14. Nhốt nó vô hầm ngục! - Phần 1
“Nhốt nó vô hầm ngục!”
Henry Yewbeam trải
qua phần còn lại của kỳ nghỉ cuối tuần trong những căn phòng bí mật của bà bếp
trưởng.
“Nếu rời khỏi đây
cậu sẽ bị bắt,” bà bếp trưởng cảnh báo Henry. “Rồi sau đó thì ra sao nào? Có
người nào đó ở đây cứ muốn tống khứ cậu đi, cậu phải biết chớ!”
“Cháu cá đó là
Zeke,” Henry lẩm bẩm. “Nó không bao giờ tha thứ cho cháu vì đã làm xong được
cái tấm xếp hình của nó.”
“Ezekiel, đúng rồi,”
bà bếp trưởng thừa nhận. “Lão ta đấy, một lão già ốm yếu sắp kề miệng lỗ, trong
khi thằng em họ mà lão tưởng là đã tống đi mãi mãi giờ đã trở về, lại là một
thằng bé với cả cuộc đời ở trước mặt.”
Henry không thể
không nhe răng cười.
“Lão ta chắc phải
điên tiết lên,” nó nói.
“Phải. Và chúng ta
không muốn lão đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời phơi phới còn dài trước mặt
cậu, đúng không nào?”
“Đúng ạ.” Tuy nhiên,
Henry thấy khó tưởng tượng ra nổi cuộc đời đó là cuộc đời kiểu gì.
Bà bếp trưởng bắt
tay vào chuẩn bị một bữa ăn. Lát nữa bà Bloor sẽ tới ăn cùng họ, và Henry giúp
sắp xếp ba chỗ ngồi quanh chiếc bàn tròn nhỏ ở góc phòng.
Trong lúc nấu nướng,
bà bếp trưởng bắt đầu kể cho Henry nghe câu chuyện đời bà. Còn Henry thì cuộn
tròn trong chiếc ghế bành kế bên lò sưởi, lắng nghe một trong những câu chuyện
kỳ lạ nhất cậu từng được nghe.
Bà bếp trưởng và em
gái Pearl khi xưa sống chung với ba mẹ trên một hòn đảo ở miền bắc. Cha của họ,
ông Gregor, là một ngư dân. Khi các cô bé lên 5 và 6 tuổi, thì mọi người thấy
rõ họ là những lá bùa may mắn. Cứ hễ khi nào họ tiễn cha khởi hành ra khơi trên
chiếc thuyền nhỏ, là ông luôn luôn bắt được nhiều cá đến nỗi không mang về xuể.
Chẳng bao lâu sau, người ta kéo đến hòn đảo ấy để mua cá của ông Gregor. Ông
trở nên giàu có và đã mua được toàn bộ hòn đảo. Ông xây một căn nhà thiệt lớn,
ngó ra những quanh cảnh hấp dẫn của đại dương, và mặt biển bao quanh hòn đảo
của ông luôn tĩnh lặng. Theo như mọi người nói, điều này là do các cô con gái
của ông được ban phép may mắn và bình an.
Một ngày kia có một
thanh niên đến đảo.
“Gã ta khá đẹp
trai,” bà bếp trưởng nhớ lại, “nhưng có một cái gì đó ở gã cứ khiến ta và Pearl
phải sởn gai óc. Hóa ra, gã đến để xin cưới một trong hai chị em ta. Cưới ai
không thành vấn đề. Lúc ấy hai chị em ta, người 15, người 16 tuổi, và cha ta
bảo: “Cút đi cho khuất mắt, Grimwald” – đó là tên gã ta – “Cút đi, các con gái
ta còn quá trẻ để kết hôn. Chúng muốn tìm hiểu thế giới trước khi yên bề gia
thất.”
Nhưng Grimwald cứ
khăng khăng: “Tôi cần một trong hai cô con gái của ông ngay bây giờ,” gã bảo, “khi
cô ấy còn trẻ. Tôi muốn lấy cô ấy vì vẻ đẹp trinh nguyên, tươi trẻ, vì sự ngọt
ngào và an lành của cô ấy, và vì sự may mắn mà cô ấy sẽ đem đến cho tôi.” Thái
độ của gã thanh niên khiến cha ta bực bội. Một lần nữa ông lại từ chối gã. Và
rồi Grimwald bắt đầu đe dọa gia đình ta.”
Bà bếp trưởng nếm
thử món hầm bà đang nấu.
“Thêm chút muối,” bà
lẩm bẩm.
“Kể tiếp đi bà,”
Henry nóng lòng giục.
