Charlie Bonne (Tập 1) - Chương 22
Trong khu vườn đổ nát
Khi Charlie đến Học viện sáng
hôm sau, nó để ý thấy có tiếng huyên náo, đầy hào hứng trong hành làng chính.
Bọn trẻ thật khó mà giữ được im lặng, chúng cứ huých khuỷu tay vào nhau, và chỉ
trỏ cái bàn dài được kê dựa vô một trong những bức tường ốp ván. Trên bàn chất
đầy đèn lồng bằng thủy tinh.
“Tối nay có trò chơi trong
khu vườn hoang đó,” Fidelio loan báo với Charlie. Chúng đã vô phòng để áo khoác
chật ních lũ trẻ đang đấu láo.
“Có chuyện gì vậy?” Charlie
hỏi, nghĩ đến cô nữ sinh không bao giờ trở ra. “Em không biết cách chơi.”
“Đây không hẳn là trò chơi,”
Fidelio nói. “Mà giống một cuộc đi săn hơn. Có một chiếc huy chương được giấu ở
trung tâm của khu vườn hoang. Người thắng cuộc phải tìm ra chiếc huy chương đó,
và phải ra khỏi khu vườn hoang trước khi hết một tiếng đồng hồ. Mỗi khoa sẽ
tuần tự tìm kiếm. Tối nay là khoa kịch, ngày mai là khoa hội họa và thứ Tư là
đến tụi mình. Không dễ đâu. Năm ngoái chẳng ai tìm được huy chương, còn năm kia
thì có người tìm thấy, nhưng phải mất ba giờ đồng hồ mới ra được, thế nên không
tính.”
“Có đáng phải làm vậy không?”
Charlie cau mày. “Chỉ là cái huy chương thôi mà.”
“Người thắng cuộc sẽ không bị
cấm túc trong một năm – trừ phi họ làm điều gì đó hết sức tệ hại. Họ còn được
tặng ngày nghỉ, và được phát miễn phí các món như nhạc cụ mới, hộp màu vẽ, hay
quần áo hóa trang. Ngoài ra việc đó sẽ khiến người ta cảm thấy hãnh diện.”
“Ô,” Charlie có cảm giác chơi
vơi. Nó tự nhủ mình thật ngớ ngẩn. Sẽ có một trăm đứa trẻ trong khu đổ nát. Làm
sao mà lạc được nào? Tuy nhiên, đã có người biến mất trong đó. Và ai đó có thể
biến thành một con thú man rợ và đi vô đó để tìm mồi.
“Đừng có u ám như thế chứ,
Charlie,” Fidelio trấn an. “Tối nay tụi mình sẽ theo dõi từ phòng triễn lãm của
khoa hội họa. Phòng đó nhìn ra vườn. Em sẽ thích cho coi, anh bảo đảm với em
đó.”
Sau bữa ăn nhẹ vào buổi tối,
lũ trẻ của khoa kịch xếp hàng vô hành lang và đi lấy đèn lồng. Phòng triển lãm
nhìn ra vườn dần dần đầy ắp các khán giả, theo dõi từng đứa, từng đứa một, bọn
trẻ áo chùng tím túa ra vườn. Charlie hài lòng khi thấy Olivia đã quyết định
mang đôi giày hữu dụng – loại giày có thể chạy nếu bị ai đó rượt theo.
Một hàng đèn lồng lập lòe
trườn qua bãi cỏ như một con rắn dài lấp lánh. Và rồi, từ từ, cái đầu rắn bắt
đầu biến mất khi lũ trẻ bị các bức tường đen tối của khu đổ nát nuốt chửng.
“Bây giờ thì sao?” Charlie
nín thở hỏi.
“Tụi mình đợi thôi,” Fidelio
đáp.
Chúng không phải đợi lâu.
Từng đám con nít bắt đầu cuống cuồng chạy ra khỏi khu vườn hoang, gần như ngay
khi mới bước chân vô. Tụi nó sợ bóng tối hoặc sợ bị lạc đường. Đứa nào chạy ra
tới hành lang là tên bị gạch khỏi danh sách ngay. Những chiếc đèn lồng được run
run hoàn trả lại, và đám trẻ ngây ngô ấy mau chóng về phòng ngủ.
