Hạt ngọc ẩn mình - Chương 03

Chương 3

PETER HOUGHTON đang phân loại thư từ của công tước Ridgeway
và đặt sang một bên những bức mà anh nghĩ đức ngài sẽ muốn hồi đáp. Công tước
có vẻ cáu kỉnh lúc vào nhà, thậm chí trước cả khi bước vào phòng làm việc.
Giọng nói của công tước, dù không rõ lời, cũng đủ tố cáo tâm trạng của ngài.

Vừa trông thấy đức ngài khập khiễng bước vào phòng, viên thư
ký liền đứng bật dậy rồi lại ngồi xuống ghế sau cái khoát tay thiếu kiên nhẫn.
Thường thì công tước chỉ đi khập khiễng những lúc rất đau.

“Có gì quan trọng không?” Công tước gật đầu về phía chồng
thư từ.

“Một lời mời ăn tối với Bệ hạ,” Houghton báo cáo.

“Hoàng thân nhiếp chính à? Thảo lời cáo lỗi.”

“Đó là một bữa tiệc hoàng gia và chơi bài thôi,” viên thư ký
húng hắng ho.

“Đúng. Ta biết. Thảo thư cáo lỗi đi. Có tin gì của vợ ta
không?”

“Không có gì, thưa đức ngài,” Houghton nhìn xuống chỗ thư
từ.

“Chúng ta sẽ về Willoughby,”
đức ngài xẵng giọng. “Để ta xem nào. Tối mai ta hứa đi cùng nhà Dennington đến
rạp hát để hộ tống cô cháu gái. Chẳng có gì không thể hủy đúng không? Ngày kia
chúng ta sẽ khởi hành.”

“Vâng, thưa đức ngài.” Peter Houghton cười khi ông chủ ra
khỏi phòng. Đã hai tuần trôi qua kể từ khi cô gái đó lên đường. Công tước đã
thể hiện một sự kiên nhẫn tuyệt vời vì đợi lâu đến thế mới tìm ra một lý do
chính đáng để về lâu đài.

***

Công tước Ridgeway bước hai bậc một như mọi khi, mặc dù chân
và hông anh đau nhức. Anh lơ đãng liếc mắt trái xuống kiểm tra. Thời tiết quái
quỷ. Cứ trở trời là mấy vết thương cũ lại hành hạ anh.

Quỷ tha ma bắt Sybil! Kể từ bốn năm trước, cô ta luôn từ
chối đi cùng anh đến London,
sau khi anh buộc phải đe dọa và chấm dứt chuỗi ngày chơi bời trác táng công
khai của cô ta. Từ đó, gần như mỗi khi anh lên London một mình để có vài tháng
yên ổn thì cô ta lại tổ chức những bữa tiệc thôn trang hoành tráng, mời tất cả
những kẻ ăn chơi trác táng nhất xã hội thượng lưu, cả đàn ông và phụ nữ, từ
London về Dorsetshire.

Cô ta rất hiếm khi nghĩ tới việc cần thông báo cho anh những
kế hoạch đó. Anh chỉ toàn vô tình biết. Hai năm trước, có một lần anh chẳng biết
gì cho đến khi về đến nhà và biết được tất cả khách khứa đến đây đã đi hết
ngoại trừ một gã. Và gã này tốt bụng đến nỗi cho phép một cô hầu gái sử dụng
cái giường khách bỏ trống lúc gã ngủ cùng nữ công tước.

Công tước đã ra lệnh cho vị khách đặc biệt này trong vòng
một tiếng phải lên đường, và dường như hắn ta khắc ghi tới tận tâm can lời
khuyên sẽ không ló mặt đến Willoughby hoặc London ít nhất trong mười
năm tới.

Và anh đã cho nữ công tước một bài giáo huấn ra trò về những
phép tắc trước mặt người hầu khiến cô ta chuyển từ tái mét sang khóc như mưa.
Lúc khóc trông Sybil luôn xinh đẹp hơn bình thường. Và cô ta lại buộc tội anh
lòng dạ sắt đá, hờ hững, chuyên quyền - như mọi khi.

Lần này công tước biết được bữa tiệc của Sybil qua ngài
Hector Chesterton ở câu lạc bộ White. Ông ta hình như rất hài lòng với lời mời
nên đứng ngồi không yên và thở khò khè.

