Pháp sư - Bí mật của Nicholas Flamel bất tử - Chương 16 - 17

CHƯƠNG 16

 “Dừng
lại”Nicholas Flamel cứ chạy, rẽ phải, lao xuống bến Quai Branly. “Dừng lại, nếu
không tôi bắn!”

Flamel biết cảnh sát sẽ không bắn—họ không thể. Machiavelli
không muốn ông ta suy suyễn gì.

Tiếng nện của giày da trên mặt đường bê tông và tiếng leng
keng của vũ khí giờ đã gần sát, và ông ta có thể nghe cả tiếng thở của những
người rượt đuổi. Tiếng thở của Nicholas bắt đầu thở hổn hển nặng nề, và một cơn
nhói lên ở bên hông ngay dưới bên cạnh sườn. Công thức trong cuốn Codex giữ ông
ta sống và khỏe mạnh, nhưng không có cách gì giúp ông ta có thể vượt được viên
cảnh sát này rõ ràng là đang sung sức và được đào tạo cao cấp.

Nicholas Flamel dừng lại đột ngột đến mỗi viên đội trưởng
cảnh sát gần như đâm sầm vào ông. Đứng yên, nhà giả kim quay đầu ngoái nhìn ra
đằng sau mình. Viên cảnh sát rút khẩu súng đen xấu xí và giữ chặt nó bằng cả
hai tay.

“Đứng yên. Giơ tay lên.”

<span>Nicholas chầm chậm quay người đối mặt với viên
cảnh sát.

 “Rồi, quyết định đi, rồi sao nữa?”

 ông ta dữ dằn

Đằng sau cặp kính bảo hộ, người đàn ông chớp mắt nhìn ông
đầy ngạc nhiên.

“Tôi có đứng yên không? Hay là tôi có giơ tay lên không?”

Viên cảnh sát ra hiệu bằng báng súng và Flamel giơ tay lên.
Năm nhân viên RAID nữa chạy đến. Họ vừa chĩa đủ loại vũ khí vào nhà giả kim vừa
dàn thành một hàng dài cạnh viên đội trưởng của họ. Vẫn giữ hai tay giơ lên
trời, Nicholas chầm chậm quay đầu nhìn lần lượt từng người trong họ. Mặc đồng
phục đen, mũ bảo hiểm, mũ trùm kín đầu cổ và đeo cặp kính bảo hộ, trông họ như
những con côn trùng.

“Nằm xuống đất. Nằm đi, nằm ngay đi!”

 viên đội trưởng ra lệnh.

 “Đưa tay lên trời.”

Nicholas chậm chạp khuỵu gối xuống.

“Giờ thì nằm xuống! Úp mặt xuống!”

Nhà giả kim nằm bẹp trên đường phố Paris, cằm ông chạm vào
lề đường mát lạnh, đầy sạn.

“Giang cánh tay rộng ra”

Nicholas giang rộng tay. Các viên cảnh sát đổi vị trí, nhanh
chóng vây tròn quanh ông, nhưng họ vẫn giữ khoảng cách.

“Chúng tôi đã bắt được ông ấy.”

 Viên đội trưở nói vào micro đặt ngay trước môi anh ta.

 “Thưa ngài, không ạ. Chúng tôi không chạm vào ông ấy.
Vâng thưa ngài. Ngay lập tức”

Nicholas ước gì Perenelle ở đây với ông giờ này; cô ấy sẽ
biết phải làm gì. Nhưng nếu nữ phù thủy ở với ông thì ông đã không rơi vào tình
trạng lộn xộn ngay từ nơi đầu tiên. Perenelle là một chiến binh. Bà thường giục
ông đừng chạy, để sử dụng kiến thức về giả kim của ông cùng với thuật phù thủy
và ma thuật của bà cả nữa thiên niên kỉ mà chiến đấu với các Elder đen tối như
thế nào? Bà muốn ông quy tụ những người bất tử, những Elder và thế hệ kế tiếp
hỗ trợ loài người và tiến hành một cuộc chiến tranh chống lại các Elder đen
tối, Dee và đòng loại của hắn. Nhưng ông đã không thể; cả đời mình ông đã chờ
cặp sinh đôi được tiên báo trong cuốn Codex.

“Hai là một, một
là tất cả.”