Olivia là một trong những đứa
trở ra sau cùng. Fidelio và Charlie đang chờ trên cầu thang dẫn lên phòng ngủ
chung của nó.
“Tớ không thích khung cảnh ở
ngoài đó tối nay,” Olivia tía lia liền. “Không biết có cái gì đằng sau mấy bức
tường cứ khiến tớ nổi da gà. Tớ cứ nhìn vô cái bóng đen đó – nó cứ thoắt ẩn rồi
thoắt hiện.”
“Loại bóng đen gì vậy?”
Fidelio hỏi.
“Một con thú,” Olivia nói. “Có
lẽ là một con chó… em cũng không biết nữa. Em không đến được trung tâm, không
ai đến được đó.”
“Mình mừng là bồ đã ra được,”
Charlie nói, liếc nhìn đôi giày hữu dụng của Olivia.
“Tớ bám sát Bindi,” Olivia kể
tiếp. “Đi kế chị ấy tớ cảm thấy an toàn, vì chị ấy có phép thuật. Manfred đã
nhìn tớ một cái thật ghê sợ lúc hắn giao lồng đèn cho mọi người. Tớ nghĩ là hắn
đã biết chuyện rồi.”
“Hắn không biết bồ đâu,
Olivia” Charlie nói.
Tối hôm sau, đến lượt khoa
hội họa chơi trò hủy diệt. Fidelio và Charlie có thêm Olivia cùng đi vô phòng
triển lãm. Charlie cảm thấy an tâm khi biết Emma Tolly sẽ không có ở trong đám
săn lùng huy chương. Nó tự hỏi không biết Emma có được ở cùng với cô Ingliedew
hay không. Nếu ông cậu nó mà ra tay trong việc này thì may ra. Ông cậu Paton là
người rất uy lực, theo cách riêng của ông cậu.
Không có gì kịch tính trong
lượt chơi thứ hai này. Không ai tìm thấy huy chương và tất cả mọi người đều trở
ra an toàn.
Và rồi đến tối thứ Tư. Khi lũ
trẻ mặc áo chùng xanh xếp hàng lấy đèn lồng, một cơn gió buốt lạnh thổi qua
hành lang. Bên ngoài sẽ có gió rít đấy, và Charlie sung sướng vì chiếc áo chùng
ấm áp của nó. Lần này đích thân giáo sư Bloor đứng bên bàn phát đèn lồng. Ông
ta gật đầu trang nghiêm với Charlie khi tay hay người chạm vào nhau, và nó đột
ngột hiểu ra rằng, không phải giáo sư Bloor là người nó sợ, mà thực ra, chính
người đàn ông to lớn kia phải sợ nó.
Cửa dẫn ra vườn để mở. Những
đứa trẻ đầu tiên bước ra ngoài, lao vô bóng đêm. Không có trăng, cũng chẳng có
lấy một vì sao, chúng ngước lên nhìn bầu trời đen kìn kịt. Tuy nhiên, dưới mặt
đất lại có một đốm sáng nhờn nhợt, nhảy nhót. Và khi giơ đèn lồng lên, Charlie
thấy tuyết rơi xuống đã đóng thành một lớp mỏng. Tuyết kêu lạo xạo dưới chân
chúng như thủy tinh vỡ.
“Anh ở ngay sau lưng em đây,
Charlie,” Fidelio thì thào, “Cứ đi đi.”
Charlie quay lại, thấy gương
mặt rạng rỡ của Fidelio nổi bật trong ánh sáng của đèn lồng.
“Chúc may mắn!” Charlie nói
khẽ. “Hi vọng anh sẽ tìm thấy huy chương.”
“Im lặng,” một giọng đanh sắt
vang lên. “Nói chuyện hoặc thì thầm sẽ bị phạt.”
