Charlie Bone (Tập 5) - Chương 08

NHÀ THÁM HIỂM

“Cha, con đưa Charlie Bone về
này,” Naren nói, hơi có vẻ lo âu.

“Ừ, thấy rồi. Naren, cha đã
cấm con vào thành phố rồi cơ mà.” Giọng người đàn ông khản đi vì nén giận, và
trong khi nói chuyện với con gái, ông vẫn không hề rời mắt khỏi Charlie. “Cha
nghĩ là con đã băng qua cây cầu sắt, đúng không?”

“Con xin lỗi,” Naren nhìn tịt
xuống hai bàn chân. “Con không nhịn được.”

“Con nhịn được chứ sao lại
không,” người cha cao giọng. “Con không bao giờ học được điều đó sao? Con không
bao giờ làm được cái gì an toàn và có xét đoán sao?”

“Nhưng bây giờ cha vui rồi,
há?” Naren mỉm cười hy vọng. “Cha vui vì con đã đưa Charlie tới.”

Người đàn ông gừ lên một
tiếng giận điên rồi vung rìu chém mạnh xuống một thân cây cụt đã lõm lam nham
vài vết rìu. Bỏ mặc cái rìu ở đó, ông quay lưng lại bọn trẻ và hùng hổ đi vào
nhà.

Thật bất ngờ, cánh cửa không
hề đóng sầm. Tuy nhiên, Charlie không cảm thấy mình được chào đón.

“Cha em sẽ dịu lại thôi,”
Naren nói chắc nịch. “Cơn giận của ông ấy cũng như lửa tắt ấy mà. Đi vào trong
cho ấm nào.” Cô bé bước tới cánh cửa để mở, ra hiệu cho Charlie đi theo.

Nhưng Charlie vẫn đứng nguyên
tại chỗ. Bất chấp cái lạnh, nó ngần ngại không muốn rời lũ thú. Nó bắt đầu nhận
ra vài con trong đám chúng. Con vịt của Emma đang mổ bắp trong máng. Homer chễm
chệ trên cọc hàng rào, và có hai con thỏ trắng lót tót nhá cỏ ở góc xa; trông
chúng giống như mấy con thỏ của Olivia.

“Anh nghĩ thôi đi, để anh ra
dắt Hạt Đậu về nhà luôn đây,” Charlie bảo cô bé. “Bạn bè anh sẽ tới nhận thú
của họ tại anh đã biết chỗ rồi.”

“Không được,” Naren nói đanh
sắc. “Không được cho ai biết về nơi này. Nếu không thì cơn giận của cha em sẽ
rất khủng khiếp. Vào đi,” cô ngoắc tay. “Anh phải nói chuyện với ông đi.”

Người đàn ông tóc trắng vừa
rồi có vẻ rất cục cằn, Charlie ngại ngùng không muốn nói chuyện với ông, nhưng
Naren vẫy sốt sắng quá nên nó đành nhích tới gần hơn, gần hơn.

Hạt Đậu đi theo tới cửa,
nhưng không theo Charlie vào nhà. Naren tháo bốt ra để ngoài một hành lang nhỏ
lát đá phiến, và Charlie làm tương tự. Sau đó cô bé mở một cánh cửa thứ hai, và
khi Charlie bước qua, nó thấy mình ở trong một gian bếp ấm áp, sáng sủa.

Một ấm nước đun trên giàn vỉ
lò, bên dưới là những khúc gỗ cháy phừng phực. Một ngọn đèn dầu đặt trên cái
bàn tròn hắt ánh sáng êm dịu, làm cho căn phòng sinh động.

Cha của Naren ngồi trong một
chiếc ghế cạnh lò sưởi, trong lúc một người phụ nữ tóc xám cúi xuống bên ông,
nói gì đó vẻ khẩn thiết. Bà ngước nhìn lên khi nghe tiếng bọn trẻ đi vào, và
nhoẻn với Charlie một nụ cười, xóa tan mọi nỗi bất an của nó. Giống như Naren,
người phụ nữ này là người Trung Hoa.

