽ bảo vệ thằng bé được an
toàn như bất cứ bất cứ cậu bé con nào cũng đều có quyền được bảo vệ.