Trong đầu ông
không có chút nghi ngờ nào là ông sẽ khám phá ra cặp sinh đôi. Những lời tiên
tri trong cuốn Codex không bao giờ sai, nhưng như mọi cuốn sách khác, những lời
của Braham không bao giờ rõ ràng và được viết bằng một loại chữ cổ hay ngôn ngữ
đã bị quên lãng.

           
Hai là một, một là tất cả.

           
Sẽ đến lúc cuốn sách bị lấy đi

           
Và nữ hoàng của ngươi sẽ liên minh với Quạ

           
Rồi Elder sẽ bước ra khỏi b>

           
Và người bất tử phải huấn luyện người không bất tử

           
Hai là một phải trở thành một là tất cả

Và Nicholas biết—không gợn chút bóng nghi ngờ—rằng là ông là
người bất tử được nói đến trong lời tiên tri: người đàn ông với bàn tay khoằm
đã nói với ông như vậy.

Nửa thiên niên kỉ trước, Nicholas và Perenelle Flamel đã đi
khắp Châu Âu để cố hiểu cuốn sách bí ẩn có bìa và gáy đóng bằng kim loại kia.
Cuối cùng ở Tây Ban Nha, họ gặp được người đàn ông, một tay bí ẩn đã giúp họ
diễn dịch những phần thay đổi không ngừng trong văn bản. Người đàn ông một tay
đó tiết lộ rằng bí mật của cuộc sống vĩnh cửu luôn luôn xuất hiện trên trang số
bảy của cuốn Codex vào ngày trăng tròn, trong khi công thức có thể biến đổi, để
thay đổi thành phần cấu tạo của các chất liệu bất kì lại chỉ xuất hiện trên trang
mười bốn. Khi người đàn ông một tay diễn dịch lời tiên tri thứ nhất, ông ta đã
nhìn vào Nicholas bằng đôi mắt đen như than và đưa tay vỗ vào ngực ông bạn
người Pháp bằng bàn tay trái có hình móc câu của ông ta.

“Nhà giả kim, đây là số phận của ông,”

 ông ta thì thầm.

Những lời huyền bí sẽ cho rằng một ngày kia Flamel sẽ tìm
thấy cặp sinh đôi… lời tiên tri không hé lộ ra rằng ông sẽ phải nằm giang người
trên đường phố Paris dơ bẩn và những viên cảnh sát dung mảnh trang bị đầy vũ
khí vây quanh.

Flamel nhắm mắt
và hacute;t thở sâu. Đè những ngón tay xòe xuống mặt đá, miễn cưỡng kéo dòng
điện của mình lên. Sợi tơ nhện năng lượng màu xanh chuối mỏng dính rỉ ra khỏi
đầu ngón ông thấm vào thấm vào đá. Nicholas cảm thấy luồng năng lượng điện xoay
tít của ông cuộn xoáy xoay qua lề đường, rồi thấm xuống lòng đất bên dưới.
Những sợi mảnh như tóc uốn éo xuyên mặt đất, nhìn ngó… mò mẫm… và rồi, cuối
cùng, thấy những gì ông đang tìm kiếm: một khối sinh vật sống đông đúc lúc nhúc
đang sôi sục. Rồi một biến đổi đơn giản được sử dụng, lý thuyết căn bản của
thuật giả kim, tạo ra đường glucoza và fructoza rồi kết hợp chúng với nhau bằng
liên kết glucozit để tạo thành đường mía. Sự sống khuấy trộn, biến đổi thành sự
ngọt ngào.

Viên đội trưởng
cảnh sát cất cao giọng.

 “Giữ ông ta
lại. Lục soát ông ta.”

Nicholas nghe
tiếng chân đến gần của hai viên cảnh sát, mỗi người một bên. Ngay trước mặt
ông, ông thấy đôi bốt bằng da đen có đế giày bóng loáng oai phong.

Và rồi, bị phóng
lớn do khoảng cách quá gần ngay mặt ông, Nicholas nhận ra những con kiến. Nó
bất ngờ xuất hiện khỏi vết nứt ở lề đường, cặp râu vẫy vẫy. Theo sau nó là con
thứ hai, rồi con thứ ba.