Đáng ra Charlie đã nói chuyện
với người phụ nữ đó rồi, nhưng bỗng xảy ra một việc mà nó không hề được chuẩn
bị trước. Nó bắt đầu để ý thấy treo kín hết bề mặt khiêm tốn của bốn bức tường
là những bức hình chụp. Trông như thể có một trăm cửa sổ đang mở ra cho nó thấy
những góc độ khác nhau của một rặng núi. Những dải núi tắm đẫm ánh mặt trời, những
ngọn núi phủ tuyết trắng xóa hay lấp lánh dưới ánh trăng, lại thêm những cánh
đồng tuyết điểm những mảng tía vằn vện và bắn lóa lên không từng hàng cờ đuôi
nheo bảy sắc cầu vồng phấp phới. Bao nhiêu là đỉnh núi hùng vĩ, biết bao là
những rặng núi huy hoàng.

Từ một trong những bức hình
ấy, một người leo núi vẫy tay về phía máy chụp hình. Đôi kính đen của ông bị
đẩy ngược lên trên chiếc mũ len màu xanh da trời và ông đang cười hết cỡ.
Charlie thoảng như nghe thấy tiếng cười của ông. Có những chuyển động trong căn
phòng xung quanh nó, rồi nhà bếp nghiêng ngả, chao đảo dữ dội và biến mất. Còn
lại một mình, Charlie bị hút phụt về phía dãy núi xa xăm.

Không khí lạnh căm, lạnh buốt
châm châm vào má Charlie và lộn lạo trong lá phổi nó. Nó đang bay trên đồng
tuyết trắng đến chói cả mắt, trong khi tiếng cười của người đàn ông rõ dần lên.

Có ai đó giật lấy cánh tay
Charlie. Đau điếng. Nó ước gì họ buông tay mình ra. Cố giật bung khỏi tay họ
nhưng nó yếu quá, không giằng nổi. Vì vậy nó đành phó mặc cho thân mình bị giật,
bị lôi, bị rung lắc và bị quát tháo, cho đến khi nó phải mở mắt ra. Và ô hay,
nó đấy, đang đứng bên trong một cánh cửa nhà bếp, với một cặp mắt xanh da trời
lo lắng nhìn xoáy sâu vào mắt nó, cùng một gương mặt không còn thô lỗ nữa.

Cha của Naren cầm cánh tay
Charlie và ấn nó vào một chiếc ghế bên lò sưởi.

“Lúc nãy cháu tưởng mình ở
trên một ngọn núi chứ,” Charlie nhìn lên dãy hình trên tường. “Ông đã ở đó,
thưa ông...”

“Bác biết,” cha của Naren
nói. “Cháu khéo chọn thời điểm để chu du quá đấy, Charlie Bone. Khiến chúng tôi
một phen hú vía.”

“Ồ. Vậy là bác biết việc đó?”
Charlie ngạc nhiên hỏi. “Ý cháu là bác biết về chuyện chu du của cháu.”

“Phải. Bác có nghe nói.”

Người phụ nữ Trung Hoa bảo,
“Vui lắm được đón cháu ở đây, Charlie à.” Bà liếc nhìn người đàn ông với một
cái nhíu mày, “Bác trai lo lắng cho Naren, nhưng lẽ ra ông ấy không nên giận dữ
với cháu.” Lắc đầu đầy vẻ lo âu, bà kéo một chiếc ghế ra và ngồi vào bàn, “Vậy
là không đúng.”

Naren quàng tay qua vai người
phụ nữ, rối rít, “Xin lỗi mẹ. Lỗi tại con. Con xin lỗi mẹ.”

“Ừm... chính xác thì... bác là ai ạ?” Charlie hỏi người đàn ông.

“Tên bác là Bartholomew. Bác là con trai của Ezekiel Bloor.” Trông thấy vẻ
cảnh giác trên mặt Charlie, người đàn ông vội thêm, “Đừng lo, bác là con cừu
đen, à mà có lẽ là con cừu trắng(*) của gia đình thì đúng hơn. Bác không gặp
cha mình, hay cả con trai mình, suốt nhiều năm rồi. Họ bị đẩy đi quá xa khỏi
bác như là mặt trăng xa trái đất vậy.”

“Nhưng tại sao...” Charlie nhìn quanh phòng. “Tại sao bác lại ở đây?”

“À,” ông Bartholomew đi ra cửa sổ và nhìn chăm chú ra những vị khách thú
của mình.

“Ba sẽ nói cho anh biết mà,” Naren bảo. “Phải không cha? Cha phải nói cho
Charlie biết nhe.”

Ông Bartholomew sải bước về lại chỗ hai đứa, “Ừ.” Giọng ông nghiêm trang và
có chút gì đó dằn vặt. “Bác phải nói.” Rồi ông kéo một chiếc ghế sát lại gần
ghế Charlie và bắt đầu nói.