Bà bếp trưởng tiếp
tục, “Cha ta ra lệnh cho Grimwald phải rời khỏi hòn đảo, và cuối cùng gã cũng
ra đi, nhưng phải sau khi đã trút cơn điên giận lên hai chị em ta. “Mấy người
nghĩ mấy người điều khiển được đại dương à, mấy con ranh lỏi kia,” gã chửi.
‘Hừ, không đâu. Sẽ mau thôi, chúng mày sẽ nhận ra quyền phép của tao mạnh mẽ
hơn của chúng mày nhiều. Và rồi chúng mày, cả hai đứa mày, sẽ phải chạy đến cầu
cạnh tao cho mà xem, hãy nhớ lấy lời tao.’ Giá như bọn ta đã tin lời hắn,” bà
bếp trưởng buồn bã.
“Một năm sau, Pearl
và ta rời hòn đảo của mình. Bọn ta đi chu du khắp thế giới. Bọn ta đi ăn tối,
đi khiêu vũ và gặp được ý trung nhân của mình – tình cờ cả hai đều là thuỷ thủ.
Bọn ta về nhà để báo tin cho cha mẹ biết thì thấy…”
Đến đây bà bếp trưởng thở dài não ruột và mấy giọt nước mắt rơi vô cái chảo
bà đang khuấy.
“Thấy gì hả bà?” Henry hỏi.
“Không thấy gì cả,” bà bếp trưởng đáp. “Tất cả đều tiêu tan: hòn đảo, căn
nhà, cha mẹ - tất cả đều bị phá huỷ. Bị một cơn sóng thủy triều lớn nhất trong
lịch sử nhấn chìm. Bọn ta nghi ngờ, nhưng bọn ta không chắc lắm. Và sau đó, khi
hai vị hôn phu của bọn ta bị chết đuối ngoài khơi, thì bọn ta chắc chắn, đó
chính là do Grimwald!”
Henry há hốc miệng kinh ngạc. “Ý bà nói là hắn ta có thể…?”
“Ồ, đúng vậy. Hắn có thể làm bất cứ điều gì liên quan đến nước. Ta và em
gái phải từ biệt nhau. Sẽ an toàn hơn khi đi một mình. Sẽ ít bị nhận ra hơn.
Bọn ta sống dưới lòng đất, làm việc ở những nơi tối và bí mật mà hắn không thể
tìm ra. Đến bất cứ nơi đâu, bọn ta đều cố gắng làm cho mọi thứ được tốt hơn,
giữ cho trẻ em được an toàn. Một ngày nọ, ta nghe tin rằng Học viện Bloor cần
một người nấu bếp. Ta vốn đã nghe nói đấy là nơi xưa kia Vua Đỏ từng thiết
triều, và ta nghĩ mình có thể giúp một số đứa trẻ học ở đó. Ta đoán rằng, giống
như Pearl và ta, nếu chúng được ban phép thuật, thì chúng thể nào cũng chẳng
được yên ổn vì tài phép của mình.”
Bà bếp trưởng vừa liếm cái muỗng bà mới dùng để khuấy, vừa ậm ừ ra vẻ hài
lòng, rồi đậy nắp vung lại.
Chắc hẳn là Henry rất muốn bà kể tiếp, nhưng vào lúc đó, bà Bloor bước vô
qua cái cửa nhỏ xíu ở góc phòng, và bà bếp trưởng thông báo là bữa cuối cùng
trong ngày đã sẵn sàng.
Sau bữa tối, bà Bloor giúp bà bếp trưởng rửa chén đĩa. Xong, bà lẳng lặng
trở về căn phòng hiu quạnh của bà ở chái phía tây.
“Bà Bloor là một quý bà thật u sầu,” Henry nhận xét trong khi đang cẩn thận
xếp những chiếc dĩa sứ của bà bếp trưởng lên tủ đựng chén dĩa.
“Quả là buồn,” bếp trưởng thở dài. “Phải như chị ấy có thể là chị ấy như
trước khi bị nghiến nát bàn tay.”
“Biết đâu Quả Cầu Xoắn Thời Gian làm được việc đó.” Henry đề nghị.
Bà bếp trưởng phóng một cái nhìn đầy cảnh giác về phía cậu.
“Người ta không thể trở về quá khứ, cậu biếu điều đó mà, Henry.”
“Dạ, nhưng trường hợp của bà Bloor thì chỉ mới có 5 năm. Và từ đó tới nay
bà ấy không sống một cuộc đời thực ở đây. Vậy ai mà để ý nào?”
“Hừm!” Bà bếp trưởng chỉ nói được có chừng ấy.
