Charlie Bone (Tập 7) - Chương 08

Cơn gió độc địa

“Weeedon! Weedon!”

Charlie nghe thấy tiếng thét trong
mảnh sân gạch bên dưới phòng ngủ chung. Nhảy phốc khỏi giường, nó
phóng ra cửa sổ. Ở đó đã có năm sáu thằng bu lấy khung kính.

“Đó là thầy Giám Sát Tài
Phép”, một thằng năm nhất phấn khích la to.

“Xem đầy thủy tinh kìa,” một
thằng khác quan sát.

“Ai đó ném gạch trúng cửa sổ,”
Bragger Braine, đứa năm hai tiếp lời.

“Đồ ngu,” Dagbert phọt miệng.
“Thủy tinh từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài, nếu có gạch ném
xảy ra.”

“Mày nghĩ mày thông minh thế à?”
Rupe Small, nô lệ cúc cung của Bragger hằn học nói.

Một đống thủy tinh vỡ lấp loáng
dưới sàn. Manfred đang chậm rãi đi vòng quanh, sục mũi giày về đống
thủy tinh, ngồi xổm xuống dùng một cây bút chì chọc chọc vô.
“Weedon!” Hắn réo gào. “Lại đây mau!”

Ông hiệu trưởng, giáo sư Bloor,
mở cánh cửa sổ phía trên thư phòng của Manfred và hỏi, “Cái quái
quỷ gì thế, hở?”

“Coi đây!” Manfred gào lên, bật
đứng dậy. “Coi cái này này!” Hắn lại quăng tay chỉ vào đống thủy
tinh vỡ.

“Sao lại có chuyện đó xảy ra?” Cha
của hắn chất vấn.

Charlie thấy Manfred ngần ngừ.
Cái quái gì xảy ra tai nạn này thì hiện tại sẽ là bí mật của
Manfred. “Làm sao tôi biết?” Hắn quát, giọng hắn bị kích động lên tới
nốt cuồng loạn.

“Ta cho rằng đó là một trong
những thí nghiệm của anh,” giáo sư Bloor nói.

“KHÔNG phải!” Manfred rít rống.
“Weedon đâu rồi?”

“Hắn đang lau dọn phòng của ta.
Chứ còn ở đâu nữa?” Giáo sư Bloor thình lình phát hiện những gương
mặt lô nhố trong khung cửa sổ phòng ngủ chung, bèn gầm vang, “Đi ngủ
hết đi! Không ta sẽ cấm túc cả đám.”

Tức thì một trận chen chúc
cuống cuồng tránh xa khỏi cửa sổ. Mười hai thằng bé lao về giường
của chúng và kéo chăn lên tịt mít đầu. Chúng chờ bà giám thị đùng
đùng xông vô, nhưng tối nay mụ ta đang có những việc khác chiếm lĩnh
đầu óc.

Clearwen nằm úp trong những chiếc
lá úa vàng giữa hai viên sỏi đồng màu. Nó thu mình nhỏ hết cỡ trong
khi gã Weedon hốt mảnh thủy tinh xung quanh. Gã ụt ịt rên rỉ trong
họng khi cúi xuống quét những mảnh vụn vô cái đồ hốt rác.

“Đổ tất cả vô đây, Weedon.”
Manfred chìa ra một cái túi nylon trong suốt.

“Ngài định làm gì với nó?” Gã
Weedon hỏi. “Dùng chúng để thực hiện nghệ thuật sắp đặt à?”

“Không phải việc của lão,”
Manfred nạt, cả hắn cũng đang tỉ mẩn quét nước. “Và nhớ cho ta biết
lão có thấy gì bất thường không.”

“Kiểu khác thường gì?”

“Ồ, lão thừa biết,” Manfred nóng
nảy. “Bất cứ cái gì không phải thủy tinh: có lẽ một con ruồi, hay
một con bướm.”

“A!” Gã khụt khịt. “Giờ thì tôi
hiểu rồi.”

Gã gác cổng tiếp tục gác thêm
nửa giờ nữa, nhưng nhiệt độ đang tụt xuống nhanh lẹ và chẳng bao lâu
sau cả mảnh sân rải sỏi đã bắt đầu lóng lánh sương giá.

“Không hay rồi, ngài Manfred,” gã
Weedon lầu bầu. “Tôi không thể phân biệt được thủy tinh với sương. Tôi
chịu thua.” Gã đổ nhúm rác cuối cùng vô bao nylon rồi đi qua cánh cửa
vô Tháp Phía Tây.

