Charlie Bone (Tập 7) - Chương 01

Những hậu duệ của Vua Đỏ

Manfred Bloor: Con trai ông hiệu
trưởng Học viện Bloor. Một kẻ thôi miên. Manfred là hậu duệ của Borlath, con
trai cả của Vua Đỏ. Borlath là một tên bạo chúa độc tài.

Naren Bloor: Con gái nuôi của
Bartholomew Bloor. Naren có thể phát đi những thông điệp từ khoảng cách xa. Cô
bé thuộc dòng dõi của một người cháu trai của Vua Đỏ bị bọn cướp biển bắt cóc
và mang tới Trung Hoa.

Asa Pike: Asa người thú là chắt của
một bộ lạc sống ở những khu rừng phía Bắc có truyền thống nuôi dưỡng thú hoang
dã kì dị. Asa có thể biến hình vào lúc trời tối.

Billy Raven: Billy có khả năng trao
đổi thông tin với thú vật. Một trong những tổ tiên của của nó có tài nói chuyện
với lũ quạ trên giá treo cổ, nơi treo thây tử tội. Vì tài này mà ông bị đuổi khỏi
làng mình.

Lysander Sage: Chắt đích tôn của một
nhà thông thái người Phi Châu. Cậu có phép gọi hồn tổ tiên tâm linh của mình.

Tancred Torsson: Người gọi bão. Tổ
tiên gốc Scandinavi của cậu là Thor, dựa theo tên của thần sấm. Tancred biết
tạo nên gió, mưa, sấm và chớp.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác
nhỏ cho người yêu sách.]

Gabriel Silk: Gabriel có thể cảm nhận
được ý nghĩ và cảm xúc của người khác qua áo quần của họ. Cậu xuất thân từ một
dòng họ những nhà tâm linh học.

Emma Tolly: Emma có thể bay. Họ của
cô có xuất xứ từ một hiệp sĩ người Tây Ban Nha. Vua đỏ đã cưới con gái ngài, vì
vậy hiệp sĩ này cũng là tổ tiên của tất cả những người được ban phép thuật.

Charlie Bone: Charlie có phép đi vô
hình chụp và hình vẽ. Từ dòng họ bên cha, cậu là hậu duệ của Vua Đỏ, còn về bên
dòng họ mẹ, cậu thuộc dòng dõi của Mathonwy, thầy pháp xứ Wales, bạn tâm giao
của Vua Đỏ.

Dorcas Loom: Dorcas có thể ếm bùa vào
quần áo. Bà tằng tổ của nó, Lola Defarge, chính là kẻ đã đan chiếc khăn choàng
teo rút trong khi thích thú chứng kiến cuộc hành hình Hoàng hậu nước Pháp năm
1793.

Idith và Inez Branko: Hai chị em sinh
đôi siêu năng, có họ hàng xa với Zelda Dobinki.

Joshua Tilpin: Joshua có thể phát ra
từ tính. Tổ tiên của nó đến nay vẫn còn là một ẩn số. Thậm chí gia đình Bloor
cũng không biết chắc nó sống ở đâu. Nó vốn tự mình đến cửa học viện và giới
thiệu danh tánh. Học phí của nó được chi trả thông qua một ngân hàng tư.

Una Onimous: Cháu gái của ông Onimous.
Una mới 5 tuổi và tài phép của cô bé được giữ bí mật cho đến chừng nào tự bùng
phát.

Olivia Vertigo: Hậu duệ của
Guanhamara, một người con đã chạy trốn khỏi lâu đài của Vua Đỏ, sau đó cưới
hoàng tử nước Ý. Olivia là người tạo ảo ảnh. Gia đình Bloor không biết về tài
phép của Olivia.

Dagbert Endless: Dagbert là con trai
của Lord Grimwald, kẻ điều khiển đại dương. Mẹ nó gom góp vàng từ răng người
chết đuối để luyện thành bùa linh bảo vệ con trai mình. Dagbert có thể dìm
người ta chết đuối.

Phần mở đầu

Gió ở xứ Badlock là thứ gió quái độc
nhất trên đời - chúng từ khắp mọi hướng thốc tới, hú hét, dội ình ình vào tấm
lưng rộng của người khổng lồ, dứt tóc, quất vào mắt ngài khiến ngài không sao
mở mắt nổi. Cứ mỗi bước chân nhấc lên là những cơn gió lại quét vòng quanh, bó
thít đôi cẳng dài của ngài, tới chừng quật ngài ngã khụy.