Nhà Giả kim lấy
hai ngón tay cái đè mạnh lên ngón thứ ba trong mỗi bàn tay và bật những ngón
tay kêu tanh tách. Những đốm lửa nhỏ xíu mùi bạc hà màu vàng chanh xoay tròn
trong không khí, bao phủ sáu nhân viên cảnh sát bằng những hạt năng lượng vô
cùng nhỏ.

Rồi ông biến
những hạt ấy thành đường

Đột nhiên, lề
đường quanh Flamel hóa đen. Một đống kiến nhỏ xíu nhô lên từ dưới con đường,
tràn lên khỏi các khe nứt trong đá. Như một thứ si-rô ngọt dày đặc, chúng lan
khắp vệ đường, chảy lên những đôi dày bốt trước khi thình lình cuộn lên quanh
chân các nhân viên cảnh sát, bao phủ họ bằng một đàn côn trùng dày đặc. Trong
chốc lát những người đàn ông bị choáng váng đến bất động. Quần áo và găng tay
vẫn còn bảo vệ họ thêm một chút nữa, rồi thì một người giật nảy lên, đến một
người khác, và lại một người khác vì đàn kiến đã tìm được những khe hở nhỏ nhất
trong quần áo của họ và lao vào bên trong, cù vào chân, cắn vào miệng. Những
người đàn ông bắt đầu co giật, uốn éo, quay lòng vòng, vỗ đập vào nhau, quăng
ném vũ khí của họ đi, tháo găng tay ra, giật tung nón bảo hiểm, hất mắt kiếng
bảo vệ và nón trùm đầu tới ngang cổ trong khi hàng ngàn con kiến bò nhung nhúc
khắp người họ.

Viên đội trưởng
vừa nhìn chăm chăm vào người tù binh của họ—lớp mền kiến dày nặng nề hoàn toàn
chưa đụng chạm gì đến ông—vừa ngồi dậy và khó chịu phủi mình trước khi guồng
chân đứng lên. Viên đội trưởng cố chĩa súng vào người đàn ông, nhưng kiến đã
bám lấy cổ tay anh ta, cù vào lòng bàn tay, cắn vào da thịt, và anh ta không
sao giữ chắc được vũ khí. Anh ta muốn ra lệnh cho mọi người ngồi xuống, nhưng
có những con kiến bò lúc nhúc trên môi, và anh ta biết nếu mở miệng chúng sẽ chui
tọt vào bên trong. Vươn tay lên, gạt cái nón bảo hộ khỏi đầu, anh ta lột luôn
cái mũ trùm đầu tới ngang cổ và ném xuống đất, cong lưng lại vì bọn côn trùng
đã bò lúc nhúc dọc xương sống. Anh ta chà bàn tay lên đầu và cảm thấy đánh bật
được chục con kiến. Chúng rơi ngang qua mặt anh ta và anh ta nhắm nghiền mắt
lại. Khi anh ta mở mắt ra lại, người tù binh đang đi về phía ga xe lửa tại cầu
Alma, hai tay đút túi, ra vẻ như không màng gì đến thế sự.

CHƯƠNG 17

Josh cố mở mắt ra. Những chấm đen nhảy múa trước mắt,
và khi cậu đặt tay lên mặt, cậu có thể trông thấy thoáng một luồng điện vàng
ánh kim của riêng cậu vẫn còn rõ ràng quanh da thịt cậu. Đưa tay ra, cậu tìm
bàn tay chị gái cậu và nắm lấy nó. Cô siết nhẹ nhàng, và cậu quay sang nhìn đôi
mắt nhấp nháy của cô mở lớn.

“Chuyện gì vậy?”

 cậu lẩm bẩm, quá choáng và thậm chí chết lặng vì sợ.

Sophie lắc đầu.

 “Giống như một vụ nổ…”

“Em nghe Scathach hét lên,”

 cậu nói thêm.

“Và chị nghĩ chị còn thấy ai đó chạy ra khỏi nhà…,”

 cô thêm vào.

Cải hai quay người lại nhìn ngôi nhà phố. Scathach đang đứng
trước cửa, cánh tay cô ôm chầm một cô gái trẻ, giữ thật chặt, xoay tròn cô ấy
một vòng. Cả hai người con gái cười lớn và kêu ré lên mừng rỡ, la hét lên với
nhau bằng thứ tiếng Pháp liếng thoắng.