Trong khi Charlie lắng nghe, mẹ của Naren đem cho nó một bát trà bốc khói
mê ly, và sau đó là một cái bánh nướng ngọt lịm, giòn lốp cốp. Charlie chưa bao
giờ được nếm thứ gì ngon lành đến vậy, nhưng nó chỉ gật đầu cảm ơn, vì không
thể nào dứt được tâm trí ra khỏi câu chuyện khó tin của ông Bartholomew.

(*) Black sheep: ý là con chiên
ghẻ, đứa con hư hỏng, bị gia đình chối bỏ. Ông Bartholomew chơi chữ, sửa lại là
white sheep (con cừu trắng), ý nói là ta không độc ác như gia đình mình. (ND)

Chuyện bắt đầu bằng một đám cưới. Bartholomew Bloor cưới Mary Chance vào
một sáng mùa thu mưa dầm. Không một ai vui mừng, ngoại trừ cô dâu và chú rể, họ
yêu nhau đến nỗi hầu như không nhận ra thời tiết thế nào. Lão Ezekiel Bloor và
những người họ hàng Yewbeam của lão khinh miệt cô dâu, một vũ công xinh đẹp
nhưng nghèo kiết xác. Còn cha mẹ của Mary thì lo lắng cho con gái mình bị cưới
vào một gia đình quái gở và ghẻ lạnh, tách biệt xã hội như vậy.

“Họ bỏ mặc bọn bác một thời gian,” ông Bartholomew nói với một tiếng thở
dài. “Thế rồi bác nghe nói về chuyến thám hiểm. Mẹ của bác vốn vẫn hay cho bác
cùng đi thu thập các loài thực vật hiếm ở dãy núi Bavaria. Kể từ đó bác say mê
núi non. Sau khi mẹ chết, bác dành hết những ngày nghỉ của mình để leo núi với
bạn bè. Bọn bác đã leo núi Snowdonia, dãy núi Alps, rặng Pyrenees, nhưng giấc
mơ của bác luôn luôn là chinh phục dãy Himalayas(*).”

“Một ngày nọ bác nhận được một lá thư từ một trong những bạn leo núi của
bác. Harold, con trai bác, lúc đó 8 tuổi. Nó rất nghiêm và lù đù. Nó không chia
sẻ tình yêu đi đó đây với bác. Nó ghét phải ở lều, ghét đi bộ, thậm chí ghét cả
đi cắm trại,” ông Bartholomew buột cười buồn bã. “Thử tưởng tượng một đứa trẻ không
thích đi cắm trại thì thế nào.”

Naren chặc lưỡi, “Tưởng tượng
coi!”

“Lá thư thông báo cho bác
biết về một chuyến thám hiểm,” ông Bartholomew tiếp. “Có một suất dành cho bác.
Một tháng nữa thì họ sẽ lên đường tới dãy Himalayas(*).”

Charlie nhai bánh nướng, cố
hết sức khẽ khàng – và chờ.

Giọng ông Bartholomew ngập
ngừng rồi tiếp tục, “Mary bảo với bác đó là một cơ hội cả đời mới có, và bác sẽ
mãi hối tiếc nếu bác không đi. Vì vậy mà bác đã đi.” Ông đứng lên và bắt đầu
bước tới bước lui trong phòng. “Tất cả mọi việc đều suôn sẻ cho tới một đêm bão
tố. Cơn bão ác nghiệt và khủng khiếp. Một trận tuyết lở đã giết chết hai người
trong đoàn, còn bác thì bị quét vào một hẻm núi. Suốt hai ngày bác nằm kẹt ở
đó, không thể cụ cựa. Một người đàn ông thuộc một bộ lạc không ai biết với toàn
những con người lạ lùng đã cứu bác.”

Ông Bartholomew trở về và
ngồi lại xuống ghế. Ông kể cho Charlie nghe bộ lạc huyền bí đó đã chăm sóc ông
như thế nào. Cả hai chân ông đều gãy và vết thương dài trên đầu khiến ông đau
đớn triền miên, nhưng đến cuối năm đó thì ông đủ khỏe để đi được. Một thanh
niên trong bộ lạc đã đưa ông đến con đường núi dẫn ra khỏi thung lũng, và sau
nhiều tuần, ông đến được một thị trấn có điện thoại.