Phía sau người khổng lồ, một đồng
bằng bao la với đầy bụi rậm bị gió san phẳng và đất đá không ngừng bị gió xới
tung. Ngài và đứa trẻ đi cùng đã phải mất một ngày một đêm mới đi hết vùng đất
không mến khách này. Họ đi từ những rặng núi quanh năm tuyết phủ, viền quây
đồng bằng như một bức tường thành bền vững.

Người khổng lồ kéo chặt chiếc áo
thùng cho kín thằng bé ngài đang ôm trong tay. Họ đang đi mải miết, nhắm hướng
một lòng chảo nhỏ, nơi ấy có thể thấy cây cối làm chỗ trú ẩn và mặt nước ánh
lên loang loáng.

"Tha lỗi cho ta, Roland,"
người khổng lồ rên rỉ. "Ta không thể bước thêm được nữa."

"Cha mệt rồi, thưa cha,"
thằng bé nói, đoạn toài người trườn khỏi cánh tay người khổng lồ. "Nếu để
con tự đi thì cha sẽ bước dễ dàng hơn."

Người khổng lồ kinh ngạc trước tinh
thần của thằng bé. Cái tính này là thừa hưởng từ mẹ nó đây, ngài nghĩ, và chợt
thấy xấu hổ khi nhìn Roland vẫn không hề nao núng sau cuộc hành trình cam go
ròng rã của họ. Thu hết sức lực, người khổng lồ lại tiếp tục cất bước, khó nhọc
dướn tới trước trong khi con trai ngài dũng cảm lảo đảo bước bên cạnh.

"Trông kìa!" Roland bất
chợt hét to. "Con trông thấy một đốm sáng trong lòng hồ."

"Mặt trăng đó," người cha
lầm bầm.

"Không phải, cha à. Lửa đó."

Người khổng lồ quơ tay lên che mắt
rồi chớp mắt. Quả thật như vậy, một khoảng sáng chập chờn bên rìa lòng chảo.
Nhưng làm sao ngài biết cái thứ đó có nguy hiểm hay không? Xem ra hai cha con
khó lòng tìm được sự trợ giúp ở cái nơi tiêu điều ảm đạm thế này.

Bất thình lình, Roland lao như thể
bắn về phía trước. Cậu luôn có thiên hướng đâm đầu vào những gì kích thích trí
tò mò của cậu.

"Khoan!" Người khổng lồ gọi
giật.

Nhưng Roland, với đôi cánh tay giang
rộng như ôm lấy gió, đã vượt lên trước, xuyên qua những làn gió xoay xoáy, bươn
bả về phía vạt cây và biến mất khỏi tầm nhìn.

Khi người khổng lồ lê bước tới lòng
chảo, ngài thấy con trai đang chuyện trò tíu tít với một thằng bé độ chừng 10
tuổi, tóc trắng lạ kỳ. Thằng bé lạ giơ cây đèn lõi bấc lên để nhìn cho rõ cái
thân hình đang đứng sừng sững nơi miệng lòng chảo, và người khổng lồ để ý thấy
đôi mắt màu tím của thằng bé. Yêu tinh, người khổng lồ nghĩ. Nó định giở phép
ranh mãnh gì ra với cha con mình đây?

"Roland, lại đây," người
khổng lồ ra lệnh, bước gần hơn tới hai thằng bé.

Đột nhiên không biết từ đâu, một
người khác xuất hiện trong vòng ánh sáng của ngọn đèn, một thanh niên cao lớn,
tóc đen nhanh như lông quạ, khoác áo chùng cũng màu đen bóng.

"Đừng sợ," người thanh niên
áo đen nói, "Owain tóc trắng không phải yêu tinh đâu. Cậu ấy đã lùng kiếm
hai người suốt nhiều tháng nay rồi."

"Tìm ta?" Đôi mắt của người
khổng lồ nheo híp lại.

“Chú là Otus Yewbeam phải không?” Cậu
bé lạ hỏi.

"Đó là tên ta".

Thằng bé cúi chào thật sát. "Tìm
thấy chú cháu vui sướng quá đi mất. Không ai biết chú đã đi đâu. Mãi mới có một
bà lão cùng làng với chú, vào lúc sắp chết, không còn sợ bị trừng phạt, mách
cho cháu biết chú và con trai đang bị một hiệp sĩ mặc đồ toàn màu xanh lá cây
cầm tù."

"Bá tước Harken." Người khổng
lồ khịt mũi khinh bỉ.