“Mấy ngày này chẳng có gì để làm ở thành phố cả, ông bạn già
ạ, ngoài việc liếc mắt đưa tình với mấy em non tơ. Và mấy bà mẹ thì quản chặt
đến nỗi không thể làm gì ngoài liếc mắt. Sybil thật tử tế vì đã mời tôi.”

“Đúng.” Công tước cười lạnh tanh. “Cô ấy thích bạn bẻ ở xung
quanh.”

Và vì vậy anh buộc phải quay về Willoughby, sớm hơn nhiều tuần so với kế
hoạch. Anh kéo dây chuông trong phòng thay đồ và cởi áo khoác trong lúc đợi
người hầu lên. Anh phải quay về vì gia nhân và Pamela. Họ không đáng phải chứng
kiến cảnh ăn chơi trác táng của Sybil và bạn bè cô ta.

Lạy Chúa! Anh tháo cà vạt và ném nó qua một bên. Anh đã từng
yêu cô ta. Ngày xửa ngày xưa, cách đây rất lâu, anh đã yêu cô ta. Nàng Sybil
tóc vàng ngọt ngào, yếu đuối và xinh đẹp. Anh đã mơ mộng về cô, nhức nhối vì cô
suốt thời gian ở Bỉ chờ trận chiến mà sau này đã trở thành Trận Waterloo huyền
thoại. Anh đã sống bằng hình ảnh nụ cười sáng bừng, lời hứa ngọt ngào và vẻ e
thẹn lúc cô chấp nhận lời cầu hôn của anh, nụ hôn đầu ấm áp của cô.

Lạy Chúa! Anh giật khuy áo sơ mi trên cùng và nhìn nó văng
sang đầu kia phòng, nảy lên đụng vào giá kê chậu rửa.

“Bảo ai đó may mấy cái cúc chết tiệt này chắc hơn đi,” anh
quát gã người hầu không may xuất hiện ngay lúc đó.

Nhưng gã người hầu này đã phục vụ anh từ thời niên thiếu, đi
cùng anh ra chiến trường và là đầy tớ riêng của anh ở Tây Ban Nha cũng như ở
Bỉ. Mặt gã thản nhiên như không.

“Chân và hông ngài lại đau nhức phải không đức ngài? Tôi
nghĩ là do thời tiết. Ngài nằm xuống để tôi xoa bóp cho.”

“Sao mà giữ mấy cái cúc trên áo ta đây, thằng trời đánh
kia?”

“Tôi sẽ làm, thưa ngài, tôi hứa. Giờ thì ngài nằm xuống đi.”

“Ta muốn thay quần áo cưỡi ngựa. Ta sẽ phi ngựa trong công
viên.”

“Sau khi tôi xoa bóp cho ngài nhé,” gã hầu nói như bảo mẫu
dỗ em bé. “Chúng ta sẽ về Willoughby
phải không đức ngài?”

“Houghton đã lan truyền tin vui này rồi à?” Công tước nằm
duỗi người trên đi văng trong phòng thay trang phục, để người hầu cởi quần áo,
cho phép đôi tay mạnh mẽ và thành thạo làm dịu cơn đau xuống. “Ngươi có vui khi
về nhà không, Sidney?”

“Vui chứ,” gã hầu khẳng định “Và ngài cũng vậy nếu ngài chịu
thừa nhận. Willoughby
luôn là nơi ngài yêu thương nhất trên đời.”

Đúng. Đã từng. Anh lớn lên với nhận thức một ngày nào đó tất
cả sẽ là của mình. Tình yêu Willoughby
đã khắc sâu trong trái tim anh. Tình yêu đó luôn ở trong anh suốt những năm
tháng anh đến trường, học đại học và ra chiến trường. Anh khăng khăng gia nhập
trung đoàn bộ binh, dù mình là con trai cả, là người thừa kế, bất chấp sự phản
đối của cha và những người quen.

Nhưng Willoughby đã ăn vào máu anh. Nó là mục tiêu để anh
chiến đấu - Willoughby,
quê hương anh, nước Anh thu nhỏ.

Và giờ anh ghét trở về đó. Vì Sybil ở đấy. Vì cuộc đời có
thể không giống như những gì anh mơ mộng.

Và lúc này anh phải về. Nơi nào đó tận sâu trong anh vui
mừng vì bắt buộc thế. Willoughby
vào cuối xuân và suốt hè - anh nhắm mắt, cảm nhận khao khát trào dâng như mỗi
khi anh xa nhà và cho phép mình nhung nhớ.