Lúc sau, khi Henry nằm trên giường rồi, ý nghĩ của cậu cứ quay về Quả Cầu
Xoắn Thời Gian. Bà bếp trưởng không có quyền giấu quả cầu khỏi cậu. Quả cầu lấp
loáng này cứ bám riết lấy tâm trí cậu, chặt đến nỗi cậu không sao ngủ được. Cậu
ngồi dậy, khoác thêm chiếc áo chùng xanh da trời ra ngoài bộ đồ ngủ, và nhón
chân ra khỏi căn phòng nhỏ xíu mà cậu nằm ngủ.
Ánh trăng lọt qua ô cửa trời, phủ xuống một lớp ánh sáng lấp lánh như ngọc
trai lên khắp đồ đạc trong phòng. Những đồ sứ trong tủ chén dĩa sáng lên lờ mờ,
và Henry nhìn lên kệ trên cùng thấy một dãy ca sứ. Chúng được trang trí bằng
những lá vàng và bạc; hai cái trong số đó nằm sát nhau hơn những cái khác, như
thể ai đó đã hấp tấp xê dịch một trong hai cái ca này.
Henry kéo một chiếc ghế lại gần tủ chén dĩa và leo lên. Vì vẫn không với
tới được tầng kệ trên cùng, cho nên cậu leo hẳn lên tủ. Giờ thì cậu đã có thể
chạm vô hàng ca. Cái ca đầu tiên cậu cầm lên trống không. Cậu để nó lại chỗ cũ
và kéo cái ca thứ hai về phía mình. Cậu vừa nhấc nó lên khỏi kệ, thì một vật gì
đó lăn ra và rới xuống nền nhà.
Henry nhìn xuống, thì thấy Quả Cầu Xoắn Thời Gian sáng lấp lóa bên dưới.
Cậu mỉm cười đầy vẻ mãn nguyện, nhưng chưa kịp leo xuống khỏi chén dĩa, thì một
cái bóng chạy vọt về phía quả cầu pha lê.
“Đừng, May Phúc,” Henry hốt hoảng, nhận ra cái dáng phục phịch của con chó.
May Phúc không đếm
xỉa gì. Nó ngoạm quả cầu vô miệng rồi chạy lon ton ra cánh cửa ở góc phòng.
“KHÔNG!” Henry thét
lên. “Đây không phải là lúc chơi, May Phúc!”
May Phúc dùng mũi mở
cửa và biến mất. Henry nhảy khỏi tủ chén dĩa, xô ngã chiếc ghế, nhưng chạy được
tới cầu thang sau cánh cửa thì cậu chỉ còn thấy mỗi cái đuôi trụi lủi đang ngúc
ngoắc của con chó. Henry cố chộp lấy cái đuôi, nhưng bị trượt té khỏi bậc đầu
tiên. Gượng đứng dậy, cậu lại phóng lên các bậc thang.
Lên đến cầu thang,
Henry nhận ra mình đang ở trong một hành lang tối thui. Cậu nghe tiếng móng
vuốt lột sột của May Phúc vang ở đâu đó đằng xa, liền chạy về hướng âm thanh
ấy.
Hành lang này uốn
cong thành những vòng tròn dường như vô tận, cho đến khi cuối cùng nó dẫn đến
một cánh cửa thấp lè tè. Cửa khóa. May Phúc đã biến mất. Làm sao con chó có thể
bước qua một cánh cửa bị khóa được? Henry ngó chằm chằm cái hành lang vắng tanh
phía sau lưng mình. Cậu nhận thấy một luồng sáng yếu ớt phát ra từ một mảnh ván
gỗ dưới chân tường. Nhẹ nhàng, cậu dùng chân đẩy tấm ván. Nó mở ra giống như
một cái lỗ dành cho mèo. Hay là lỗ dành cho chó? Nếu May Phúc mập mạp chui qua
lọt, thì Henry cũng có thể chứ.
Cậu quỳ xuống và bò
qua cái lỗ. Ở bên kia là một hành lang hẹp, có ván lót sàng bóng láng. Những
bức trang lồng khung vàng treo trên tường, và một cây đèn dầu có chụp thủy tinh
màu đặt trên một chiếc bàn tròn nhỏ.
Xa hơn một chút,
Henry thấy một cái tủ âm tường tối om. Cậu đoán rằng cái tủ âm tường đó che
giấu cánh cửa mà bà Bloor dùng để đi thăm bếp trưởng. Khi Henry kiễng chân đi
vô hành lang, cậu nghe thấy một giọng nói :
“Nói mau! Nói với
tao này, con chó kia!”