 “Em đoán họ quen nhau,”

 Josh nói trong lúc giúp chị cậu đứ

C&#7863;p sinh đôi quay nhìn Comte de Saint-Germain đang
đứng một bên, khoanh tay trước ngực, cười vui vẽ.

 “Họ là bạn cũ,”

 ông giải thích.

 “Đã lâu họ chưa gặp… rất lâu rồi.”

 Saint-Germain đằng hắng.

 “Joan,”

 ông ta lịch sự nói.

Hai cô gái rời nhau ra và cô gái mà ông ta gọi là Joan quay
lại nhìn Saint-Germain, đầu cô ấy nghiêng một góc nhìn giễu cợt. Không thể đoán
tuổi cô ấy được. Mặc chiếc quần jeans và áo thun trắng, cô cao khoảng Sophie,
mảnh mai một cách gần như không tự nhiên, làn da nâu sậm và hoàn hảo làm nổi
bật đôi mắt màu xám thật to. Mái tóc nâu vàng cắt kiểu con trai. Cô gạt những
giọt nước mắt trên gò má bằng một cử động lòng bàn tay thật nhanh.

 “Francis?”

 cô hỏi.

“Và đây là những vị khách của chúng ta.”

Vẫn nắm tay Scathach, cô gái trẻ bước lại gần Sophie hơn.
Khi cô gái đến gần, Sophie cảm thấy một sức ép bất ngờ trong bầu khí quanh họ,
như thể có một sức mạnh vô hình đang đẩy cô ra sau, và rồi, đột nhiên, luồng
điện bạc lấp lánh quanh cô và không khí tràn ngập mùi hương vanilla ngọt ngào.
Josh túm lấy cánh tay chị gái và luồng điện của cậu lốp bốp sáng lên, thêm mùi
hương cam tỏa quyện không khí.

“Sophie… Josh…,”

 Saint-Germain mở lời. Mùi thơm hoa oải hương ngọt
ngào, đậm đầy đặc khoảng sân khi một luồng điện bạc xì xèo lớn lên quanh cái
trẻ cắt tóc ngắn. Nó cứng lại và đông đặc, như kim loại và phản chiếu, tự đúc
thành giáp che ngực, giáp che ống chân, găng tay và giày bốt trước khi cuối
cùng đông cứng lại thành một bộ đồ chiến binh thời trung cổ hoàn hảo.

 “Xin giới thiệu vợ tôi, Joan…”

“Vợ ông!”

 Scatty kêu ré lên, choáng váng.

“…người mà các bạn—và lịch sử—gọi là Joan Arc.”

Bữa ăn sáng được dọn ra trên một chiếc bàn gỗ dài đánh
vec-ni đặt trong bếp. Không khí sực nức mùi bánh mì mới ra lò và cà-phê pha.
Những chiếc đĩa đầy ắp trái cây tươi, bánh kếp và bánh nướng, cùng với xúc xích
và trứng chiên trong chảo đặt trên bếp lò bằng sắt lỗi thời.

Dạ dày Josh bắt đầu sôi lên ngay khi cậu bước vào phòng và
nhìn thấy thức ăn. Miệng cậu đầy nước bọt, nhắc nhở cậu nay là đã rất lâu rồi
cậu chưa ăn. Cậu chỉ kịp uống một vài hớp sô-cô-la nóng ở tiệm cà-phê trước khi
cảnh sát đến.

“Ăn đi, ăn đi,”

 Saint-Germain nói, túm lấy một cái đĩa trong tay và
một cái bánh sừng trâu lớn bên tay kia. Ông ta cắn vào bột, làm rơi ra những
mảnh vỏ mỏng tang trên sàn lát gạch vuông.

 “Các bạn phải đói ngấu ra rồi chứ.”

Sophie tựa sát em
trai.

 “Em lấy cho
chị ít thức ăn được không? Chị muốn nói chuyện với Joan. Chần hỏi cô ấy vài
thứ.”

Josh liếc nhanh
cô gái trông khá trẻ đang kéo những chiếc tách ra khỏi máy rửa chén bát. Mái
tóc cắt ngắn làm người ta không thể đoán được tuổi của cô.

 “Chị có
nghĩ rằng cô ấy đích thực là Joan Arc không?”

Sophie siết cánh tay em mình.

 “Sau tất cả những gì chúng ta nhìn thấy, em nghĩ sao?”