Và nơi đó có Pamela. Sybil không quan tâm đến con dù luôn tỏ
vẻ che chở, và trên thực tế cô ta không muốn cho anh gần con. Cô ta gần như
chẳng dành thời gian cho con bé. Pamela cần anh. Nó cần nhiều hơn một bảo mẫu.

Con bé không chỉ có một bảo mẫu. Nó có một gia sư.

Fleur.

Anh đã quên mất cô ta sau khi xoa dịu lương tâm bằng việc
cho cô ta một công việc. Và Houghton đã khẳng định với anh là cô ta dường như
có đủ tư chất của một gia sư. Houghton đã phỏng vấn cô ta rất kĩ.

Anh không muốn nghĩ tới cô ta. Anh không muốn gặp lại cô ta.
Anh không muốn nhớ lại. Anh chỉ phản bội Sybil một lần duy nhất đó, dù khó mà
gọi thế là ngoại tình.

Sao anh lại gửi Fleur về Willoughby? Anh có những điền trang khác. Anh
có thể để cô làm người hầu ở một trong các điền trang đó.

Tại sao lại là Willoughby
chứ? Cùng một mái nhà với vợ mình. Với mình. Và dạy dỗ con gái.

Một ả điếm dạy dỗ Pamela.

“Đủ rồi, đồ chết tiệt,” anh mở mắt. “Cậu định làm tôi ngủ
gật luôn à?”

“Tôi định làm thế, thưa ngài,” Sidney cười phấn khởi. “Khi ngủ thì tâm trạng
của ngài ít khó chịu hơn, thưa đức ngài.”

“Đồ láo xược,” công tước ngồi dậy và lại dụi mắt. “Mặc đồ
cưỡi ngựa cho ta.”

***

Fleur chẳng gặp học trò mới lẫn nữ công tước trong ngày cô
đến lâu đài Willoughby.
Hình như họ ra ngoài thăm viếng suốt chiều, mang theo cả bà bảo mẫu.

“Bà Clement là bảo mẫu của tiểu thư từ bé,” bà Laycock giải
thích. “Họ rất gần gũi. Tôi e là bà ấy cũng sẽ khó chịu với cô như bà chủ. Cô
phải ghi nhớ trong đầu rằng đức ngài mới là người trả lương cho mình.” Bà nhấn
mạnh, vì vậy Fleur có ấn tượng rằng cô không phải gia nhân duy nhất phải khắc
ghi điều ấy.

Đức ngài, hình như, không có ở nhà. Có vẻ công tước ở London trong Mùa Lễ Hội
nếu ngài Houghton đã phỏng vấn cô là thư ký riêng của ngài ấy. Bà Laycock không
biết khi nào đức ngài về.

“Thế nhưng đức ngài sẽ về ngay thôi, chắc chắn đấy, chỉ cần
nghe phong thanh được rằng bà chủ sắp tổ chức tiệc, một bữa tiệc khiêu vũ hoành
tráng.” Giọng bà quản gia có vẻ không tán thành, dù bà chẳng nói thêm lời nào
về chủ đề đó. Nhân tiện nữ công tước đi vắng nên bà quản gia dẫn Fleur đi một
vòng xem các tầng trên.

Tòa nhà tráng lệ và đồ sộ khiến Fleur chỉ biết đi theo sau
lưng bà Laycock, nhìn với vẻ kính sợ và chẳng thốt nên lời nào. Các phòng sinh
hoạt chung, phòng riêng của gia đình và phòng làm việc nằm ở tầng piano nobile,
phòng học, phòng bảo mẫu và khu gia nhân ở tầng trên. Fleur đã thấy phòng mình,
nhỏ, gọn gàng, sáng sủa và thoáng mát, ngay sát phòng học. Nó trông ra bãi cỏ
và rặng cây, và giống như một thiên đường nếu so với căn phòng của cô ở London.

Chuyến tham quan lâu đài bắt đầu từ phòng vũ hội lớn có mái
vòm ở mặt trước nhà với những cửa thông gió và lấy sáng ở trên cao, ngay phía
dưới mái vòm được vẽ những thiên thần đang bay vút lên. Tranh được treo thành
hình tròn phía dưới các cửa thông gió.

“Trong những bữa tiệc lớn thì ban nhạc ngồi đằng kia,” bà
quản gia giải thích. “Mỗi khi có vũ hội thì cửa phòng tranh và phòng khách được
mở thông để làm phòng khiêu vũ và dạo chơi. Cô sẽ thấy tận mắt nếu đúng hôm tổ
chức tiệc của bà chủ trời mưa. Bữa tiệc tổ chức ngoài trời gần hồ nước và chúng
ta sẽ được mời, cô Hamilton.
Nhưng tất nhiên sẽ vào trong nhà nếu thời tiết không cho phép.”

