Charlie Bonne (Tập 1) - Chương 15 phần 1
Câu chuyện của nhà phát minh
Mẹ charlie đang ngồi trên
một chiếc ghế lớn chạm trổ, ngay gần cánh cửa chính. Mới đầu
Charlie chưa nhìn thấy mẹ, vì mẹ nó bị thân hình vạm vỡ của giáo sư
Bloor che khuất. Ông ta đang nói chuyện với mẹ Charlie một cách nghiêm
trọng, còn bà Amy trông cứ thấp thỏm như một nữ sinh vừa làm điều
gì sai trái. Khi thấy Charlie, bà vẫy nhẹ nó một cái và mỉm cười
một cách lo lắng.
Giáo sư Bloor quay người
lại.
“A, cậu ấy đây rồi,” ông
ta cố tỏ ra hồ hởi. “Ta đang thông báo cho mẹ con biết con đã học tốt
như thế nào trong tuần lễ đầu tiên, ngoại trừ... ờ... phạm một tội
nhẹ trong vụ áo chùng.”
“Thưa ông, đúng thế ạ.”
Charlie không biết sẽ phải giải thích với mẹ như thế nào đây về cái
áo chùng bị xé rách. Thôi thì cứ giấu nhẹm đi, nó quyết định như
thế.
Mẹ Charlie đứng lên, hôn
vội lên má nó một cái và dắt nó đi thật nhanh ra cửa, không để ông
Bloor kịp nói thêm tiếng nào nữa.
“Cuối tuần vui vẻ nhé,”
giáo sư Bloor nói với theo, giả đò như không biết là đã cướp đi mất
đứt hơn phân nửa kỳ cuối tuần của Charlie.
“Vâng, thưa ông,” Charlie
đáp lời, cũng giả đò quên thêm vào tiếng cảm ơn.
Mẹ Charlie không đả động
gì đến cái tội nhẹ của nó.
“Mẹ hi vọng con không ngán
đi bộ chứ, Charlie. Trời chưa đủ tối nên ông cậu Paton chưa ra ngoài
được, mà mẹ thì không kiếm đủ tiền để đi taxi. Và vì con đã lỡ mất
chuyến xe buýt của trường, nên...”
“Không sao đâu, mẹ.”
“Họ thật không phải chút
nào. Ai lại phạt cấm túc con ngay tuần đầu tiên,” bà bức bối nói. “Mà
thôi, quên vụ này đi, đúng không? Ngoại Maisie đã nấu tất cả những
món con thích.”
Charlie cảm thấy đói
ngấu.
Họ băng qua quảng trường
có vòi phun nước, rồi đi vào một con hẻm dẫn ra Phố Lớn. Đúng lúc
đi được nửa con phố, thì Charlie nhận ra bên kia đường có một lão già
đang bám theo hai mẹ con nó.
Ngay lập tức, Charlie biết
đó là ai. Màn cải trang thiệt là vô vọng. Quần áo trông chẳng hợp
gì cả, bộ râu quai nón màu trắng trông biết ngay là râu giả, không “ăn”
chút nào với mớ tóc đỏ rực lòi ra sau cái nón lưỡi trai cũ sờn.
“Mẹ, mình đi nhanh hơn
được không, mẹ?” Charlie hỏi. “Có người bám theo mẹ con mình.”
“Bám theo?” Bà Amy đứng sững
lại và ngoái ra sau. “Ai đi theo chúng ta?”
“Có một thằng đấy mà,”
Charlie nói với mẹ. “Nó ở bên kia đường. Lạ thật, vì nó biết nhà
mình rồi mà. Hình như nó bám theo chỉ để hù cho mẹ con mình sợ
thôi!”
“Nhanh lên, Charlie!” Bà Amy
túm lấy cánh tay Charlie và kéo tuột nó vô một ngỏ hẻm khác. “Đường
này đi sẽ lâu hơn, nhưng mẹ không thể chịu nổi chuyện bị theo dõi.”
Charlie nhớ ra, trước đây
việc này đã từng diễn ra với mẹ nó. Ngay sau đám cưới, ba nó đã
bắt đầu phải nơm nớp ngoái nhìn lại sau. Mẹ nó đã kể với họ như
thế. Nhưng lúc đó ai đã đi theo họ?
Lúc này, mẹ Charlie đang
làm một lộ trình vòng vèo qua những con hẻm nhỏ, hoàn toàn lạ lẫm
đối với Charlie.