 Cô gật đầu về phía bàn ăn.

 “Chị chỉ muốn trái cây và ngũ cốc.”

“Không xúc xích, không trứng?”

 cậu ngạc nhiên hỏi. Cô chị gái của cậu chính là người
duy nhất mà cậu biết có thể ăn nhiều xúc xích hơn cả cậu.

“Không,”

 cô cau mày, đôi mắt xanh nhòa đi.

 “Thật buồn cười, nhưng chỉ mới nghĩ đến việc ăn thịt
thôi đã làm chị muốn ói.”

 Cô chộp lấy một cái bánh nướng và quay đi trước khi
cậu có ý kiến gì, và tiến đến gần Joan đang rót cà phê vào một cái tách thủy
tinh cao. Cánh mũi Sophie nở ra.

 “Cà phê Kona của Hawaii?”

 cô hỏi.

Đôi mắt xám của Joan nhấp nháy đầy vẻ ngạc nhiên và cô cúi
đầu xuống.

 “Tôi thật ấn tượng.”

Sophie cười nhún vai.

 “Em làm việc trong một tiệm bán cà ph nhận biết mùi
Kona bất cứ nơi đâu.”

“Tôi yêu thích nó khi chúng tôi ở Hawaii,”

 Joan nói. Cô nói tiếng Anh pha một chút giọng Mỹ.

 “Tôi phải giữ nó bằng một phương pháp đặc biệt.”

“Em thích mùi; ghét vị. Đắng quá.”

Joan nhắp một chút cà phê.

 “Tôi cược là em không đến đây để bàn về cà phê đấy
chứ?”

Sophie lắc đầu.

 “Không, em không định vậy. Em chỉ…”

 cô ngừng lại. Cô chỉ vừa mới gặp người phụ nữ này,
song cô lại định hỏi cô ấy một câu vô cùng riêng tư.

 “Em có thể hỏi chị một chút được không?”

 cô nói nhanh.

“Bất cứ gì,”

 Joan nói một cách chân thành, và Sophie tin cô. Cô bé
hít hơi vào và lời cô tuôn ra gấp gáp.

“Có lần Scathach nói với em chị là người cuối cùng có luồng
điện bạc thuần khiết.”

“Đó là lý do tại sao luồng điện của em phản ứng lại với
luồng điện của tôi,”

 Joan nói, bọc cả hai bàn tay quanh chiếc tách và nhìn
chăm chăm vào cô gái qua vành tách.

 “Tôi xin lỗi. Luồng điệnàm luồng điện của em bị quá
tải. Tôi có thể dạy em làm sao để ngăn việc này không xảy ra nữa.”

 Cô mỉm cười, để lộ hàm răng trắng đều.

 “Dù cơ hội gặp một luồng điện bạc thuần khiết khác
trong đời em là mỏng manh đến mức khó tin được.”

Sophie hồi hộp gặm miếng bánh nướng nhân dâu dại.

 “Xin bỏ qua cho em, nhưng chị có phải đúng là ….đúng
là Joan Arc, chính là Joan Arc không ?”

“Đúng tôi đích thực là Joan d’Arc.”

Cô gái hơi cúi mình,

 “La Pucelle, Trinh nữ xứ Orleans, xin được phục vụ.”

“Nhưng em nghĩ… Ý em là, em luôn đọc thấy chị đã chết…”

Joan hạ đầu xuống và mỉm cười.

 “Scathach đã cứu tôi.”

Cô đưa cánh ra chạm vào Sophie, và ngay lập tức, những hình
ảnh lung linh nhảy múa trước mắt cô: Scathach trên lưng, một con ngựa đen khổng
lồ, mình mặc áo giáp trắng và đen, tay nắm hai thanh gươm sáng chói.

“Bóng tối đã một tay chiến đấu mở đường xuyên qua đám đông
tụ tập xem tôi bị hành quyết. Không ai có thể kháng cự lại cô. Trong sự hoảng
loạn, lộn xộn và rối loạn đó, cô chộp lấy tôi chạy thoát ngay trước mũi những
người hành hình tôi.”

Nhưng hình ảnh chớp lóa trong đầu Sophie: Joan, mặc quần áo
rách tả tơi và cháy xém, đang bám vào Scathach khi Nữ Chiến binh đang một tay
điều khiển con ngựa trong bộ áo giáp đen vượt qua đám đông hoảng loạn, những
thanh gươm sáng chói trong tay kia đang vạch đường cho họ đi.