Fleur nhìn lên và cố mường tượng chỗ ban nhạc ngồi và âm
nhạc vang khắp gian phòng. Cô tưởng tượng đám đông mặc trang phục đẹp đẽ, vui
vẻ, tươi cười và khiêu vũ. Và cô chợt mỉm cười. Ôi, cô sẽ rất hạnh phúc. Dù bà
Laycock đã ám chỉ về nữ công tước và bà bảo mẫu, nhưng cô sẽ hạnh phúc. Sao lại
không chứ? Cô đã đứng bên bờ vực, nhưng mọi chuyện đã qua rồi.

Gian phòng tranh chạy dài nguyên một chái, dọc mặt trước
nhà, phía bên kia là những cửa sổ dài, cùng tượng bán thân La Mã cổ đại đặt
trong các hốc tường. Khung tò vò thạch cao và trần nhà tạo một ấn tượng vô cùng
tráng lệ. Bức tường dài đối diện cửa sổ treo những bức chân dung có khung mạ
vàng.

“Ông bà tổ tiên của đức ngài đấy. Chỉ có ông chủ mới biết
hết tất cả. Chẳng có gì ở Willoughby
mà ngài ấy không biết.”

Fleur nhận ra một bức tranh của Holbein, một bức của Van
Dyck, một bức của Reynold. Cô nghĩ thật tuyệt khi có hình ảnh của ông bà tổ
tiên từ đời này sang đời khác. Bà Laycock nói rằng công tước Ridgeway thuộc đời
thứ tám.

“Tất cả chúng tôi đều chờ đợi người thừa kế,” bà ta nói,
giọng không mấy tự nhiên, “nhưng mãi mà chỉ có mỗi tiểu thư Pamela.”

Phòng làm việc và hầu hết phòng dành cho khách nằm ở phía
bên kia phòng tranh, nhưng Fleur không được dẫn qua đó.

Phòng khiêu vũ khổng lồ nằm ngay trục trung tâm phía sau
sảnh, cao hai tầng với những tấm nhung đỏ thẫm treo trên tường, bàn ghế xếp gọn
quanh rìa phòng được phủ lại. Cạnh cửa, gờ và mặt lò sưởi được mạ vàng, trần
nhà được vẽ những trận chiến thiên thần mà bà Laycock không hề biết. Các tấm
tranh phong cảnh lớn lồng trong khung kính treo trên tường.

Phòng ăn, phòng khách, thư viện, các phòng khác và khu vực
riêng của gia đình nằm ở chái bên kia, đối xứng với khu trưng bày tranh.

Fleur bị tất cả làm choáng ngợp. Cô lớn lên trong một tòa
nhà uy nghi. Cha cô thật sự là chủ sở hữu cho đến khi cả cha và mẹ bị chết cháy
trong một quán trọ nhỏ khi cô lên tám. Cả tòa nhà và tước hiệu được chuyển sang
cho em họ ông, cha Matthew - người bảo trợ của cô. Cô được ông đối xử tuy tử tế
nhưng thờ ơ, bị vợ và con gái ông căm ghét, còn Matthew thì lờ đi mãi cho đến
vài năm gần đây.

Nhưng Heron là một trong rất nhiều điền trang nhỏ của nước
Anh. Lâu đài Willoughby
rõ ràng là khác hoàn toàn. Và dù nuối tiếc vì phải từ bỏ giấc mơ trang viên ấm
cúng với gia đình nhỏ, cô vẫn cảm thấy vô cùng hào hứng. Cô sắp sống trong một
lâu đài nguy nga lộng lẫy. Cô sẽ là một phần của lối sống tất bật, chịu trách
nhiệm dạy dỗ cô con gái nhỏ của vợ chồng công tước.

Nói cho cùng thì dường như cô thật may mắn. Có lẽ cô sắp
được liếc qua thiên đường để cân bằng với tất cả những gì đã trải qua.

“Tôi định dẫn cô đi dạo vườn hoa, nhưng có vẻ cô mệt lử rồi,
cô Hamilton. Cô
phải lên lầu và nghỉ một lát đi. Có lẽ nữ công tước sẽ gặp cô sau và có khi cô
sẽ đợi để làm quen với tiểu thư Pamela.”