“Lâu lắm rồi mẹ mới đi
đường này, nhưng nó không thay đổi nhiều lắm. A, đây rồi!” Khi bà thốt
ra câu này thì hai mẹ con đã đâm ra quảng trường nhỏ trước mặt nhà
thờ.
“Ôi!” bà sửng sốt, áp tay
lên ngực, như thể cảnh tượng tòa nhà khổng lồ đã làm bà nghẹt thở.
“Ba con xưa vẫn hay chơi đàn organ ở đây,” bà thì thầm. “Nhưng mẹ đã
không quay trở lại nơi này từ khi... từ khi... ba con ngừng chơi.”
Bà Amy rảo bước nhanh hơn,
như không thể chịu đựng thêm được nữa, và tất nhiên, hai mẹ con đều
nhận ra mình đang đi ngang qua tiệm sách của cô Ingledew.
“Con biết cái cô sống ở
đây,” Charlie dừng lại để dòm qua cửa sổ. “Mình vào nha mẹ?”
“Đóng cửa rồi mà,” mẹ
nó nói nhanh. “Con nhìn tấm bảng này.” Và sau đó, khi họ vội vàng đi
tiếp, bà nói thêm, “Tối qua ông cậu Paton đã tới đây. Lúc về ông cậu
đem theo một túi đầy sách. Gần đây không biết có điều gì mà khiến ông
cậu của con thay đổi đột ngột. Chẳng còn giống ông cậu chút nào
hết.”
Phải chăng cuối cùng thì ông
cậu Paton đã ngẩng đầu lên?
Ngoại Maise đã trông thấy
hai mẹ con từ xa, trước khi họ leo lên những bậc tam cấp của căn nhà
số 9. Khi Charlie bước qua cửa nhà bếp thì ấm nước đang sôi, và một
bữa tiệc thịnh soạn đã được dọn sẵn trên bàn.
“Họ đâu có quyền giữ
cháu cách xa chúng ta thêm cả một ngày như vậy,” ngoại Maise kêu lên,
ôm chầm lấy Charlie, ghì nó đến nghẹt thở.
“Tại nó vi phạm nội qui,”
một tiếng nói phát ra từ chiếc ghế xích đu cạnh lò sưởi. “Nó cần
phải học mà hiểu nội qui.” Nội Bone nhăn mặt nhìn Charlie. “Gớm, coi
tóc với tai kìa! Mày không đem lược đến trường à?”
“Dạ, có chứ,” Charlie
thanh minh, “nhưng giám thị không nói gì về chuyện tóc tai của tụi
con. Nội biết con nói tới giám thị là có ý muốn nhắc tới ai chớ!”
“Tất nhiên là Lucretia,”
nội Bone cáu kỉnh.
Đây quả là một bất ngờ
lớn cho ngoại Maisie và bà Amy, hai người há hốc miệng ra nhìn nội
Bone.
“Sao mẹ không cho chúng tôi
biết?” Mẹ Charlie la lên.
“Mắc gì ta phải nói,” bà
già khụt khịt. Đoạn bà quay trở lại với quyển sách đang đọc dở, như
thể không hề có chuyện gì xảy ra.
“Chà,” ngoại Maisie lên
tiếng. “Có người lại khệnh khạng thế đấy!”
Nội Bone giả ngơ luôn lời
nhận xét này, cũng như làm ngơ luôn bữa trà thân mật mà các thành
viên khác trong nhà (trừ ông cậu Paton, dĩ nhiên) sắp ngồi xuống dùng.
Charlie nặn óc nghĩ ra
cách để hỏi thăm ông cậu, nhưng nội Bone trông băng giá đến nỗi nó
quyết định thôi luôn. Nó không muốn làm nổ thêm cuộc tranh cãi nào
nữa, mà chỉ muốn ních đầy các món khoái khẩu rồi mau mau đi gặp
Benjamin.
“Đi đâu đó, hả?” Nội Bone
hỏi sau bữa trà, khi Charlie đi ra cửa trước.
“Dĩ nhiên là nó đi gặp
bạn nó,” ngoại Maisie trả lời thay.
“Chi vậy?” nội Bone chất
vấn. “Nó có bổn phận ở nhà với gia đình vào cuối tuần.”
“Đừng ngây ngô như thế
chứ, bà Grizelda,” ngoại Maisie sực lại. “Cháu cứ đi đi, Charlie.”