"Nhưng anh đã trốn thoát
rồi," người thanh niên áo đen nói.

"Lẽ ra chúng cháu phải cứu chú,"
Owain nói, "nhưng chú bị canh phòng nghiêm ngặt quá.”

Roland, nãy giờ cứ nhảy lên nhảy
xuống loi choi vì khoái chí, không thể nén cái tin này lâu thêm được nữa, liền
bật ra, "Owain là anh họ của con đó cha, còn ngài đây," nó chỉ người
thanh niên áo đen, "là bác Tolemeo."

Người khổng lồ nhíu mày, "Lẽ nào
đây là thật."

Telemeo đáp, "Chúng ta hãy vào
hẳn trong lòng chảo đi hẵng, ở đó nói chuyện dễ dàng hơn." Từ lúc gặp nhau
đến giờ họ toàn hét vỡ giọng, không sao biểu lộ được tình cảm nồng ấm vì gió cứ
chém phạt lời họ mà tung hê lên trời.

Ngài Tolemeo dẫn đường, theo sau là
Owain, cây đuốc rừng rực trong tay nó chiếu vào dải áo chùng của ngài Tolemeo
khiến nó cho sáng lóe lên những màu sắc biến ảo, thoắt xanh da trời sống động,
chuyển qua xanh lá cây, rồi lại tới màu tím sậm.

Anh ta mặc áo lông chim, người khổng
lồ nghĩ, bất giác một nỗi sợ hãi mơ hồ thốn lên, chạy dọc khắp thân thể ngài.
Nhưng ta tuyệt nhiên đừng mong chờ họ là người bình thường, bởi vì họ là con
cái của Vua Đỏ, giống như Amoret vợ yêu của ta cũng là một người con của nhà
vua vĩ đại này.

Tất cả đi xuống cụm đá tảng dưới đáy
lòng chảo. Khi đã an tọa trên một phiến đá rộng, người khổng lồ hỏi, "Các
vị có biết tin tức gì về vợ tôi không?"

Ngài không nhận được câu trả lời
ngay. Owain nhìn gằm xuống đất. Hình như thằng bé tóc trắng này bất giác hoảng
hốt và e dè.

"Thứ lỗi cho tôi, anh à,"
ngài Tolemeo nói lảng, "nhưng theo tôi thấy thì anh không giống người
khổng lồ lắm."

"Phải đấy," Owain bật cười
lảnh lót. "Cháu luôn tưởng tượng cái đầu khổng lồ khuất hẳn trong mây
cơ."

Ngày Otus mỉm cười bao dung.
"Tôi không phải là người khổng lồ thật sự, mặc dù tôi xuất thân từ dòng
người khổng lồ. Cha tôi cao tận hơn hai sải. Tôi chỉ cao bằng hai phần ba ông
ấy thôi. Các em trai tôi thậm chí còn nhỏ hơn tôi. Có lẽ hậu sinh của người
khổng lồ bọn tôi sẽ có kích thước bình thường hơn." Nói đoạn ngài liếc
nhìn Roland, sau đó thúc giục tha thiết, "Làm ơn nói cho tôi biết đi, các
người có tin tức gì về vợ của tôi không?"

Ngài Tolemeo vội nhìn xuống. Cái
thoáng nhún vai không kìm nổi của anh khiến trái tim của người khổng lồ hụt mất
một nhịp.

"Làm ơn nói cho tôi đi."
Ngài Otus gầm vang. "Cho dù là tin xấu nhất."

"Vợ của ngài đến chỗ anh trai
của bà ấy, Amadis..." ngài Tolemeo bắt đầu.

"Biết rồi, biết rồi," người
khổng lồ cắt ngang." Tôi đã nghe nói rằng bá tước Harken đang mưu đồ trở
lại. Tôi tưởng bà ấy sẽ an toàn khi ở chỗ Amadis chứ. Bà ấy cho Gương Thần do
cha, là nhà vua, chế ra và bà ấy đã dùng nó để... chu du." Ngài Otus nhìn
những gương mặt đang dòm mình trân trân. Có vẻ như họ không ngạc nhiên.
"Các người biết về Gương Thần à?"

"Chúng tôi biết," ngài
Tolemeo xác nhận. "Và chúng tôi còn biết nó là vật mà Harken rất thèm
muốn."