Manfred đứng thẳng lên, xoa xoa
cái lưng. Chắc hắn vẫn còn đau do vết thương mà những con báo đã
tặng hắn. Nhưng hắn chưa hề tính đến chuyện bỏ cuộc. Hắn không chịu
tin con bướm đã trốn thoát khỏi hắn hoàn toàn. Không hòn nào thoát
khỏi con mắt hung dữ của hắn.

Clearwen chờ. Trông cô nàng như
một vật chết: một vân lá, một vân cỏ. Mãi đến khi Manfred từ bỏ
cuộc tìm kiếm, cô nàng bò ra khỏi chỗ núp và di chuyển về phía bức
tường nhà nguyện. Ở đó cô nàng nằm trong vũng sáng từ cửa sổ kính
màu hắt xuống. Cô nàng biết mình phải tới được Charlie trước khi
thằng bé lại cố chu du lần nữa, nhưng lộ trình tới phòng ngủ chung
vừa dốc vừa nguy hiểm đối cới con sâu bướm tí nị mà cô nàng vừa
biến thành. Để trốn được Manfred, Clearwen đã phải thay đổi hình dạng
lần nữa. Phải mất ít thời gian thì cô nàng mới trở lại là con bướm
trắng như cũ.

Chiều thứ Sáu, khi lũ trẻ đi thu
xếp đồ đạc để ra về, Clearwen vẫn biệt tăm.

Trước đó Charlie đã tận dụng
từng phút rảnh rỗi để lùng tìm con bướm của mình nhưng chả thấy tăm
tích nó đâu. Và rồi lúc nó với Billy đang xếp hàng đằng sau cánh
cửa đôi đồ sộ bằng gỗ sồi, chờ gã Weedon mở cửa, Tancred phóng bay
tới từ phía sau Charlie, thì thào, “Charlie, Dagbert nói nó đã bắt
được con bướm của em.”

“Cái gì!” Buông cái giỏ rớt
xuống sàn, Charlie quay phắt lại và tìm dáo dác hàng con nít đằng
sau mình.

“Nó không có ở đây,” Tancred bảo.
“Nó đang học thêm với thầy Giám sát Tài Phép.”

“Em không quan tâm nó ở đâu,”
Charlie nói lớn.

“Suỵt! Em bị cấm túc bây giờ.”
Tancred cảnh báo. “Chờ đến khi tụi mình ra ngoài đã.”

Gã Weedon đã xuất hiện. Thở
hồng hộc và càm ràm, gã tháo những cái then sắt to kềnh ra và lách
cách tra chiếc chìa quá khổ vô ổ khóa. Cuối cùng cánh cửa mở toang
và gã gác cổng quạu quọ đứng qua bên trong khi bọn trẻ tuôn qua người
gã ra ngoài trời tự do.

Ba chiếc xe buýt đang đợi sẵn
trên quảng trường. Charlie đứng chờ ở bậc thang trong khi bọn khoa Nhạc
leo vô chiếc xe buýt xanh da trời đằng trước nó. Khi Tancred hiện ra,
Charlie chụp lấy cánh tay anh.

“Thế, con bướm của em ở đâu?”

“Anh đã bảo em rồi,” Tancred lẳng
tấm áo chùng xanh lá cây ra xa vai. “Dagbert nói nó bắt được con bướm.
Nó đòi trao đổi con bướm với con nhím biển của nó.”

“Ý anh nói gì?” Charlie kêu to.

Sải bước về chiếc xe buýt xanh
lá cây, Tancred nói, “Ý anh nói rằng nó sẽ đổi con bướm của em lấy
con nhím biển bằng vàng của nó mà anh đã thu giữ vào cái đêm nó cố
ý dìm chết em.”

“Vậy chừng nào anh định đổi nó?
Charlie nhùng nhằng bám sát gót Tancred ra tới tận chỗ chiếc buýt
xanh lá cây.

“Thì thế đó, Charlie. Anh không
nghĩ mình chịu để nó có lại con nhím biển. Không có con nhím thì
nó không quá nguy hiểm.” Tancred bắt đầu leo lên xe buýt.

“Anh phải đổi,” Charlie nhảy lên
bậc thang cuối của xe buýt.

“Em trễ xe buýt bây giờ,” Tancred
nhắc nó. “Xuống mau đi, Charlie. Xe này đi hướng khác.”

“Mặc kệ.”

“Tụi mình sẽ tìm ra cách khác
để lấy lại con bướm của em,” Tancred nói khi đi về phía cuối xe buýt.

“Xuống đi, cậu xanh da trời kia,”
bác tài xế ra lệnh, “không tôi bảo ông gác trường điệu cổ cậu xuống
bây giờ.”