“Bác phấn khích vô cùng, nôn
nóng muốn nói chuyện với Mary, để báo cho cô ấy biết là bác còn sống và sắp trở
về nhà,” ông Bartholomew lắc đầu. Một tay ông vò vò khắp mái tóc trắng, tay kia
che mắt.

Mới đầu Charlie sợ không dám
hỏi câu nào. Nó nhìn Naren và mẹ cô bé, nhưng dường như họ không sao nói được,
ông Bartholomew đang quá trầm uất. Cuối cùng, nỗi tò mò của Charlie thắng thế
và nó đánh liều hỏi. “Thế chuyện gì đã xảy ra ạ?”

Ông Bartholomew nhìn lên, “Bà
nội của cháu, Grizelda Bone, đã trả lời điện thoại. Bà ta đang có mặt ở nhà bác
để chuẩn bị bán căn nhà. Bà ta bảo với bác là tất cả mọi người đều tin rằng bác
đã chết trong trận lở tuyết ấy rồi. Sau khi Mary nghe tin, cô ấy đã đi vào một
nhà hát vắng tanh và múa, múa, múa một mình cho đến chết.” Ông Bartholomew hít
một hơi thật sâu. “Con trai bác đang sống trong học viện Bloor, dưới sự chăm
sóc của Ezekiel và Grizelda. Và rõ ràng là nó rất hạnh phúc.”

Charlie sốc đến nỗi không nói
nên lời.

“Vậy là bác không về nhà
nữa,” ông Bartholomew tiếp. “Bác trở thành một nhà thám hiểm. Bác cứ đi, đi mãi
cho đến khi tới được Trung Quốc, sống ở đó nhiều năm thì bác gặp người vợ thứ
hai của mình, bà Meng đây.” Ông nhìn sang người phụ nữ tóc xám, bà mỉm cười với
ông. “Một ngày nọ, sau một trận lụt kinh hoàng, có một bông hoa từ mặt trời
bước vào nhà của bác. Cha mẹ của nó đã bị nước cuốn trôi. Lúc đó nó bốn tuổi và
tự xưng tên là Naren – hoa hướng dương.”

“Phải, là em đó!” Naren hét lên. “Họ đã nhận em làm con nuôi, và giờ thì em
ở đây.”

Charlie quay qua nhìn cô bé và cười toét. “Nhưng tại sao tất cả lại trở về
đây?” Nó hỏi.

“À,” ông Bartholomew đi ra cửa sổ. “Đó là một điều bác không thể giải thích
được. Bác cần phải ở gần nơi mà những người con của Vua Đỏ được sinh ra. Từ
phía bên này vực sông, chúng ta có thể nhìn thấy lâu đài, hoặc những gì còn sót
lại của nó. Gần, nhưng lại chắc chắn thoát được sự tấn công của thành phố và
của hai gia đình ác độc kia,” ông ngừng lời một giây, “và thoát khỏi thứ mà bác
đã nghe nói tới, khi bác đang ở Ý. Một thứ người ta gọi là ‘cái bóng’. Đôi lúc
bác vẫn mơ về nó.”

Một luồng gió buốt giá bất giác lùa vào căn phòng ấm cúng, tựa như một cánh
cửa vô hình vừa rớt khỏi cửa sổ. Charlie rùng mình. “Một cái bóng đứng đằng sau
nhà vua trong tấm chân dung ngài,” nó nói. Ông Bartholomew gật đầu. “Vậy là
cháu đã nhìn thấy nó rồi.”

“Tụi cháu nghĩ,” Charlie lưỡng lự, “hình như hắn đã trở lại. Cái bóng đã xê
dời, bác biết không, và chúng cháu nghĩ... à, thật ra là một con chuột đã bảo
với bạn cháu, bạn Billy ấy, (ông Bartholomew không hề chớp mắt) rằng trái đất
rùng mình. Và rồi một con chó...” Charlie nhắc lại câu chuyện của May Phúc về
cái bóng biến thành một người đàn ông.

Mẹ của Naren bụm một bàn tay lên miệng, còn ông Bartholomew nhắm mắt lại,
lẩn tránh một nỗi kinh hoàng không thể tưởng tượng được.

“Người ta nói đó là Borlath,” Charlie tiếp, “là tổ tiên của ông... cũng là
của cháu, cháu nghĩ vậy, vì chúng ta kiểu như cũng họ hàng với nhau.”