Chúng đã đến cổng khu vườn đổ
nát. Manfred đứng ở một bên, đánh dấu tên lên cuộn giấy dài khi lũ trẻ đi ngang
qua hắn. Trên đầu hắn đung đưa một chiếc đèn lồng to, và Charlie thấy Zelda
Dobinski đang đứng sau Manfred, giữ cái cây đỡ đèn lồng. Con bé lạnh lùng lườm
Charlie khi nó bước vô cổng vòm đá.
Nó nhận ra mình đang ở trong
một khoảnh sân lát gạch, xung quanh có những bờ rào cao, dày đặc. Trước mặt nó
là năm cửa vòm, phân cách nhau bởi bốn băng ghế đá. Fidelio thúc vô khuỷa tay
Charlie và hất đầu về ô cửa vòm ở giữa. Chúng tiến lên. Thoạt đầu, có vẻ như
chúng là cặp duy nhất chọn ô cửa vòm chính giữa, nhưng từ từ, chúng bắt đầu
nhận ra các nhóm nhỏ khác cũng đang vội băng qua mặt chúng, hoặc nhốn nháo đi
sát ngay bên cạnh. Thậm chí một vài đứa còn chạy ngược lại.
“Anh có nghĩ là tụi mình đang
đi đúng đường không?” Charlie hỏi khẽ.
“Ai mà biết!” Fidelio đáp.
Chúng rẽ vô một góc ngoặt, và
men theo một lối đi hẹp đến nỗi các bức tường cọ vô cùi chỏ khi chúng đi qua.
Có lúc chúng đến được một
khoảng trống, nơi có vòi phun nước bắn tung tóe vô một cái hồ giá lạnh. Charlie
thích nhất ở đó là một con cá đá khổng lồ, và Fidelio phải kéo áo chùng để lôi
nó đi.
Có lúc, chúng lại húc phải
một bức tượng mục hay một cái bình mốc. Và khi thời gian dần dần trôi đi, một
sự thinh lặng bí hiểm dần bao trùm bọn trẻ. Chúng không còn nghe thấy tiếng lộp
cộp của những bước chân vội vã, hay tiếng xì xào của những đứa khác nữa.
“Làm sao tụi mình biết được
là đã đến khu trung tâm?” Charlie thì thầm.
“Có một ngôi mộ ở đó,”
Fidelio đáp. “Đó là tất cả những gì anh biết.”
“Mộ? Nhưng mộ của ai?”
“Charlie!” Fidelio bỗng kêu
to. “Đứng im. Có gì đó không ổn với áo chùng của em kìa.”
“Cái gì?”
Charlie quay vòng và ngó lom
lom chiếc áo chùng của mình. Cái áo đang phát sáng. Những sợi chỉ nhỏ xíu sáng
chói chạy khắp mặt vải, khiến cho chiếc áo giống như một đám mây lấp lánh kì
dị.
“Bà cô của em may nó đó,”
Charlie hơi hoảng. “Nhưng sao bà ta lại làm thế này?”
“Có lẽ làm vậy để ai đó có
thể đi theo em trong bóng đêm,” Fidelio suy đoán, “hoặc săn đuổi em.”
Charlie cởi phăng chiếc áo
chùng ra và vứt toẹt xuống đất.
“Được, họ sẽ không bắt được
em đâu,” nó tuyên bố. “Em có thể bị chết cóng chứ nhất định không để bị tóm.”
“Em có thể dùng chung áo với
anh nếu trời quá lạnh,” Fidelio nói.
Lối đi kế tiếp chúng chọn rất
giống một đường hầm. Chúng gần như phải gập đôi người lại, hầu tránh đụng đầu
vô xà nhà thấp. Charlie bắt đầu cảm thấy khó thở trong cái không gian tù túng
như thế này. Nó chạy nhanh về phía trước và thấy ló ra một khoảng trống hình
tròn. Có ba bức tượng đứng ở giữa, nhưng khó mà đoán ra là tựa gì. Nó nhận ra
nến trong đèn của mình đã cháy gần hết.