Fleur vui mừng lánh về phòng mình. Cô đang bị tất cả làm cho
choáng ngợp - bởi những sự cố hai tháng trước đây, bởi công việc cực kì may mắn
này sau cả tuần không đến trung tâm môi giới, và cũng bởi đột nhiên khám phá ra
công việc không đơn giản như mình nghĩ. Chuyến đi thật dài và mệt mỏi.

Và sáng hôm đó cô cất được một mối lo nặng nề - cô không có
thai.

Lúc ngồi trên cửa sổ phòng mình tận hưởng khung cảnh yên
bình ở bên ngoài và cơn gió nhẹ khẽ đung đưa rèm cửa vờn qua má, cô nghĩ mình
hạnh phúc hơn những gì cô đã tưởng tại thời điểm hai tháng trước nhiều.

Cô có thể bị treo cổ. Cô vẫn có khả năng bị treo cổ. Nhưng
cô sẽ không nghĩ đến nó. Hôm nay là khởi đầu cho cuộc đời mới, và cô sẽ hạnh
phúc hơn bất cứ lúc nào trong đời - kể từ năm lên tám.

Cô thay đồ, vắt gọn qua lưng ghế, chỉ mặc mỗi áo lót và nằm
xuống giường. Thật khác xa căn phòng trọ ở London, cô lại nghĩ lúc nhìn lên tấm ri đô
bằng lụa treo ở trên cao, nhìn sự sạch sẽ, ngăn nắp và yên tĩnh xung quanh
mình. Cô chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng chim kêu chiêm chiếp ở xa xa.

Cô nhắm mắt và lơ mơ ngủ trên chiếc bè hạnh phúc. Và lại
thấy anh ta - khuôn mặt ngăm ngăm, góc cạnh và khắc nghiệt, vết sẹo lồi kéo dài
từ khóe mắt xuống cằm, đang cúi xuống cô, đôi mắt đen nhìn thẳng vào cô.

Tay anh ta đặt trên người
cô, đầu tiên là giữa đùi và nơi sâu kín nhất, rồi dưới mông cô. Một phần cơ thể
nóng - đỏ của anh ta dò dẫm và tàn nhẫn vào sâu trong cô. Cô có thể cảm thấy nó
như xé cô ra thành từng mảnh nhỏ.

“Điếm,” anh ta nói với cô. “Đừng bao giờ nghĩ đến việc rũ bỏ
tên gọi đó. Giờ cô là điếm và sẽ là thế suốt phần đời còn lại, dù cô có chạy xa
và nhanh cỡ nào.”

“Không.” Cô lắc đầu từ phía bên này sang bên kia giường,
chân bám sàn nhà chắc hơn, cố thoát khỏi đôi tay chắc khỏe của anh ta để ngăn
anh ta đẩy sâu vào trong. “Không.”

“Đây không phải là cưỡng bức. Cô tự nguyện bán thân cho ta.
Và cô sẽ nhận tiền của ta.”

“Vì tôi sắp chết đói,” cô nài xin anh ta. “Vì tôi chẳng ăn
gì hai ngày nay. Vì tôi phải tiếp tục sống.”

“Điếm,” anh ta khẽ nói. “Là vì cô thích thế. Cô thích đúng
không?”

“Không.” Cô quằn quại để thoát khỏi đôi tay chắc khỏe đang
giữ lấy cô trong khi anh ta tìm kiếm lạc thú trên cơ thể cô. “Không.”

Không. Không. Cô chẳng còn lại gì. Không phẩm giá. Không
riêng tư. Không nhân dạng. Không có quần áo. Đầu gối anh ta giữ cô rộng ra và
bắp đùi anh ta đầy cơ bắp. Xâm chiếm nơi nữ tính của cô. Không.

Không. Không. Không.

Cô đang ngồi trên giường, đầm đìa mồ hôi, run rẩy. Giấc mơ
quen thuộc. Giấc mơ ám ảnh cô hằng đêm. Cô đã nghĩ khuôn mặt chết chóc của
Hobson sẽ xuất hiện khi cô rơi vào trạng thái vô thức, nhưng không phải vậy.
Chính người đàn ông có vết sẹo gớm ghiếc mới ám ảnh cô, lấy đi tài sản duy nhất
mà cô đã trao - hay bán.

Fleur mệt mỏi rời khỏi giường và đứng trước cửa sổ để tỉnh
táo. Cô sẽ không bao giờ quên anh ta sao? Hình ảnh anh ta ư? Cảm giác về anh ta
chăng?