Henry khép nép băng
tới cuối hành lang, thì thấy hành lang dẫn tới một chiếu nghỉ, một thằng bé tí
xíu mặc áo choàng tắm xanh da trời đang trò chuyện với May Phúc. Thằng bé ngưng
nói mà chuyển sang ậm ừ và rên ư ử hệt như một con chó. Tóc thằng bé màu trắng
và cặp mắt kiếng nó đeo khiến cho đôi mắt trông giống như hai bóng đèn tròn đỏ.
Henry ép sát mình vô
vách tường và theo dõi. Thằng bé không thành công với ngôn ngữ ậm ừ của chó,
nên nó bắt đầu dùng lại tiếng người.
“Nói với tao coi, đồ
chó ngu ngốc kia! Nói! Sao mày không nói cho tao biết thằng đó ở đâu? Cái thằng
đến từ không đâu ấy đang ở đâu?”
May Phúc ảo não
ngước nhìn lên thằng bé, nhưng vẫn không chịu nói.
“Mày ngậm gì trong
miệng vậy, hả?” Thằng bé hỏi. “Phải cái vật đó không? Hòn bi phép thuật. Đưa nó
cho tao, để tao đưa nó tới cho ông Ezekiel.”
Nghe thấy những lời
này, Henry đông cứng cả người lại. Vậy là thằng bé kia đang làm việc cho
Ezekiel. Henry vừa định lẻn xuống hành lang hẹp thì có việc xảy ra.
“Đưa nó cho tao, con
chó kia!”
Thằng bé tóc trắng
bất ngờ giơ chân lên và đá con chó già một cú vô mạn sườn. Rồi lại một cú nữa,
cứ nữa. May Phúc rên rỉ và quỵ xuống.
Khi thằng bé giơ
chân lên lần nữa thì Henry hét lên:
“Đừng!”
Thằng bé ngó lên và
mỉm cười.
“Anh là thằng đó
phải không? Cái người từ đâu đâu ra ấy.”
“Để con chó đó yên,”
Henry quát. “Nó già rồi. Cậu đang làm nó bị thương kìa.”
“Nó có vật thời gian
gì đó, đúng không?”
“Có lẽ,” Henry nhát
gừng. “Cậu là ai?”
“Em là Billy Raven,” thằng bé kia đáp. “Em biết nói chuyện với chó. Bọn nó
vẫn hay trả lời em. Em không biết con chó già May Phúc ngớ ngẩn này hôm nay bị
làm sao ấy.”
Đúng lúc đó, May Phúc đánh rớt Quả Cầu Xoắn Thời Gian. Quả cầu nằm giữa hai
thằng bé, sáng dìu dịu.
“Đừng nhìn vô!” Henry cảnh báo.
Cậu không thích Billy, nhưng thằng bé tóc trắng còn bé quá, và Henry không
muốn nó bị xoáy vô một thế kỷ khác.
“Đẹp quá,” Billy trầm
trồ.
Nó cúi xuống nhặt
quả cầu lên, nhưng Henry đá văng quả cầu đi. Quả cầu lăn ngang qua chiếu nghỉ
rồi lọt xuyên qua những thanh vịn cầu thang. Một tiếng “cốp” nhẹ vang lên khi
nó đáp xuống nền đá phía dưới.
Billy Raven nhìn
Henry trừng trừng.
“Lẽ ra anh không
được làm thế,” nó nói.
Henry muốn chạy
xuống tìm quả cầu, nhưng thằng bé kia đang nhìn cậu với ánh nhìn quỷ quyệt và
kỳ cục, khiến cậu ngần ngại.
Đột nhiên May Phúc
tru lên một tiếng “rùù”.
Lời cảnh báo ấy đến
quá trễ.
Một bàn tay đập vô
vai Henry và một giọng ồm ồm cất lên:
“Nào, coi con chó
tha cái gì vô này!”
Henry cố vặn giãy
ra, nhưng bàn tay đó thật mạnh và giữ chặt vai cậu như một gọng kềm. Cậu quay
đầu lại và đập mắt vô ngay cái mặt dài, bần tiện của Manfred Bloor.
“Buông tôi ra,”
Henry nói.
“Mày đùa chắc,”
Manfred nói. “Có người đang rất muốn gặp mày.”
Hắn đẩy Henry dọc
theo chiếu nghỉ.
“Tốt lắm, Billy. Một
món quà nhỏ sẽ gởi đến chỗ mày ngay giờ đấy.”
“Cảm ơn anh
Manfred!” Billy nói to.