“Tất nhiên, mọi người phải nói rằng họ nhìn thấy Joan chết,”

 Scatty nói, tham gia vào với họ, cẩn thận lạng mỏng
trái thơm thành những khoanh gọn gang bằng một con dao quắm. Không ai—cả người
Anh vẫn người Pháp muốn thừa nhận rằng Trinh nữ xứ Orleans đã bị bắt cóc mất
tiêu ngay trước mũi mình, có lẽ có đến năm trăm hiệp sĩ trang bị vũ khí hạng
nặng, đã được cứu bởi một nữ chiến binh đơn lẻ.”

Joan đưa tay lấy một miếng thơm từ những ngón tay của
Scathach và thảy nó vào miệng.

 “Scatty đưa tôi đến với Nicholas và Perenelle,”

 cô tiếp tục.

 “Họ đã cho tôi chỗ trú đã chăm sóc tôi. Tôi bị thương
trên đường trốn chạy và bị yếu đi trong nhiều tháng bị giam cầm. Nhưng dù có sự
quan tâm tốt nhất của Nicholas, tôi hẳn sẽ chết mất nếu không có Scatty.”

 Cô giơ tay và siết chặt tay cô bạn một lần nữa, dường
như không chú ý đến những giọt lệ rơi trên má mình.

“Joan mất nhiều máu lắm”

 Scathach nói.

 “Mặc những gì Nicholas và Perenelle làm, cô ấy vẫn
không khá hơn, vì thế Nicholas tiến hành một trong những việc truyền máu đầu
tiên chưa bao giờ có.”

“Máu của ai”

 Sophie bắt đầu hỏi, cho tới khi cô chợt nhận ra là cô
biết câu trả lời.

 “Máu của chị?”

“Máu ma cà rồng của Scathach đã cứu tôi. Và cũng giúp tôi
sống—đã làm tôi thành bất tử.”

 Joan cười toe. Sophie để ý thấy răng cô bình thường,
không nhọn như Scatty.

 “May thay không có phản ứng phụ của ma cà rồng. Dẫu
sao thì tôi là người ăn chay,”

 cô nói thêm.

 “Đã qua vài thế kỉ rồi.”

“Và cô đã lập gia đình,”

 Scathach nói như buộc tội.

 “Chuyện đó xảy ra hồi nào, và như thế nào, sao cô
không mời tôi?”

 cô hỏi dồn một hơi.

“Chúng tôi lấy nhau bốn năm trước tại bãi biển Hoàng hôn ở
Hawaii, tất nhiên là vào lúc mặt trời mọc. Chúng tôi đã tìm cô khắp nơi ngay
sau khi chúng tôi quyết định,”

 Joan nói nhanh.

 “Tôi thật sự muốn cô có ở đó; tôi muốn cô làm phù dâu
danh dự cho tôi.”

Đôi mắt xanh của Scatty nhíu lại, hồi tưởng.

 “Bốn năm trước…  tôi nghĩ tôi đã ở Nepal đang
truy đuôi tay lừa đảo Nee-gued. Một tên người tuyết kinh tởm,”

 cô nói thêm khi nhìn thấy Sophie và Joan ngây mắt ra
nhìn.

“Chúng tôi không có cách gì liên lạc với c Điện thoại di
động của cô không làm việc, thư điện tử bị trả lại báo rằng hộp thư của cô đầy
rồi.”

 Joan nắm tay Scathach.

 “Lại đây, tôi có máy cái hình có thể cho cô xem.”

 Cô quay lại Sophie.

 “bây giờ em nên ăn. Em phải bù lại phần năng lượng cô
đã đốt hết. Uống nhiều chất lỏng. Nước, nước ép trái cây, nhưng đừng uống thứ
chứa có cà-phê-in, không trà, không cà phê, không uống những thứ làm em thức.
Sau khi xong bữa, Francis chỉ phòng cho hai chị em, các em có thể tắm và nghỉ
ngơi.”

 Cô chậm rãi nhìn từ trên xuống dưới.

 “Tôi sẽ lấy ít quần áo cho em. Em khoảng cỡ tôi. Và
sau đó chúng ta sẽ nói về luồng điện của em.”