“Đó không phải là Borlath,” nhà thám hiểm nói, vẻ u ám. “Cái bóng của nhà
vua là người đàn ông đã làm ly tán gia đình của Vua Đỏ. Bác quên mất tên hắn
rồi.”

“Cháu chưa bao giờ nghe nói đến ông ta cả,” Charlie nói. “Ông ta không có
trong những sách lịch sử của Ông cậu cháu.”

“Sách lịch sử thường được viết ra từ một quan điểm nhất định,” ông
Bartholomew nói một cách bực bội. “Chúng bị chỉnh sửa, bị thêm thắt, cắt xén
những tình tiết. Chỉ những người du hành mới có thể tìm ra sự thật, Charlie à,
bởi vì sự thật ở trong đầu con người và ở trong trái tim họ. Đừng có lúc nào
cũng đem đặt lòng tin của mình vào những lời mà cháu thấy trên giấy nhé.”

“Cháu nghĩ về mặt nào đó mình cũng là một người du hành,” Charlie nói.

“Đương nhiên. Và ai mà biết, cháu có thể khám phá nhiều điều về Vua Đỏ hơn
những gì bác đã thấy suốt ngần ấy năm rong ruổi của mình.”

“Phải chi cháu có thể đi qua cái bóng đó,” Charlie suỵt soạt.

“Ha! Chúng ta trở lại chuyện cái bóng sau.” Ông Bartholomew đột ngột đứng
lên và dí sát vào nhìn mặt Charlie.

Charlie đành nuốt ực những câu hỏi mình định hỏi. Thay vào đó, nó nói về
cuộc sống của nó kể từ khi ba nó mất tích, về Học viện Bloor và về những đứa
trẻ được ban phép thuật đã trở thành bạn của nó.

“Rồi cháu sẽ tìm được ba cháu, Charlie,” ông Bartholomew nói đầy thuyết
phục, “đó là nhờ tính cách của cháu, và nhờ sự trung thành mà cháu đã truyền
cho mọi người. Lyell là một người phi thường. Thật kỳ diệu là chú ấy vẫn giữ
được cho mình cao quý khi bị vây quanh bởi toàn đồ rắn độc như vậy. Bác đáng
tuổi cha chú ấy, nhưng sau vài tuần ngắn ngủi chúng ta đã trở thành bạn thân
của nhau. Lúc cháu được một tuổi, Charlie, bác có ghé về thăm gia đình. Nhưng
họ chẳng muốn dính líu gì tới bác cả. Thằng con bác hầu như không công nhận
bác. Bác nghĩ rằng, về mặt nào đó, Lyell đã trở thành đứa con trai đã mất của
bác. Bác đưa chú ấy đi leo núi cùng với bác...” Giọng ông Bartholomew trượt đi,
rồi bỗng nhún vai một cái thật mạnh, ông nói, “Đến giờ cháu phải về nhà rồi,
Charlie. Nhưng không phải theo đường mà cháu đã đến.”

“Để con...?” Naren mở lời.

“Không,” người cha nghiêm khác. “Con phải ở lại đây với mẹ. Và con sẽ không
bao giờ được băng qua cây cầu đó nữa.”

Naren cười lỏn lẻn với Charlie, “Nhưng còn những con thú, cha ơi. Charlie
phải đem chúng về cùng với anh ấy chứ.”

“Không thể mang tất cả thú được,” người mẹ cười lớn.

“Chỉ những con là thú của các bạn cháu thôi,” Charlie nói. “Mọi người có
thấy con chuột cảnh nào không ạ?”

“Cả đống!” Naren chạy ra hành lang và vừa mặc áo khoác đi bốt vào vừa nói
to, “Trong chuồng đầy nhóc bọn chúng. Đi ra xem này.”

Vội vội vàng vàng mặc hết mớ đồ lạnh của mình vô, Charlie theo Naren tới
một chuồng gia súc lớn ở góc bên phải ngôi nhà. Khi nó bước vào trong chuồng,
một đội quân gặm nhấm bé tí vội chạy láo nháo qua sàn đất, phóng lên đống cỏ
khô hoặc chui rúc dưới những khúc gỗ.

“Làm sao anh có thể phân biệt được đây?” Charlie rên rẩm. “Bạn của anh mất
hơn hai mươi con.”

“Lại có người biết được con nào với con nào sao?” Naren hỏi.