Anh ta đã thực sự nói những lời đó với cô sao? Cô không nhớ
nữa. Nhưng nét mặt và cơ thể anh ta đã thể hiện ngay cả khi anh ta không thốt
ra lời nào.

Cô nghĩ chắc trên đời chẳng còn có người đàn ông nào xấu xí
và xấu xa hơn. Và kí ức nhắc nhở cô rằng anh ta đã mua đồ ăn và khăng khăng bắt
cô ăn. Anh ta đã trả cho cô gấp ba lần số tiền cô đề nghị bên ngoài nhà hát.
Anh ta chỉ làm những gì mà cô tự nguyện chấp thuận.

Và anh ta đã đưa cho cô chiếc khăn để lau sạch chỗ máu và
giảm đau.

Cô úp tay lên mặt. Cô phải quên đi. Cô phải chấp nhận món
quà cuộc sống mới mà lòng nhân từ đã đem đến.

***

“Đẹp lắm, con yêu,” nữ công tước Ridgeway cúi xuống hôn lên
má con gái và vui vẻ nhìn lướt qua bức tranh mà đứa trẻ đang giữ để cô ngắm.
“Vú à, chắc chắn ta sẽ gặp cô ta. Phải cho cô ta biết rõ là cô ta phải nghe lời
vú và không được ép Pamela làm việc con bé không thích.”

“Thưa phu nhân, sáng nay cô ta mong được gặp tiểu thư,” bà
bảo mẫu lên tiếng. “Tôi đã giải thích với cô ta là tiểu thư Pamela muốn được
yên tĩnh trong phòng trẻ suốt buổi sáng.”

“Hôm nay con phải gặp gia sư sao Mama?” Đứa trẻ hỏi ngay.
“Papa gửi cô ta đến phải không?”

“Anh ta làm thế để chọc tức ta đúng không?” nữ công tước nói
với bảo mẫu. “Ắt hẳn anh ta đã nghe được kế hoạch của ta và trả thù bằng cách
gửi cho con gái ả gia sư nhạt nhẽo. Nhưng ta có quyền có bạn bè đúng không?
Cũng như anh ta. Anh ta tận hưởng Mùa Lễ Hội ở London. Anh ta nghĩ ta sẽ sống cô độc và buồn
tẻ ở đây sao? Anh ta không nghĩ là ta cũng cần bạn để xua đi nổi buồn chán vô
tận này sao?” Nữ công tước ho khan và với lấy khăn tay.

“Hôm qua tôi đã bảo cô mặc áo choàng lông rồi, cưng,” bảo
mẫu rầy, “dù trời nắng nhưng mới là đầu xuân thôi. Cô sẽ không hết cảm lạnh đâu
nếu không chăm sóc mình.”

“Không cần quan trọng hóa lên đâu vú,” nữ công tước gắt
gỏng. “Ta bị ho từ mùa đông dù đã luôn mặc ấm như lời vú. Vú có nghĩ anh ta sẽ
quay về nhà nếu biết kế hoạch của ta không?”

“Tôi chắc chắn anh ta sẽ về, cưng ạ. Lúc nào chẳng thế.”

“Anh ta không thích ta có bạn bè hay vui vẻ. Ta ghét anh ta,
vú ơi. Ghét cay ghét đắng.”

“Suỵt. Nào cưng, không nói thế trước mặt tiểu thư Pamela.”

Nữ công tước nhìn đứa trẻ và chạm vào lọn tóc đen xoăn mềm
mại. “Vậy thì dẫn cô Hamilton
đó đến phòng khách cho ta. Vú, Adam có thể là người thuê cô ta, nhưng cô ta
phải hiểu rõ là cô ta sẽ phải nghe lời ta. Rốt cuộc, Adam...”

“Im nào cưng,” Bà bảo mẫu kiên quyết.

Nữ công tước lại hôn lên má đứa trẻ và ra khỏi phòng, áo
choàng mặc buổi sáng bay phất phơ phía sau.

Cô bé buồn bã nhìn theo dáng mẹ. “Vú có nghĩ mẹ thích bức
tranh của con không?”

“Ta chắc là có, con yêu.” Bảo mẫu cúi xuống ôm cô bé. “Mama
yêu con và mọi thứ con làm.”

“Và Papa sẽ thích nó chứ? Papa sắp về rồi phải không?”

“Chúng ta sẽ cất giữ bức tranh cẩn thận cho đến khi cha con
về,” bà Clement trả lời.