Miệng người khổng lồ xệch ra thành
một nụ cười cay đắng." Tuy bá tước Harken là thầy bùa nhưng hắn thèm
thuồng tất cả mọi thứ do cha của anh làm ra hoặc sở hữu. Bọn chúng, Harken với
đội quân quỷ lùn và côn đồ của hắn đã bao vây nhà chúng tôi. Amoret đã cố mang
con chạy trốn cùng với mình, bà ấy nghĩ Gương Thần sẽ đưa cả hai mẹ con cùng
đi, nhưng không hiểu sao nó lại không có tác dụng với Roland. Thằng bé rơi tỏm
vào vòng tay tôi khi mẹ nó biến mất. Mấy phút sau, Harken xông vào nhà chúng
tôi và bắt hai cha con tôi đi. Chúng đày bọn tôi tới xứ Badlock này và suốt hai
năm nay bọn tôi bị giam tại một trong vô số tòa tháp của hắn. Cách đây ba ngày
tôi đã hạ gục tên quỷ lùn hung ác mang đồ ăn đến cho bọn tôi, và trong khi hắn còn
đang choáng váng với cú đá của tôi thì Roland thông thái đã đẩy hắn vào tủ,
khóa cửa lại."

"Xong rồi cháu cởi dây trói cho
cha," Roland tiếp lời." Chúng đã không biết là cháu đã trở nên lớn
mạnh như vậy, chứ nếu biết thì chúng cũng xích cháu vào tường như cha cháu
rồi."

Người khổng lồ bế thốc con trai lên
ôm vào lòng mình, "Bọn tôi đã đi miết từ hôm đó tới nay, nhưng thứ gió
đáng nguyền rủa này kìm níu bước chân bọn tôi. Nếu bọn tôi có thể ra được bờ
biển và kiếm được thuyền thì sớm muộn bọn tôi cũng tìm được vợ và mẹ. Tôi nghe
nói anh vợ của tôi, Amadis, có tòa lâu đài tuyệt đẹp nằm trên một hòn đảo ở
biển Tây."

Bầu thinh lặng tiếp theo sau lời bình
luận này sâu thẳm đến độ tưởng chừng như nó là một cái vực đen hun hút mà tâm
trí của người khổng lồ không muốn chạm tới.

"Nói cho tôi biết đi," ngài
thì thào.

"Vợ anh đã chết rồi," ngài
Tolemeo nói rầu rầu. "Owain sẽ kể cho anh nghe phần còn lại bởi vì nó đã
có mặt tại đó."

Roland vùi đầu vào cổ cha, bờ vai nó
run rẩy theo từng cơn nấc thầm. Đáng lý ra ta nên biết trước việc này, ngài
Otus nghĩ. Làm sao ta dám hy vọng mình sẽ né tránh được sự thật? "Kể
đi!" Ngài giục.

Owain tụt khỏi tảng đá đang ngồi và
trao cây đuốc cho ngài Tolêmo. Xong cậu chắc hai tay lại với nhau, nhìn thẳng
vào mặt người khổng lồ và bắt đầu. "Tất cả là do bác Borlath của cháu, anh
cả của vợ chú. Hẳn chú đã biết rằng bác ta là một trong những đồng minh của
Harken. Bác ta đã tìm thấy hòn đảo của cha cháu và lâu đài mà cha cháu đã xây.
Người ta nói đó là tòa lâu đài kì diệu nhất trên đời. Borlath muốn chiếm tòa
lâu đài. Bác ta xua lính đánh thuê tới bao vây nhà cháu, nhất quyết làm cho nhà
cháu phải chết đói, nhưng cha cháu có khả năng nói chuyện được với thú vật nên
ông đã gọi sói, dơi, chim và chuột đến. Lũ chuột đặc biệt hữu ích khi đã ăn hết
sạch kho lương của Borlath. Mùa đông tới, bọn lính đánh thuê trở nên bất mãn,
đòi bỏ đi, và đó cũng là khi Borlath sử dụng đến tài phép kinh hoàng của bác
ta. Cháu thấy mình rơi vào giữa trận chiến - lửa từ tay bác ta phụt ra.
"Owain giơ hai bàn tay lên, căng rộng những ngón tay để minh họa.
"Chỉ trong một giây mà một vòng lửa đã bao vây chúng cháu. Cha cháu đặt
cháu xuống đất và thét to: 'Chạy đi Owain. Hãy chạy nhanh hết sức tới cái giếng
và chừng nào cha gọi thì con mới được ra'. Thế là cháu chạy. Và trong khi chạy
cháu ngước lên thấy một cái gương sáng chói đang bay về phía mình, thế là cháu
chụp lấy, cháu nghe văng vẳng từ xa, rất xa tiếng cô Amoret gọi: 'Nhớ đưa Gương
Thần cho con trai cô'. Sau đó cháu xuống giếng ngay, có con quạ của cháu đi
cùng. Nó là bạn cháu mà, chú biết đấy, và cháu nói được ngôn ngữ của nó.”