Manfred thô bạo xô
Henry vô một hành lang dẫn ra khỏi chiếu nghỉ, nhưng Henry vẫn tiếp tục vùng
vẫy. Chúng đến một cầu thang khác, tại đây Henry suýt vọt đã được, nhưng
Manfred gào inh lên:
“Zelda, mày đâu
rồi?”
Lập tức, một con bé
ốm nhách, mũi dài lao về phía chúng. Con bé chộp lấy cánh tay Henry, và giật mạnh,
tưởng chừng như cánh tay trật khỏi khớp.
Henry phọt ra một
tiếng rú khủng khiếp:
“Câm miệng!” Manfred
nạt. “Zelda, giữ cho nó đứng yên.”
Zelda vặn quặt cánh
tay Henry ra sau lưng, còn Manfred trói hai cổ tay cậu lại với nhau bằng một
dải băng keo dài.
“Chúng ta sẽ cần tới
đèn pin,” Manfred nói. “Đèn đâu?”
“Có đây,” Zelda sốt
sắng. “Sức mấy mà em quên.”
Vừa gầm gừ vừa giãy
giụa, Henry bị dẫn lên những cầu thang, băng qua các hành lang tối đen, xuống
những bậc thang xoắn ốc kiểu cổ, rồi lại leo cầu thang, và đi vô khu vực của
tòa nhà mà cậu nhận ra: chính là nơi cậu và em James đã cùng nhau đón kỳ Giáng
sinh bất hạnh cuối cùng.
“Chưa tới nơi đâu!”
Manfred rít lên.
Cả bọn lại đi liên
tiếp. Đi lên nữa, lên nữa, vô một thế giới tối tăm được thắp sáng bằng một
luồng khí, kêu xì xèo từ những giá đỡ sắt rỉ sét gắn trong tường. Henry nhớ ra
đèn khí, nhưng các bức tường mà trước đây vẫn được dán bằng giấy hoa dày giờ
nhớp nháp ẩm ướt và giăng đầy mạng nhện xám.
Chúng đến một cánh
cửa, có lớp sơn đen bị cào xước và bong tróc từng mảng. Manfred gõ cửa.
Miệng Henry khô
quánh lại vì sợ hãi, cậu nghe thấy tiếng tim đập thình thịch trong lồng ngực.
“Ai đó?” Giọng nói
này già cỗi và hơi khàn khàn.
“Là tôi, Manfred đây, cố. Cố thử đoán xem còn ai nữa nào? Tôi có một ngạc nhiên
thú vị cho cố đây!” Manfred cười hề hề với Henry.
“Gì hả?” Có tiếng rít thích thú vọng từ trong phòng ra. “Mang nó vô! Mang
sự ngạc nhiên thú vị của ta vô đây!”
Manfred mở một cánh cửa ra và tống Henry vô phòng.
Henry thấy trước mắt mình là một lão già khú khụ, già nhất mà cậu từng
thấy. Thật khó mà tin nổi cái sinh vật khô đét trong xe lăn kia đã từng là
thằng anh họ Zeke của cậu. Tuy nhiên, cũng có cái gì đó quen quen trong cặp mắt
dày mí, hằn học và cái miệng mỏng dính, tàn ác.
Không khí trong phòng thật ngột ngạt. Sau lưng lão già, những khúc gỗ cháy
trong một lò sưởi khổng lồ. Nền nhà được lót bằng những tấm thảm mòn vẹt và cửa
sổ được phủ bằng những bức màn nhung dày.
“Chà!” Lão già khoái trá. “Chà, ta không bao giờ ngờ. Đây chẳng phải là em
họ Henry hay sao?”
Henry cố nuốt nước miếng, nhưng có một cục nghẹn cứng trong cổ họng cậu.
Cậu không thể nghĩ ra điều gì để nói.
“Lại gần đây,” lão Ezekiel bảo.
Manfred và Zelda đẩy Henry một cú nữa. Cậu lảo đảo chúi về trước, cảm thấy
muốn xỉu. Lão già quấn trong chăn. Sao lão ta có thể chịu đựng sức nóng như vậy
chớ?
“Trời ơi là trời! Mày còn trẻ quá vậy?” Lão ta nói, vẻ phẫn nộ.
Henry cố tằng hắng.
“Tôi 11 tuổi,” cậu nói, giọng khàn đặc. “Ít nhất là tôi đã 11 tuổi hồi tuần
trước.”
Lão Ezekiel cau có.
“Tuần trước. Ý mày là cách đây 90 năm, phải không?”
“Không hẳn,” Henry nói, cảm thấy gan dạ hơn. “Không phải theo ước tính của
tôi.”