Cứ nghĩ là bạn mình đã ra
khỏi đường hầm ở sau lưng, nó gọi, “Hây, Fidelio, nhìn nè.”
Không có tiếng trả lời.
Charlie săm soi nhìn vào đường hầm. Không có ánh sáng, không có Fidelio.
“Này, nhanh lên. Đừng có
loanh quanh nữa!”
Charlie lao trở vô đường hầm.
Với bàn tay rảnh rang, nó dò dẫm các bức tường và khoảng không gian đen ngòm
trước mặt. Hay là bạn nó đã bị ngã hay trượt vô một lối đi khác?
“Fidelio! Fidelio!” Charlie
gọi to, không thèm để ý rằng mình có thể bị phạt.
Tiếng gọi của nó chìm vào im
lặng. Và rồi ngọn nến tắt phụt.
Charlie chợt nhận ra là nó đã
biết, ngay từ đầu, rằng điều này sẽ xảy ra. Nó đã phạm luật, giống như ba nó
ngày trước. Nó đã cứu Emma Tolly, và bây giờ nó sẽ bị trừng phạt. nhưng nó sẽ
không đầu hàng. Nó phải đấu tranh. Ném cái đèn lồng vô dụng xuống đất, Charlie bắt
đầu sờ soạng tìm đường băng qua đường hầm. Ở một khúc nào đó, chắc hẳn là đường
hầm sẽ tỏa ra một lối đi khác, rộng rãi, vì nó đã lại ngửi thấy một mùi không
khí trong lành, dẫu không chính xác là trong lành, mà đúng hơn, đó tựa như một
hỗn hợp của lá mục và đá ẩm.
Quẹo gắt ở một góc, Charlie
bắt gặp ánh sáng, gần như không tin rằng mình có thể gặp may đến thế, nó chạy
về hướng đó. Đèn lồng thắp trên một ngôi mộ bằng đá sừng sững. Ai đó thình lình
xuất hiện từ phía sau, và Charlie thấy cái đầu trắng của Billy Raven. Đôi gọng
kính tròn của thằng bé sáng lên như hai vầng trăng nhỏ.
“Em đã tìm ra huy chương,”
Billy la lên.
Nó giơ ra một chiếc dĩa bằng
vàng, lấp lánh đính vô một sợi dây chuyền.
“Giỏi lắm,” Charlie nói. “Anh
bị mất đèn lồng, Billy à. Cho anh đi cùng em với nha?”
“Đèn của em,” Billy nói. Rồi
chộp lấy đèn lồng và lủi đi thật nhanh.
“Được rồi. Anh không lấy đèn
đâu, Billy.”
Charlie nhìn ánh đèn vụt đi,
sau đó biến mất. Nó chịu, không biết Billy đi đường nào. Chẳng thể đoán được.
Thậm chí không có lấy một âm thanh để dẫn dắt cho nó.
Đột nhiên, nổi lên một tiếng
động, tiếng những bước lập rập, nhẹ ru… của bốn chân. Rồi thêm hơi thở của một
con vật đang thở khọc khọc. Charlie phóng vù về phía trước. Chúi nhủi và lảo
đảo, nó chạy trốn khỏi tiếng bước chân nhẹ lướt và cái mùi tanh của con thú dữ.
Fidelio đã bỏ cuộc tìm
Charlie. Nó nghĩ bạn mình có lẽ đã tìm được đường ra khỏi khu bỏ hoang rồi. Có
điều gì đó rất kì lạ đã xảy ra trong đường hầm chật hẹp. Fidelio bị đẩy xuyên
qua một khe nứt, vô một lối đi khác, nhưng nó không thể thấy được ai đã đẩy nó.
Nó hỏi nhiều đứa khác xem có thấy Charlie hay không. Chẳng ai thấy cả.
“Billy Raven đã tìm được huy
chương,” ai đó nói.
Hừm, Fidelio nghĩ. Mình tự
hỏi là làm cách nào mà thằng ấy tìm được chứ?
Có vẻ như Fidelio là người
cuối cùng rời khỏi khu đổ nát.