"Từ sâu dưới giếng, bọn cháu,
tức là cháu và con quạ lắng nghe. Bọn cháu nghe thấy tiếng kêu thét, tiếng khóc
rên, tiếng gươm khua, dao chém, tiếng giàn giáo đổ sập. Cháu ngửi thấy mùi lửa,
và mùi còn tệ hơn cả lửa". Owain ngước đôi mắt sáng ngời lên trời, ngực
cậu phập phồng lên xuống như thể đang chật vật lấy hơi. Ngài Tolemeo đặt một
bàn tay lên vai cậu, và cậu bé kể tiếp. "Rồi bỗng nhiên mọi thứ đều im
bặt, im như tờ, và cháu biết cha sẽ không bao giờ gọi cháu ra nữa; cháu biết
cháu sẽ không bao giờ nghe được tiếng của cha. Thế là cháu tự chui lên khỏi
giếng. Họ đã chết. Tất cả mọi người."

Miệng của người khổng lồ há hốc ra,
nhưng tiếng khóc câm nghẹn trong cổ họng ngài. Roland quay đầu nhìn sững vào
Owain. Nỗi kinh hãi đã hút khô dòng nước mắt của nó.

Owain nói khẽ, "lúc cháu chui ra
thì trời đang đổ tuyết, những bức tường lâu đài sáng lóa lên như thủy tinh,
sáng đến nỗi cháu không thể nhìn thấy mặt mình trong đó".

"Đó là thầy pháp ra tay,"
ngài Tolemeo đỡ lời. "Ngài là bạn của cha tôi, ngài Mathonwy. Ngài phái
những đám mây tuyết tới dập tắt lửa. Nhưng sự chi viện của ngài đến quá trễ nên
đã không cứu được Amadis và Amoret. Khi sự việc này xảy ra thì tôi đang ở
Toledo, thành phố của mẹ tôi."

Owain chụp lấy bàn tay của ngài
Tolemeo. "Cháu đã gửi con quạ của cháu tới tìm bác Tolemeo, kể từ ngày bác
ấy đến là bọn cháu đã đi tìm chú tới tận hôm nay." Cậu thò tay vào áo
choàng của mình và rút ra một chiếc gương lồng trong khung kim loại quý. Gương
Thần sáng đến nỗi như có ánh mặt trời chiếu thẳng vào mặt họ.

Người khổng lồ thở hốc, quay mặt đi.
"Amoret," ngài lào thào.

Ngài Tolemeo lấy tấm gương từ Owain
và đặt vào hai tay người khổng lồ. "Hãy cầm lấy Gương Thần này, Otus
Yewbeam à," ngài nghiêm giọng. "Anh đã mất vợ nhưng anh vẫn còn con
trai."

Người khổng lồ định đáp lại thì ngài
Tolemeo bất thần quay gót, hai lỗ mũi nở loe ra, mắt quắc lên cảnh giới.
"Chúng sắp đuổi kịp bọn ta," ngài thét to.

"Tôi chẳng nghe thấy gì cả,"
người khổng lồ nói.

"Cũng vậy thôi". Ngài
Tolemeo lẳng Roland lên vai. "Chúng ta chỉ còn một thoáng nữa thôi".
Ngài bắt đầu sải bước quanh bờ hồ. "Otus, nhanh lên. Chúng đến đó."

Người khổng lồ đứng dậy, áp Gương
Thần vào ngực. Ngài ngước nhìn lên miệng lòng chảo, quả thật, bọn chúng kìa,
một hàng bóng đen dài đang len lỏi qua những thân cây. Tiếng rống giọng mũi,
đùng đục nổi lên, xoáy thốc vô lỗ tai người khổng lồ khi quỷ lùn của Harken bắt
đầu tràn xuống bờ dốc. Những đôi mắt ti hí lẫn cái mồm nguệch ngoạc dính khuất
vào cái mũi khoằm như cục thịt thù lù. Tất cả bọn chúng mặc yếm giáp sắt xếp
vẩy, màu xám xịt che bộ ngực và đội mũ sắt chóp cao, trông lố bịch để giấu cái
đầu gồ bướu. Khí giới chúng mang theo gồm dùi cui, thương, giáo và những cây
giằng ná chết người. Đằng sao chúng là một đám quân gớm ghiếc, không phải quỷ
lùn cũng không phải người.