“Ốốốố! ‘Không phải theo ước tính của tôi’,” lão già nhái giọng nó. “Xưa kia
mày luôn là đứa tài giỏi, đúng không? Hừ, bây giờ mày không tài giỏi như thế
nữa đâu. Để mình bị tóm, đúng chưa nào?”
Henry gật đầu.
“Vậy mày đã trốn ở đâu?”
Trong cơn tuyệt vọng, Henry cố nghĩ ra một câu trả lời. Cậu biết mình cấm
không được để lộ ra bà bếp trưởng.
“Trong một tủ chìm.”
“Tức là tủ âm tường? Ở đâu?”
“Trong bếp,” Henry
nói. “Không ai thấy tôi cả. Ban đêm tôi ra kiếm đồ ăn.”
Lão già cười khùng
khục.
“Và lần này mày đã
đi quá xa, đúng không?”
“Đúng,” Henry trả
lời một cách hiền lành.
“Cố định sẽ làm gì
với nó vậy hả, cố?” Manfred hỏi.
“Tống nó lên gác xép
đi, thưa ngài,” Zelda đề nghị. “Cho nó ở với dơi với chuột,” con bé cười khành
khạch, vẻ sướng rơn.
Lão già vuốt cái cằm
lởm chởm râu trắng của mình.
“Hừ, Quả Cầu Xoắn
Thời Gian đâu?” Lão hạch hỏi.
“Tôi không biết. Con
chó đã lấy đi rồi.”
“Nó ấy hả? Nó là một
con cún ngoan… sắp đem về cho chủ cũ của nó một món quả nữa. Con chó rất sợ Quả
Cầu Xoắn, mày biết đấy.”
Nụ cười của Ezekiel
còn kinh tởm hơn vẻ quạu quọ của lão. Răng lão đã rụng gần hết, được những cái
còn lại thì sứt mẻ và đen xỉn.
Henry đoán là lúc
nãy May Phúc chỉ muốn một trò chơi thôi, nhưng cậu quyết định cứ để lão Ezekiel
muốn nghĩ gì thì nghĩ.
“Vậy, giờ con cún
con của tao đâu?” Lão già hỏi.
“Có chút xíu rắc rối
ở đây,” Manfred trả lời. “Billy Raven đá con chó và nó làm rớt quả cầu rồi.”
“Đá?” Lão Ezekiel
gào lên. “Đá con chó của tao? Thằng nhãi ranh. Thế sao mày không lấy lại quả
cầu hả, thằng đần độn kia?”
Manfred nghiến răng
lại và trả lời cộc lốc:
“Cố muốn thằng bé,
thì chúng tôi mang thằng bé đến. Billy sẽ tìm ra quả cầu.”
“Phìì!” Lão già nhổ
vô vỉ lò. “Nó khôn hồn thì mau mau đem quả cầu đến đây.”
“Vậy là cho thằng
này lên gác xếp, thưa ngài?” Zelda hỏi. “Cho đến khi ngài tống nó đi lần nữa.”
“Không! Trên đó có
quá nhiều thứ lùm xùm rồi. Nhốt vô hầm ngục.” Ezekiel xoay chiếc xe lăn đi,
quay lưng lại với Henry.
Henry rùng mình.
“Tôi không thể ở lại đây được sao? Tôi sẽ không gây phiền hà gì đâu. Tôi có thể
sống với Charlie Bone. Cậu ấy…”
“Ở lại?” Lão Ezekiel
rú lên. “Không bao giờ trong vòng một ngàn năm nữa! Đem nó đi cho khuất mắt
tao. Đem ngay! Tao không thể chịu nổi khi nhìn thấy nó, trẻ trung và tràn trề
hy vọng thế này. Đem nó RA NGAY!”
Henry bị lôi tuột ra
ngoài.
“Làm ơn mà!” Cậu gào
lên. “Đừng làm thế.”
Manfred và Zelda kéo
Henry ra ngoài hành lang, và đóng sầm cửa lại. Trong khi Zelda giữ cho cậu đứng
yên, Manfred bịt miệng cậu lại bằng một dải băng keo dày. Và rồi Henry bị kéo
đi, bị dúi xuống tiền sảnh và bị đẩy ra ngoài màn đêm băng giá. Cái lạnh tấn
công cậu với một sức mạnh khủng khiếp đến nỗi cậu thôi không vùng vẫy nữa, mà
để mặc cho hai tên bắt giam giải đi trên mặt đất đóng băng.