Charlie nhảy xuống khi chiếc xe
buýt xanh lá cây rùng rình ra khỏi quảng trường. Xe buýt của nó cũng
đã bắt đầu chuyển bánh và nó chỉ vừa kịp nhảy lên. Cả Gabriel và
Fidelio cùng kéo nó vô, thả nó nằm phì phò ở giữa lối đi, trong khi
bác tài xế than thở rằng lũ trẻ chẳng hiểu được ai sinh ra và nuôi
lớn chúng.

Gabriel gác giỏ xách của Charlie
lên ngăn để hành lý, trong khi Charlie đứng dậy và ngồi phịch vô ghế
bên cạnh Fidelio.

“Có chuyện gì thế?” Gương mặt lo
lắng của Billy ngó vòng qua lưng ghế của Charlie.

“Để anh nói em biết sau,” Charlie
nói, chìm nghỉm xuống. Nó quay qua Fidelio thì thầm, “Dagbert bắt được
con bướm của em, nhưng nó đòi đổi lấy món đồ mà Tancred đã lấy của
nó.”

Fidelio nhìn sững Charlie. “Anh
ước gì có nơi nào đó cho đám tụi mình gặp gỡ. Anh phải diễn tập
với dàn nhạc Trẻ suốt cuối tuần, nhưng anh sẽ rảnh vào tối Chủ
nhật. Giờ em định làm gì khi quán cà phê Thú Kiểng bị đóng cửa?”

Từ hàng ghế phía sau chúng, Gabriel
nói, “Làm cho quán cà phê mở của lại. Tôi sẽ đi gặp ông Onimous.”

“Nhưng ông ấy…” Charlie bắt đầu.

“Chưa chết,” Gabriel nghiêm nghị.

Chiếc xe buýt chạy ngoằn ngoèo
khắp thành phố trong khi lũ trẻ nhảy xuống tại những trạm gần nhà
chúng và biến mất vào trời tối. Đèn đường đã bật, nhưng ánh sáng
không thể vươn tới những ngõ hẻm quanh co, tối hù, nơi tiếp giáp
đường Đồi Cao.

Gabriel sống trên đường Đồi Cao,
một con đường dốc đá nhìn xuống thành phố. Anh là người đầu tiên
xuống trạm ở chân đồi, nhưng hôm nay anh đợi đến khi xe tới quãng
đường hẹp dẫn vô quán cà phê Thú Kiểng mới xuống.

“Mẹ tôi đang ở đó,” ảnh bảo.
“Mẹ tôi bảo sẽ không để bà Onimous một mình sau tất cả những chuyện
xảy ra.”

Charlie nhìn Gabriel quẹo vô hẻm
Ếch và co giò chạy. Trong tất cả bọn chúng, Gabriel là người gần gũi
với gia đình Onimous nhất. Mẹ anh làm phục vụ trong quán, và gia đình
chuột kiểng đông đúc của anh luôn là khách được chào đón ở đấy.

Charlie và Billy rời xa buýt ở
đầu đường Filbert và đi bộ về nhà số 9. Khi chúng gần về đến nhà,
Charlie thấy Benjamin đứng ở bậc cấp trên cùng nhà số 12. Benjamin đang
nhòm trừng trừng nhà của Charlie bên kia đường. Vừa nhác trông thấy
Charlie, thằng này chui tọt vô nhà và đóng sầm cửa trước lại.

Charlie thở dài. “Nó sẽ không
nói chuyện với anh nữa cho tới khi nó gặp lại Hạt Đậu.”

“Có lẽ em sẽ nhìn một chút vô
bức tranh,” Billy nói.

“Quên đi, Billy. Nếu em bị bắt vô
xứ Badlock, anh sẽ không bao giờ cứu em ra được đâu. Nếu không có
Clearwen.” Bất thần Charlie nghĩ đến người khổng lồ. Không có Clearwen,
có thể nó sẽ không bao giờ gặp lại tổ tiên của mình.

Hai thằng bé bước vô hành lang
và hướng thẳng tới nhà bếp. Ngoại Maisie đang nấu món gì đó thơm
lừng đến nỗi miệng chúng tứa nước.

Rủi thay, ngoại Maisie không phải
là người duy nhất ở trong bếp. Nội Bone đang ngồi trong chiếc ghế bập
bênh của mụ bên cạnh bếp lò.

“Aaa!” Bộ mặt cấm cẳn của nội
Bone vỡ phụp ra một nụ cười. “Billy Raven, cuối cùng cũng tới. Ta đã
tự hỏi khi nào thì mi sẽ lại tới thăm bọn ta đây.”

“Chào, bà Bone,” Billy lấm lét
nói.

“Treo mũ áo trong hành lang á,
lũ nhóc.” Nội Bone chỉ ra cửa. “Và đem giỏ sách lên lầu. Bọn ta không
thích đem đồ ngoài đường vô nhà bếp ấm cúng của bọn ta phải không
Maisie?”