Người khổng lồ vọt chạy. Đôi chân dài
của ngài dễ dàng phóng qua khỏi những cụm đá lởm chởm bên thành hồ. Ở phía
trước, ngài còn kịp thấy gương mặt nhỏ xíu của Roland ló ra khỏi vai ngài
Tolemeo ngoái nhìn lại. "Chạy đi, cha, chạy mau," chú bé gọi to.

Tiếng rống của lũ quỷ lùn tràn lấp
lòng chảo. Đá và thương phóng rào rào xuống từ đủ mọi hướng, giờ thì người
khổng lồ biết họ đã bị vây kín.

"Bá tước đang nổi giận,"
một giọng khàn khạt rống vang. "Ngài đã trừng phạt tao vì mày trốn thoát,
Otus Yewbeam. Nên bây giờ đến lượt tao trừng phạt mày."

Người khổng lồ nhận ra đó là Ngón Cái
Dị, đầu sỏ đội lính canh của Harken. Hắn to xác hơn những đứa khác, với bộ mặt
xám ngoét như xác chết, nhưng đặc điểm khiến hắn nổi bật lên tất cả là ngón cái
trên bàn tay phải - to xù, u mấu, chè bè, rộng hơn cả lòng bàn tay hắn.

Ngài Otus né một hòn đá bắn ra từ bộ
giằng ná của Ngón Cái Dị.

"Gương Thần, cha." Roland
hét. "Dùng Gương Thần để tự cứu mình đi cha. Chắc chắn mẹ đã mong ước điều
đó".

Ngài Tolemeo dừng chạy, ngoái gọi lại:
"Đúng vậy, Otus. Hãy đưa Gương Thần cho chúng. Vậy sẽ làm chậm bước chúng.
Tôi sẽ cứu con trai anh, nhưng anh phải tự lo lấy."

"Hãy cứu Roland," người
khổng lồ thét. Ngài thảy Gương Thần lên trời cao. Tất cả những cái mặt quỷ lùn
đồng loạt nghểnh lên kinh hãi và chết trân khi vòng ánh sáng rơi cuồng cuộn
xuống đất, phát ra những tia sáng chói lói xuyên qua những đôi mắt yếu ớt của
chúng, làm mắt chúng lòa trong một thoáng.

Một tiếng rú đau đớn và điên cuồng
bùng lên. Gương Thần rớt phạch trúng chân Ngón Cái Dị. Hắn có thể cảm nhận sức
nặng của Gương Thần nhưng không thể nhìn thấy nó.

"Tạm biệt, Otus!" Ngài
Tolemeo gọi.

Người khổng lồ quay lại.

Ngài Tolemeo đang bay lên khỏi mặt
đất, với Roland và Owain tóm chặt lấy hai tay ngài. Cao lên, cao lên nữa. Khi
họ bay qua lòng chảo, tấm áo chùng lông chim tung phần phật quanh họ, trong khi
mặt nước hồ đen bị quạt gợn sóng theo làn gió. Khi họ bay lên khỏi những ngọn
cây viền quanh hồ, hai cái cánh xòe ra phía sau ngài Tolemeo. Ngài lướt không
khí phăng phăng, nằm ngang ra như người đang bơi đồng thời với đôi cánh quạt
một cách trang nhã trên linh. Có lẽ ngài là con chim to lớn nhất từng bay qua
bầu trời đầy sao, đó là chưa tính tới hai thân hình nhỏ xíu đang bám lấy ngực
ngài.

Một nụ cười mãn nguyện giãn ra trên
gương mặt ngài Otus Yewbeam, và trong những năm tháng dài cô độc về sau này, nụ
cười đó thỉnh thoảng vẫn lặp đi lặp lại biết bao lần mỗi khi người khổng lồ hồi
tưởng lại khoảnh khắc ấy.

Lũ quỷ lùn đã hồi phục thị giác.
Chúng lao xuống hồ, vung dùi cui, gầm gừ chửi rủa. Người khổng lồ biết có chạy
cũng vô ích. Ngài thấy Ngón Cái Dị đã nhặt Gương Thần lên. Rốt cuộc thì cái
bóng sẽ có được vật mà hắn muốn.

Báo cáo nội dung xấu