Những ngôi sao băng
giá trên cao tỏa xuống thế giới một thứ ánh sáng lờ nhờ, kỳ dị, nhưng mặt trăng
đã biến mất. Cây đèn pin của Zelda rảy một vệt ánh sáng hẹp lên những mảng
tuyết, và mặc dù Henry hầu như không thể thấy một thứ gì đằng trước, nhưng cậu
biết chúng sẽ phải đi đến đâu. Tuy nhiên, cậu vẫn thấy sững sờ khi những bức
tường vĩ đại của tòa lâu đài đổ nát lù lù hiện ra trước mặt cậu.
Cậu bị đẩy qua cổng
vòm, và rồi vô một trong những lối đi dẫn ra khỏi mảnh sân gạch. Khác với lối
hôm qua cậu đi vô, lối này dường như dẫn xuống dưới. Mặt đất ẩm ướt đầy nấm
mốc, và thỉnh thoảng Henry thấy mình trượt dúi vô người Zelda đang dẫn đường.
“Thôi đi,” con bé
hầm hè, “Không tao sẽ kéo lết cái mông của mày tơi đó bây giờ.”
Tới đó là tới đâu? Henry tự hỏi.
Chúng càng lúc càng xuống dưới. Xuống, xuống nữa. Không khí đặc lại và có
mùi mốc, đến nỗi Henry bắt đầu nghẹt thở. Băng keo dán miệng càng làm cậu khó
thở. Ngay khi cậu vừa nghĩ mình sẽ chết ngạt mất, thì cả bọn nhô ra ở một gò
đất đầy cỏ. Những hàng cây cao vút đâm thẳng vô bầu trời đêm, nhẹ nhàng xào
xạc.
“Đi tiếp!” Manfred rít lên, sấn sổ đẩy Henry một cái.
Henry ngã dụi xuống gò đất, trong khi hai đứa kia chạy theo sau, cười rộ
lên đầy ác ý.
Chúng lôi Henry đứng dậy và áp giải tới một tảng đá đen, chìm một nửa vô
bụi cây thấp.
“Rồi, Zelda. Làm thôi,” Manfred ra lệnh.
Zelda ngoác ra một
nụ cười gian manh. Con nhỏ nhìn trao tráo vô tảng đá. Trong ánh sáng mờ mờ,
Henry thấy nụ cười của Zelda trở nên oằn oại kinh khủng, khi rất chậm chạp,
tảng đá bắt đầu chuyển động. Rõ ràng, Zelda là một trong những đứa có phép
thuật. Không người bình thường nào có thể làm được như vậy. Với một tiếng rít
ghê tai, tảng đá trượt ra sau, để lộ một cái hố tròn, đen ngòm.
Henry chưa kịp nhận
ra chuyện gì thì Manfred đã xô cậu đến miệng hố.
“Đi,” Manfred quát.
“Xuống!”
“Umm!” Henry lắc
đầu.
“Hừ, rồi mày cũng
phải xuống thôi.”
Manfred đấm một quả
vô lưng Henry, cậu loạng choạng về phía trước, ngã huỵch xuống một bậc thang đá
hẹp.
“XUỐNG!” Manfred ra
lệnh, lần này hắn nhấn đầu Henry xuống.
Henry nảy xóc rồi
tuột dài xuống một dãy cầu thang. Bấn loạn, cậu cố giải phóng đôi bàn tay. Đau
đớn, cậu cuồng quờ tìm cái gì đó có thể chặn cho mình ngừng rơi. Cuối cùng, cậu
đụng phải một vòng sắt đóng vô thành hố, liền túm chặt lấy. Nhưng, đúng lúc cậu
vừa bắt đầu leo trở lên những bậc thang, thì tảng đá khổng lồ kia rùng rùng che
kín miệng hố. Henry bị quẳng vô màn đêm đen kịt, sâu hun hút và đầy chết chóc,
đến nỗi cậu cảm thấy mình sẽ chết chắc.
*
* *
Choàng tỉnh giấc vì
tiếng ồn từ phòng bên cạnh, bà bếp trưởng tìm thấy cái ca không và chiếc ghế đổ
chỏng chơ. Bà đoán ngay điều gì đã xảy ra. Những con mèo lửa đã tới và đang cào
cào vô ô cửa trời trên mái nhà. Ngay khi được bà cho vô, lũ mèo lanh lẹ phóng
ngang qua căn phòng và leo lên dãy cầu thang ẩn. Chúng biết khi nào thì có một
đứa trẻ đang gặp nạn. Nhưng lúc lũ mèo đến chỗ chiếu nghỉ, thì Henry Yewbeam đã
bị bắt đi rồi, và chúng thấy Billy Raven đang nhìn trợn trạo qua tay vịn cầu
thang. Vừa trông thấy lũ mèo, Billy liền chạy ngay về phòng nó.