“Charlie Bone đã ra chưa?” nó
hỏi Manfred khi hắn đang đánh dấu tên trên cuộn giấy.
“Ra lâu rồi,” Manfred đáp gọn
lỏn.
“Anh có chắc không?”
“Tất nhiên là tao chắc,”
Manfred cộc cằn.
Fidelio chạy vô tòa nhà. Nó hỏi
mọi người xem có ai gặp Charlie Bone không. Tất cả những ai biết mặt Charlie
đều thề là không thấy Charlie đâu cả.
“Chuyện gì vậy?” Olivia hỏi
khi thấy vẻ mặt nhớn nhác của Fidelio.
“Charlie vẫn còn ở trong khu
vườn hoang,” nó nói với cô bé.
“Ôi không! Nhưng đã lâu lắm
rồi mà. Họ đã nói tất cả mọi người đều đã ra hết rồi.”
“Không đúng,” Fidelio tức
giận. Nó chạy lên phòng ngủ chung.
Billy Raven đang ngồi trên
giường. Năm sáu thằng bé khác đứng vây quanh nó, trầm trồ ngắm tấm huy chương
treo trên sợi dây chuyền quanh cổ.
“Có ai thấy Charlie Bone
không?” Fidelio hỏi cả bọn.
“Không thấy,” tất cả bọn
chúng đáp.
Billy Raven chỉ lắc đầu.
“Chúc mừng nhé,” Fidelio nói.
“Anh biết là em đã thắng” Nó nằm mẹp xuống giường. Không biết phải làm gì.
Nửa giờ sau, một tiếng nói
cất lên, “Năm phút nữa tắt đèn.”
Fidelio chạy bổ ra hành lang.
“Bà giám thị ơi, Charlie Bone
chưa vô phòng,” nó la lên.
Người phụ nữ cao lớn trong bộ
đồng phục xanh được hồ cứng thậm chí không quay người lại.
“Úi trời,” bà ta nói, rồi
bước tiếp.
Fidelio tự vò đầu bứt tai.
“Bà không quan tâm gì hay
sao?” Nó gào lên.
Bà ta phớt lờ nó.
“Mày về trễ,” bà ta nói với
Gabriel Silk khi anh chàng này chạy vắt giò lên cổ trên hành lang.
“Xin lỗi, Giám thị,” nó làu
bàu.
“Cậu coi,” Gabriel nói với
Fidelio, “sau khi bắt đi vơ vẩn trong khu đổ nát dơ dáy đó, họ vẫn bắt tôi phải
làm xong bài tập về nhà…”
Nó chợt chú ý đến bộ mặt khổ
sở của Fidelio. “Chuyện gì vậy?”
“Charlie vẫn còn ở trong khu
vườn hoang,” Fidelio gần như mếu máo.
“Cái gì?” Gabriel Silk thay
đổi thái độ tức thì.
Một tia sáng quả quyết lóe
lên trong đôi mắt xám của Gabriel, và trông nó như cao hơn, đứng thẳng người
hơn.
“Tụi mình phải coi lại vụ
này,” nó nói rành rọt và quay đầu đi ngược lại hành lang.
Fidelio bám theo, hoang mang
không biết Gabriel định làm gì. Đến đầu cầu thang, Gabriel ngoái lại bảo.
“Fidelio, trở lại phòng ngủ
chung. Bây giờ cậu không giúp được gì đâu.”
“Tôi muốn đi với anh,”
Fidelio nài nỉ. “Charlie là bạn của tôi.”
“Không được,” Gabriel nghiêm
giọng. “Đây không phải là chỗ của cậu. Nguy hiểm lắm. Cậu phải để việc này cho
tụi tôi.”
Gabriel xem ra đã có được một
cái nhìn hết sức thuyết phục.
Fidelio lùi lại. “Anh nói ‘tụi
tôi’ nghĩa là sao?” nó hỏi.
“Những hậu duệ của Vua Đỏ,”
Gabriel nói rồi phóng xuống cầu thang.