“Gabriel biết tỉ mỉ từng con chuột của anh ấy,” Charlie nói với một cái thở
dài.

Nghe vậy Naren khoái chí bật cười như nắc nẻ, Charlie cũng bật cười theo
khúc khích.

Phải mất gần một tiếng đồng hồ mới bắt xong hai mươi lăm con chuột cảnh có
vẻ hơi hơi nhận ra được, hai con thỏ trắng, một con vịt, một con vẹt xám, và
một con trăn xanh da trời. Kiếm được một đống thùng với hòm, cùng một cái lồng
cho con trăn. “Đừng có ham cái chuyện để con đó quấn quanh cổ bác trong lúc bác
lái xe đấy nhé,” ông Bartholomew bảo, khi ông giúp Charlie dụ con trăn vào
trong lồng. Nhưng con trăn đó là một sinh vật hòa nhã và chắc hẳn sẽ không bao
giờ làm hại một người bạn. Không ai trong gia đình họ ngạc nhiên khi biết nó đã
một ngàn tuổi. Trong những chuyến đi chu du thiên hạ của mình, ông Bartholomew
từng gặp những sinh vật còn nhiều tuổi hơn thế.

Một chiếc xe tải nhẹ méo mó đậu ngoài sân, đằng sau ngôi nhà, và bọn thú
nhốt trong thùng xe được cẩn thận chất vào sau xe. Charlie ngồi vào chỗ bên
cạnh ông Bartholomew, Homer đậu trên lồng con trăn và Hạt Đậu ngồi trên đùi
Charlie.

Chiếc xe tải rồ lên và lăn bánh qua sân. Ngay lập tức, Naren chạy theo bên
hông xe. “Đừng đóng... tối nay nhé,” cô bé nói với theo.

“Cái gì?” Charlie ngó qua cửa sổ.

“Đưa cho em một thứ gì đó của anh đi,” Naren nói to.

Hầu như không suy nghĩ, Charlie lột chiếc bao tay của mình và thảy qua cửa
sổ. Chiêc xe tải lắc lư ra khỏi sân và đi vào một con đường gồ ghề. Charlie vặn
người trên ghế và nhìn qua cửa sổ sau. Nó thấy Naren nhặt bao tay lên và vui
sướng vẫy vẫy chiếc bao tay. Bà Meng đứng đằng sau cô, do dự đưa một tay lên.
Chiếc xe tải cua gắt vào một ngõ quẹo và hai bóng hình biến mất khỏi tầm nhìn.

“Tạo sao bạn ấy lại muốn có một đồ vật của cháu?” Charlie hỏi ông
Bartholomew.

“Nó muốn giữ liên lạc đó mà,” ông Bartholomew mỉm cười một cách bí hiểm với
Charlie.

“Nhưng tại sao lại là bao tay? Và cháu tuyệt đối không được đóng cái gì tối
nay?”

“Rèm cửa, Charlie. Hãy để ánh trăng chiếu vào.”

“Nhưng mà...”

“Hãy nhìn qua phải,” ông Bartholomew ra lệnh.

Vâng lời, Charlie nhìn băng qua ông Bartholomew. Mới đầu, nó chẳng thấy gì
ngoài cây cối, nhưng rồi, ở bên kia đèo, một tòa tháp đỏ quạch hình vuông lọt
vào tầm nhìn.

“Lâu đài Đỏ,” Charlie thốt lên.

“Đúng vậy,” ông Bartholomew đồng ý.

“Có một phần của bức tường kìa,” Charlie la lên.

Chiếc xe tải chậm lại để Charlie có thể thấy đống đổ nát của bức tường
khổng lồ, xây ở ngay trên mép đèo bên kia. Những mảng tường hiện ra ít nhất cả
dặm, sau đó, từ từ, những phiến đá khổng lồ bị mất hút vào biển cây cối bạt
ngàn.

“Cháu không ngờ nó lại đồ sộ đến vậy,” Charlie thở hốc.

“Rộng mênh mông ấy chứ,” ông Bartholomew nói. Giọng ông nhẹ đi. “Và bác tin
rằng nhà vua, hoặc vong linh của ngài, vẫn còn ở đó. Bây giờ ngài ẩn dật, nhưng
có lẽ chẳng bao lâu nữa đâu, ngài sẽ hiển hiện, nhất là khi cái bóng ấy đã trở
lại.”

“Hoàng hậu cũng ở đó,” Charlie nói.