Lũ mèo tìm thấy May
Phúc, đang nằm nghiêng và thở khó nhọc. Nhẹ nhàng, chúng hích cho con chó già
đứng dậy, và rồi, với tiếng gừ nhẹ nhàng khích lệ, chúng xoa dịu cơn đau và
nâng đỡ tinh thần cho May Phúc, cho tới khi nó lết về được tới nơi mà nó gọi là
nhà. Bây giờ nó nằm dưới chân bà bếp trưởng, cuộn mình trong một tấm chăn và
ngủ lơ mơ.
“Con chó đáng
thương, mày phải trả giá vì giữ bí mật cho ta, phải không?” Bà bếp trưởng thì
thầm.
“Cảm ơn bọn bay nhé,
nó sẽ sống mà,” bà nói với lũ mèo. “Nhưng ở đâu đó trong nơi tiêu điều này, có
một thằng bé tội nghiệp có lẽ sẽ không qua khỏi đêm nay.”
Bà vùi mặt vô lòng
bàn tay.
“Ôi, Henry, cậu ngốc
quá, giờ cậu đang ở đâu?”
Dương Cưu không thể
chịu nổi tiếng than khóc. Meo lên một tiếng nhẹ ru, nó đứng dậy và cọ cọ vô đầu
gối bà bếp trưởng.
Bà bếp trưởng lau
mắt.
“Mày nói đúng, như
thế này ích gì, đúng không? Bọn bay nên đi mà kiếm thằng bé đi, mấy con mèo của
ta.”
Bà mở ô cửa trời, và
ba con mèo lửa phóng ra, nhảy vô bóng tối. Lòng bà nguôi ngoai bớt khi nhìn ba
thân hình sáng rực mất hút vô màn đêm.
“Điều gì đã xảy ra
với Quả Cầu Xoắn Thời Gian vậy, ta rất muốn biết.” bà bếp trưởng thì thầm một
mình. “Hay là thằng oắt Billy Raven kia đã tìm thấy nó rồi?” Trong khi đóng ô
cửa trời lại, bà nghe tiếng chuông xa xăm của chiếc đồng hồ nhà thờ lớn, báo
hiệu đã nửa đêm.
Billy Raven ngủ
thiếp đi trên giường. Dưới tiền sảnh, Quả Cầu Xoắn Thời Gian vẫn sáng lờ mờ
trong một góc. Cửa dẫn ra chái phía tây để mở he hé, và bây giờ một bóng người
hiện ra. Nương trong bóng tối, một bóng đen đủng đỉnh đi vòng quanh tiền sảnh,
cho tới khi tới được chỗ quả cầu. Khối thủy tinh lấp lánh được nhặt lên khỏi
góc kẹt và được lẹ làng đút sâu vô túi áo.
Nh ững Vị Khách Của
Lão Ezekiel.
Vào buổi sáng thứ
Hai, người mẹ minh tinh màn bạc nổi tiếng của Olivia Vertigo phải đi làm rất
sớm, vì thế Olivia được thả xuống Học viện trước bọn bạn nó rất lâu. Con bé
ngạc nhiên khi thấy tiền sảnh đầy kín người là người. Những người lao công cầm
chổi và cây lau nhà đang lau quét từng ngõ ngách; giáo sư Saltwweather và một
vài giáo viên khỏe mạnh khác đang khiêng đồ đạc ra khỏi các vách tường; những
người khác đang chăm chú săm xoi dưới những bức thảm thêu và những tấm màn nặng
chịch.
"Đừng có đứng
đó không, con bé kia, làm gì đi chứ!" Từ chỗ ngồi từ chính giữa tiền sảnh,
giáo sư Bloor quát to.
Olivia không chắc nó
nên làm gì.
"Thưa ngài,
giáo sư đang kiếm một thứ gì đó phải không ạ?" Nó hỏi.
"Dĩ nhiên.
Chúng ta đang tìm một quả cầu. Một quả cầu kì lạ nhất trên đời. Đi tìm nó
đi."
"Vâng, thưa
ngài."
Olivia ném phịch
chiếc ba lô xuống bên cạnh cánh cửa và đi lang thang khắp tiền sảnh. Nó cứ dán
tịt mắt xuống đất, nhưng gần như đến một hạt bụi cũng không còn để mà nhìn.
Sau một giờ tìm kiếm
vô ích, giáo sư Bloor ra lệnh cho mọi người chuyển đồ đạc về chỗ cũ và giải tán
khỏi tiền sảnh.
"Nó không có ở
đây." Ông ta lẩm bẩm." Vậy thì ai đang giữ nó?"