Charlie vọt bắn ra cửa,
trước khi nội Bone kịp mở miệng thêm câu nào nữa. Nó chạy băng qua
đường, tới nhà số 12, và ở đó, không những nó được gặp Benjamin mà
còn có cả Fidelio. Trông hai đứa có vẻ rất hào hứng. Chúng lập tức
lôi ngay Charlie vô bếp, nơi những mẩu pizza, khoai tây chiên, chuối và
bánh quy thừa còn vung vãi trên bàn. Con Hạt Đậu đang say mê thưởng
thức những miếng đồ ăn rới xuống sàn, nhưng ngay khi Charlie đi vô, nó
liền nhặng xị cả lên: nhảy chồm chồm, thè cái lưỡi cực kỳ nhớp
nháp liếm lấy liếm để lên mặt Charlie.
Charlie cố dứt ra khỏi con
Hạt Đậu, trong khi Benjamin bắt đầu thuật lại những gì đã xảy ra. Có
vẻ như tụi nó đã phát hiện được một điều gì đó vô cùng hệ trọng.
“Chính Fidelio,” Benjamin
nói. “Bồ biết không, cái giọng nói trong con chó máy bồ tặng mình
đó... ờ... anh Fidelio bảo nếu tụi mình cho cái băng chạy tới thì có
lẽ sẽ có thêm gì đó nữa. Và đúng là có thêm thật.”
“Vậy hóa ra sáng nay hai
người muốn diễn tả điều đó cho mình hả?” Charlie gật gù. Trò hề lạ
lùng của lũ bạn nó bỗng nhiên đã có ý nghĩa. “Hai người làm điệu
bộ như kéo cái đuôi chó vậy...”
“Thế lúc ấy em không hiểu
hả?” Fidelio cười toe toét. “Ngồi xuống đi, Charlie, và nghe câu chuyện
giật gân đây!”
Charlie nhận thấy lũ bạn
đã tìm cách kéo được cái thùng của tiến sĩ Tolly ra khỏi tầng hầm
rồi. Nó kéo ghế ra và ngồi vô bàn. Đứng giữa mặt bàn là con chó
kim loại, bao quanh là bìa cứng và vụn bánh.
“Nghe đây,” Fidelio dõng
dạc. Nó giật đuôi con chó, và ngay khi giọng nói quen thuộc của tiến
sĩ Tolly bắt đầu đưa ra lời hướng dẫn, Fidelio nhấn tai trái con chó
cho cuộn băng chạy tới.
“Rồi,” nó cao giọng. “Tới
rồi đó.”
Tiến sĩ Tolly nói trở
lại, lần này giọng ông nghe khác hẳn, khẩn thiết và sầu thảm hơn.
Charlie xích ghế lại.
‘Julia thương mến,’ giọng
nói bắt đầu, ‘nếu nghe được những lời này thì chị sẽ khám phá ra
bí mật về đứa con yêu dấu của tôi; đứa bé trước đây là Emma Tolly,
nhưng giờ đây nó đã mang một cái tên khác. Tôi hi vọng chị đã tìm ra
một nơi an toàn để giấu cái thùng đề Mười Hai Tiếng Chuông của Tolly.
Tôi không thể gửi chìa khóa hay lời hướng dẫn cách mở nó cho chị
được, vì tôi không tin tưởng ai, Julia à. Họ nghe trộm ngoài cửa phòng
tôi, ăn cắp thư từ của tôi, và đến lúc chị nghe được lời nhắn này
thì chúng đã đánh cắp cuộc đời tôi. Tôi biết rõ lắm. Tôi đã yếu
sức lắm rồi. Tôi không thể ra khỏi giường. Những kẻ thù của tôi đã
đầu độc tôi, Julia, và đây chính là hình phạt cho những gì tôi đã
làm với con mình.
Và thế là, giờ đây, tôi
sẽ kể cho chị biết sự việc đó đã xảy ra như thế nào, tôi đã rơi
vào tình thế trớ trêu này sao. Như chị biết đấy, tôi đã quyết định
trao bé Emma cho người khác. Chính lòng tham đã thúc giục tôi. Thứ
chúng trao cho tôi để lấy con của gái tôi là một thách thức gây hứng
thú nhất trong đời tôi. Chúng đưa cho tôi một bản sao rất hoàn hảo tổ
tiên của tôi, hiệp sĩ từ Toledo với thanh gươm sắc bén nhất trần đời.