***

Khi Fleur được dẫn vào phòng khách của nữ công tước, vẫn
chưa có ai ở đó. Cô đứng yên phía trong cửa và chờ đợi, hai tay đan ra trước.
Đó là một căn phòng nhỏ nhưng cực kì thanh nhã. Căn phòng hình ovan, trần nhà
hình mái vòm được vẽ tranh và các cột trụ kiểu thành Corinth được mạ vàng.

Những pano trang trí phía trên nền nhà màu ngà được sơn đỏ
thẫm, xanh lục, hồng và vàng lá làm tường trông thật thanh nhã và nữ tính.

Cô không phải chờ lâu. Cánh cửa ở phía bên kia phòng mở ra
và một phu nhân nhỏ nhắn, xinh đẹp trong chiếc váy muslin màu xanh dương thanh
nhã, mái tóc xoăn vàng được buộc lại, lòa xòa vài lọn trước mặt bước vào. Nữ
công tước đẹp tuyệt trần và trông trẻ hơn tuổi hai ba.

“Cô là Hamilton?”

Fleur khẽ nhún gối chào. “Chào phu nhân.”

Cô thấy mình bị đôi mắt xanh của nữ công tước quan sát từ
đầu đến chân.

“Chồng ta gửi cô đến đây làm gia sư cho con gái ta à?” Giọng
nói ngọt ngào, lạnh lẽo.

Fleur gật đầu.

“Cô có thấy là mới năm tuổi thì con bé chưa cần phải học
hành gì không?”

“Nhưng có rất nhiều điều một đứa trẻ nhỏ có thể học được mà
không cần phải ôm sách suốt cả ngày, thưa phu nhân.”

Nữ công tước hất cằm lên “Cô dám cãi lời ta sao?” Cả giọng
nói và vẻ mặt bà chủ đều lịch sự, nhưng lời nói thì không phải vậy.

Fleur im lặng.

“Chồng ta gửi cô về đây. Mối quan hệ giữa cô với chồng ta là
gì?”

Fleur đỏ mặt. “Tôi chưa gặp đức ngài. Ngài Houghton phỏng
vấn tôi tại một trung tâm môi giới việc làm.”

Nữ công tước lại nhìn từ đầu xuống chân cô lần nữa. “Ngươi
sẽ biết là ta và chồng bất đồng trong vấn đề học hành của con gái. Nó còn bé và
đứa trẻ nhạy cảm ấy chỉ cần tình yêu của mẹ và sự chăm sóc của bảo mẫu. Cô
Hamilton, cô sẽ không được phép nhồi nhét vào đầu nó những thứ không cần thiết,
và cô phải tuân lệnh bà Clement, bảo mẫu của Pamela. Cô sẽ chỉ là một người hầu
của ngôi nhà này và ở trong phòng mình hoặc khu gia nhân những lúc không đến
phòng học. Ta không muốn nhìn thấy cô trong khu vực này của lâu đài trừ khi ta
gọi đến. Cô hiểu rõ rồi chứ?”

Những lời đó được thốt ra bằng giọng thân thiện, rõ ràng
trong khi đôi mắt xanh trên khuôn mặt xinh đẹp, yếu đuối mở to nhìn cô. Một
người mẹ lo sợ con mình bị cướp mất tuổi thơ, Fleur nghĩ với sự thông cảm dù từ
ngữ thật hống hách, độc đoán.

“Vâng, thưa phu nhân.”

“Giờ cô có thể lui và dành nửa tiếng với con gái ta dưới sự
giám sát của bà Clement.”

Nhưng khi Fleur quay người định đi, bà chủ lại nói tiếp.

“Cô Hamilton, ta hài lòng với trang phục và kiểu tóc của cô
sáng nay. Ta tin rằng cô sẽ luôn ăn mặc theo kiểu mà ta đã ưng thuận.”

Fleur lại gật đầu và ra khỏi phòng. Cô đang mặc bộ váy bằng
sợi màu xám giản dị cổ viền đăng ten màu trắng mà cô mới mua, tóc được chải ra
sau và búi gọn sau gáy. Cô nghĩ mình đã hoàn toàn làm nữ công tước hài lòng.

Liệu công tước có phải là loại người đi quấy rối người hầu
trẻ không? Tại sao phu nhân lại hỏi về mối quan hệ ở London của cô với ông chủ? Cô rất mong công
tước sẽ ở thành phố thật lâu.