Ông Bartholomew nhíu mày quay qua nó, vẻ thắc mắc, và Charlie kể cho nhà
thám hiểm nghe về con ngựa trắng đã đưa nó và Billy đến lâu đài Gương.

“Hoàng hậu,” đôi mắt xanh thẳm của ông Bartholomew nhấp nháy. “Ôi thật
tuyệt vời.”

Họ đi tiếp trong yên lặng được một lúc thì ông Bartholomew nói nghiêm nghị.
“Charlie, điều quan trọng là không được để cho ai biết về bác và gia đình bác.
Hãy hứa không được nói cho một linh hồn nào về nơi bác sống nghe chưa, hoặc là
nơi cháu đã tìm thấy những con thú.”

Charlie nghĩ tới bạn bè nó, và Ông cậu Paton. “Cháu hứa,” nó ngần ngừ.

Đi một dặm nữa thì họ rời lối mòn xuyên đồng hoang, rẽ vào một con đường
cuối cùng đưa họ tới một cây cầu rộng bằng đá. Charlie nghĩ tốt nhất nên đưa
tất cả bọn thú tới quán Cà Phê Thú Kiểng để cho những chủ nhân của chúng tới
nhận chúng về. Nó chỉ đường cho ông Bartholomew tới đầu hẻm Con Ếch, nhưng nhà
thám hiểm chắc sẽ không chịu rời chiếc xe tải của mình.

Trước khi Charlie ra khỏi xe, ông Bartholomew nhét cái gì đó vào túi áo nó.
“Bác không có tấm hình nào chụp cha cháu cả,” ông giải thích. “Nhưng cháu hãy
cầm lấy cái này. Bác luôn luôn giữ nó và bất giác bác nghĩ rằng nó có thể giúp
cháu, Charlie à.”

“Cảm ơn bác.”

“Giờ thì xuống xe nhé. Bác không muốn bị ai thấy bác cả.”

Với cái lồng trăn treo trên một cánh tay, một thùng đựng thỏ với chuột cảnh
ở bên cánh tay kia, Charlie hét lên chào tạm biệt, rồi chiếc xe tải phóng đi
khỏi. Sau đó nó lặc lè đi xuống hẻm Con Ếch với Hạt Đậu chạy lon ton đằng trước
và con vịt Nancy lạch bạch ngoan ngoãn đi đằng sau. Tuy nhiên, con vẹt thông
thái cứ biến biệt dạng một chốc thì lại réo lên những lời thô lỗ từ cột điện
hay từ bậu cửa sổ.

Charlie đi gần đến quán Cà Phê Thú Kiểng thì nhận thấy có những bước chân
trên con đường sỏi đằng sau mình.

“Đứng nguyên tại chỗ, Charlie Bone,” một giọng nói.

Charlie dừng lại và ngó quanh. Dorcas Loom và hai thằng anh to xác của con
nhỏ đang khệnh khạng đi về phía Charlie. Bước giữa hai thằng nhà Loom là Joshua
Tilpin.

“Chó của bọn tao đâu, Charlie Bone?” Albert Alfred, thằng con nhà Loom xấu
nhất và cao nhất, hỏi.

“Ủa. Làm sao mày tìm được con chó của mày và tất cả thú cưng của bạn mày
thế này?” Alfred, thằng lùn hơn và bè bè hơn, chất vấn.

“Mày đã làm gì với tất cả bọn thú kia rồi hả, Charlie?” Joshua nói với bộ
mặt nhăn nhở. “Nói! Mau!”

“Không làm gì cả,” Charlie đáp. “Tôi chỉ tình cờ tìm thấy những con này,”
nó liếc nhìn Nancy, đang núc ních đi tới bên cạnh nó.

“Ô, chỉ tình cờ tìm thấy chúng thôi à?” Dorcas móc máy.

Một tiếng gừ rồ rồ trong cổ họng Hạt Đậu, và Homer rống lên, “Chiến đấu!”

“Chặn cái đồ liến thoắng đó lại,” Albert rít chịt. “Nếu mày không khai cho
chúng tao biết chó của chúng tao ở đâu, tao sẽ bắt chó của mày. Bọn tao sẽ bắt cả
đám luôn, trừ khi mày nói ra.”

“Nói mau,” Alfred ra lệnh, “không thì...”

Bốn đứa chúng nó bắt đầu tiến lại gần.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3