 Joan ngửa bàn tay trái và xòe các ngón ra.

 “Tôi sẽ chỉ em làm thế nào để kiểm soát nó, làm thế
nào để định hình nó, biến nó thành bất cứ cái gì em muốn.”

 Chiếc găng tay biến thành một cái vuốt của loài chim
ăn thịt bằng kim loại đầy đủ với các móng cong trước khi trở lại mờ nhạt thành
da thịt rám nắng của Joan. Chỉ có những chiếc móng tay vẫn còn bạc. Cô dựa
người vào và hôn Sophie thật nhanh trên mỗi bên má.

 “Nhưng trước hết em phải nghỉ ngơi. Bây giờ,”

 cô vừa nói vừa nhìn Scathach,

 “để tôi cho cô xem hình.”

Hai cô gái vội vã rời khỏi bếp, và Sophie theo đường mình
quay trở xuống căn phòng dài nơi Saint-Germain đang nói chuyện sôi nổi với em
trai cô. Josh đưa cho cô một dĩa đầy trái cây và bánh mì. Dĩa của cậu thì nhiều
trứng và xúc xích. Sophie cảm thấy dạ dày mình khó chịu thấy mấy thứ đó và buộc
phải quay đi chỗ khác. Cô vùa nhấm nháp trái cây vừa lắng nghe câu chuyện.

“Không, tôi là người không thể đánh thức năng lượng của cậu
được,”

 Saint-Germain đang nói khi cô bước vào cùng tham gia
với họ.

 “Để làm được việc đó cậu cần phải có một Elder hay một
trong ít người thuộc thế hệ kế tiếp, người nào có thể làm được ấy.”

 Ông mỉm cười, để lộ hàm rang lộn xộn.

 “Đừng lo, Nicholas sẽ tim thấy ai đó đanh thức cậu.”

“Có ai ở đây, tại Paris này có thể làm được không?”

Saint-Germain suy xét một lúc.

 “Machiavelli sẽ biết một ai đó, tôi không chắc lắm. Hắn ta biết đủ thứ. Còn tôi thì không.”

 Ông ta quay
sang Sophie, hơi cúi người.

 “Tôi hiểu
cô may mắn lắm mới  được Hekate huyền thoại đánh thức và được thầy cũ của
tôi, Bà Phù thủy Endor, huấn luyện pháp thuật không khí.”

 Ông ta lắc
đầu.

 “Bà phù
thủy già thế nào? Bà ấy chẳng bao giờ thích tôi,”  ông nói thêm.

“Tới giờ vẫn
không thích,”  Sophie nói nhanh, rồi chợt đỏ mặt vì ngượng.

 “Xin lỗi.
Không hiểu tại sao tôi lại nói vậy.”

Ông bá tước cười
lớn. Ồ, Sophie, cô đâu nói… đúng, thật sự là không. Bà Phù thủy đã nói. Sẽ mất
một thời gian để cô sắp xếp lại ký ức của mình. Tôi nhận được điện thoại của bà
ấy sáng nay. Bà ấy bảo tôi rằng bà ấy đã làm cho cô thấm nhuần không chỉ Pháp
thuật Không khí mà còn toàn bộ kiến thức của bà ấy nữa. Kĩ thuật xác ướp không
được dùng trong ký ức sống; nguy hiểm không tưởng tượng được.”

Sophie liếc nhanh
cậu em trai. Cậu đang chăm chú nhìn Saint-Germain một cách cẩn thận, lắng nghe
từng lời. Cô để ý thấy cậu mím chặt môi làm cổ và xương hàm căng cứng.

“Cô hẳn phải nghỉ
ngơi ít nhất hai mươi bốn tiếng mới có thể hồi tỉnh lại và đủ thời gian cho
tiềm thức sắp xếp lại các ký ức, ý nghĩa và tư tưởng xa lạ bị thu nạp đột ngột
vào.”

“Tôi chẳng có
thời gian,”  Sophie lẩm bẩm.

“Nào, giờ thì có
rồi đó. Ăn nhanh đi; rồi tôi sẽ chỉ phòng cho các bạn. Cứ ngủ bao lâu tùy ý.
Các bạn tuyệt đối an toàn. Không ai biết các bạn ở đây cả.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3