Cô nghĩ lại, với chút ớn lạnh, về những từ ngữ và thái độ
cảnh cáo của nữ công tước, biết rằng cả cô ấy lẫn bà Clement đều không thích sự
hiện diện của cô. Và cô không oán trách. Cả hai sẽ công khai thể hiện thái độ
thù địch với cô. Chắc chắn họ sẽ lảng vảng xung quanh khi nhận ra cô không định
đứng bên tiểu thư Pamela với cây gậy suốt ngày trong phòng học ngột ngạt.

***

Snedburg kết thúc một ngày làm việc dài. Gã ta ngồi thoải
mái trong một phòng khách trên đường St. Jame, thậm chí còn nhận một cốc rượu
poocto.

“Cảm ơn ngài,” gã nhận ly rượu từ tay khách hàng. “Chân nhức
vì đi nhiều, còn họng thì khô khốc bởi phải hỏi quá nhiều câu. Đúng, quả đúng
là Fleur Hamilton. Ngài sẽ không nói là quá nhiều sự trùng hợp với quý cô đó
chứ? Và diện mạo vừa khớp.”

Sneburg không nói thêm về hai người cung cấp tin, cô Fleming
và bà chủ nhà trọ, đã mô tả Fleur Hamilton trông rất bình thường với mái tóc đỏ
cũng hết sức bình thường. Gã biết khách hàng của mình say mê cô chị họ dù cô ta
là kẻ giết người và trộm cắp. Chẳng nên trách đàn ông khi đã chết mê chết mệt
thì thường thi vị hóa lên. Nắng và hoàng hôn pha quyện với nhau, vậy sao? Chừng
đó thôi cũng đủ khiến gã muốn nốc hết chỗ rượu này.

“Sao nữa?” Lord Brocklehurst vừa đưa ly rượu poocto lên
miệng vừa quan sát gã. Dù khá có tiếng tăm trong nghề, nhưng gã phải mất cả
tuần mới có được thông tin đầu tiên.

“Và cô ta được thuê làm gia sư cho con gái của ngài Kent ở
Dorsetshire, bởi...” - gã thám tử dừng lại để tăng thêm tác động - “một quý ông
đã đợi suốt bốn ngày trời tại trung tâm môi giới chỉ để tìm cô ta, cô Fleur tóc
đỏ. Cô ta đã đi đến đó rồi.”

Lord Brocklehurst cau mày. Ly rượu chưa đưa đến miệng dừng
lại giữa chừng.

“Không thể có nhiều ngài Kent ở Dorsetshire,” gà thám tử nói
tiếp. “Tôi sẽ tập trung vào điểm này và xem xem liệu chúng ta có thể tìm được
bóng dáng người này trên bản đồ không, thưa ngài.”

Lord Brocklehurst vừa nhấp một hớp rượu, vừa suy tư, “Kent à? Chắc
không phải là Ridgeway Kent
chứ?”

“Có phải là gã liều mạng của Ridgeway không?” Gã thám tử đưa
một tay lên xoa gáy. “Anh ta họ Kent
à?”

“Tôi biết anh cùng cha khác mẹ của anh ta,” Lord
Brocklehurst giải thích. “Họ sống ở Dorset.
Lâu đài Willoughby.”

Snedburg ngoáy tay bằng ngón út. “Tôi sẽ xem mình có thể tìm
được gì với thông tin này thưa ngài. Tôi hứa sẽ đuổi theo dù cô ta có đi đến
chân trời góc bể.”

“Fleur,” Brocklehurst nhìn chằm chằm vào chỗ rượu đang xoáy
lại trong ly. “Lúc nhỏ cô ta thường nổi điên lên vì cha mẹ tôi không gọi thế.
Hình như đó là tên cha mẹ cô ta thường gọi cho đến khi họ mất. Tôi đã quên
mất.”

“Đúng, được rồi, ngài nói đúng,” gã thám tử uống hết chỗ
rượu trong ly và đứng dậy. “Tôi sẽ xem mình có thể tìm được gì về người chủ và
cô gia sư.”

“Tôi muốn tìm ra cô ta sớm.” Lord Brocklehurst nói.

“Sớm thôi, hoặc sớm hơn. Tôi hứa, thưa ngài.”

“Ừm, ngài vốn được giới thiệu là người giỏi nhất. Dù phải
mất rất nhiều thời gian ngài mới tìm ra manh mối.”

Người kia chọn không trả lời cả lời khen lẫn chê trách. Gã
chào theo kiểu nhà binh và nhanh chóng ra khỏi phòng.

Báo cáo nội dung xấu