Tôi sẽ phải biến bản sao đó thành người thật – tôi mới ngạo mạn làm
sao khi tin rằng mình có thể làm được điều đó. Tôi đã làm việc cật
lực trong 5 năm. Không thành công. Tôi chỉ là một nhà khoa học, chứ
không phải là một phù thủy. Khi Emma lên 7 tuổi, tôi yêu cầu họ trả
con lại. Họ từ chối, với lí do là tôi đã không hoàn thành nhiệm vụ
của mình.’
Đúng lúc này, Benjamin
bỗng hắt xì một cái, cắt ngang thứ bùa mê mà giọng nói đầy thuyết
phục của tiến sĩ Tolly đang truyền qua lũ trẻ.
“Chà chà, thú vị thật,”
Charlie tấm tắc. “Nhưng cũng chẳng giúp cho tụi mình biết được gì
nhiều.”
“Chi tiết đầu độc thú vị
đấy chứ,” Benjamin nói.
“Nghe đi,” Fidelio yêu cầu
chúng. Nó tạm dừng cuộn băng lại. “Phần kế tiếp là phần hay nhất.
Tất cả mọi việc đều diễn ra ở đó.”
Benjamin và Charlie im bặt,
đầy ý thức trách nhiệm, trong khi Fidelio bật lại cuộn băng. Một lần
nữa, giọng nói trầm sâu của tiến sĩ Tolly lại vang lên từ con chó
máy.
‘Julia, chúng hứa là tôi
sẽ được gặp và thăm con. Tôi nghĩ đó sẽ là một cuộc sống tốt cho
Emma bé nhỏ, được bảo bọc trong một gia đình chan chứa tình yêu thương
– có cha mẹ, có anh – thay vì phải sống với tôi, một gã hay gắt
gỏng, đãng trí. Họ nói họ sẽ cho con tôi biết sự thật nó là ai, để
một ngày kia, con bé có thể chọn trở về với tôi hoặc đến sống với
chị, Julia à. Đó là hi vọng của tôi. Đó là trước khi tôi biết những
gì Manfred có thể làm...’
Charlie ngó Fidelio, đang
trợn tròn mắt. Benjamin thì thầm: “Phải đó là..?”
“Suỵt!” Fidelio ra hiệu.
‘Tôi nhớ rõ ngày hôm ấy,’
tiến sĩ Tolly tiếp. ‘Chị còn nhớ chứ, trước tiên tôi đến tiệm sách
của chị, và mặc cho Emma một chiếc váy trắng và thắt ruy băng lên
tóc cho con bé. Nhưng chị không đi tới quảng trường trước nhà thờ
cùng với cha con tôi. Giá mà lúc ấy chị cũng đến đó.
Ở đó có bốn người –
Bloor, vợ và con trai ông ta, và một lão già. Thằng bé lúc ấy khoảng
8 tuổi. Chúng đặt cái thùng dưới chân tôi và, đúng là trong thùng có
một bức tượng; sau đó, tôi nâng con gái bé bỏng của mình lên và lão
già chìa tay ra.
Đúng giây phút đó thì sự
việc xảy ra, Julia ạ. Đó là khi tất cả mọi thức bắt đầu đi chệch
lối. Khi chiếc đồng hồ to trên đầu chúng tôi bắt đầu điểm giờ, thì
một người đàn ông từ trong nhà thờ chạy bổ ra. Tôi nhận ra anh ta ngay
lập tức. Đó là người đánh đàn organ trẻ tuổi cho nhà thờ. Trong khi
ca đoàn vẫn đang hát, thì anh ta chạy về phía chúng tôi. Anh ta giơ tay
lên và la lớn. “Ngừng lại! Các người không được làm thế!”
Khi anh ta xông tới chặn
trước mặt tôi, thì lão già liền đấm một đấm vô mặt anh ta. Người
nhạc công trẻ đánh trả lại và lão già ngã xuống, đập đầu xuống
nền đá. Lão ta thét lên đau đớn. Liền đó, tôi nhận thấy Manfred nhìn
trừng trừng người đàn ông kia, đôi mắt nó trông như hai hòn than đen
ngòm. Anh nhạc công lập tức đưa tay ôm mặt và quỵ xuống.
Lúc ấy Emma khóc thét lên
vì khiếp sợ, nhưng Manfred quay đôi mắt khủng khiếp ấy về phía tôi,
và tôi thấy mình đặt đứa con đang gào khóc của mình vô tay nó. Khi
đồng hồ nhà thờ gõ mười hai giờ, nó nhìn con bé và con bé nín
khóc ngay lập tức. Con bé dường như sợ đến chết trân.