“Tôi chẳng phiền gì,” ngoại
Maisie nói, bắc một cái nồi lớn ra khỏi bếp lò.

Nội Bone mắng bà “Thì tùy đấy”
rồi xua hai thằng bé đi.

“Ngoại Maisie, Hạt Đậu có…”
Charlie bắt đầu.

“Theo bà biết thì, không có gì
ra khỏi tầng hầm cả,” ngoại Maisie nói. “Chắc bà kia có thể nói cho
con biết bà ta có thấy gì không.”

“Lũ nhóc áo chùng.” Nội Bone
quát.

Billy trở ra hành lang và Charlie
theo sau, cố không vuột ra lời gì đó thô lỗ. Treo áo chùng xanh da
trời lên mắc để mũ xong, hai thằng bé vù lên lầu thảy giỏ xách vô
phòng Charlie rồi chạy ù xuống bếp.

“Dọn bàn, Charlie,” nội Bone ra
lệnh, bập bênh chiếc ghế tới lui. Hình như mụ đang phấn khích về cái
gì đó.

Charlie vâng lời sắp bàn ra cho
năm người ăn.

“Bốn thôi,” bà nội nó hằm hè.
“Ông cậu Paton của mày không có ở nhà, ơn trời. Ăn dưới ánh nến
khiến tao phát ớn.”

Charlie cất bớt một con dao và
một cái nĩa đi, tất cả cùng ngồi xuống trong khi ngoại Maisie mang
thịt cừu hầm lên bàn, và bắt đầu múc ra. Món này tất nhiên là mê ly,
cư Charlie hy vọng rồi, nhưng bữa ăn bị ô nhiễm bởi sự có mặt lù lù
của nội Bone – bởi tiếng húp xì xụp mụ phát ra, bởi tiếng mụ ợ hơi
và cái kiểu mụ hay đảo mắt nhìn đĩa của mọi người.

Bữa ăn sắp xong thì Charlie nghe
thấy một chiếc xe lớn lái tới tấp vô lề đường bên ngoài nhà. Qua kẽ
hở của những tấm rèm nó thấy một chiếc xe thùng màu trắng vừa đậu
ngay trước cửa sổ nhà bếp. Nó ngạc nhiên khi Ông cậu Paton nhảy ra,
đóng vội cửa xe lại và chạy vô nhà, chiếc mũ phớt đen sụp xuống che
mặt. Charlie thầm mong cho mọi sự êm thấm và nhìn đèn đường. Không có
gì nổ tung.

“Phùù!” Charlie mừng húm ngay
lúc cửa trước mở cái ình.

“Có ai làm ơn tắt đèn đi,” Ông
cậu Paton gọi từ ngoài hành lang.

Ngoại Maisie buộc phải thắp nến
lên trong khi Charlie phóng ra tắt đèn.

“Mi đã ở đâu mất mặt suốt cả
tuần hả?” Nội Bone hoạnh họe khi Ông cậu Paton bước vô.

Quăng cục lơ vào câu hỏi của mụ,
Ông cậu Paton chép miệng “Có món gì thơm quá.”

Ông đặt chiếc cặp táp sờn rách
bên cạnh cửa và kéo một chiếc ghế tới bàn.

“Tao vừa hỏi mi đó,” nội Bone
nói.

“Thì bà hỏi, Grizelda.” Ông cậu
Paton xoa hai tay vào nhau khi ngoại Maisie đặt một đĩa thịt cừu bốc
khói trước mặt ông. “Tôi không thấy lí do để trả lời câu hỏi của bà.
Tôi làm gì là việc của tôi.” Ông quay qua Charlie. “Con chó chưa xuất
hiện phải không, Charlie?”

Charlie lắc đầu. “Hạt Đậu vẫn
bị kẹt.”

“Nhưng có lẽ con có thể nói
chuyện với nó,” Billy nói.

Ông cậu Paton nhíu mày. “Không
được, Billy.” Ông bắt đầu xơi món cừu trong đĩa của mình.

“Nhưng có thể…” Billy nôn nóng
nhoài người về trước.

“Không,” Ông cậu Paton dứt khoát.
“Chúng ta sẽ tìm cách khác. Mặc dù ta thú thực rằng trong nghiên cứu
của mình ta chưa bao giờ nghe nhắc đến việc chó bị kẹt trong tranh.”

“Nghiên cứu! Nghiên cứu!” Bà chị
của ông gầm gừ, rời bàn. “Thò mũi vô chuyện người khác thì có. Mi
nghĩ điều đó sẽ đưa mi tới đâu?”

“Về cá nhân tôi thì không tới đâu
cả, bà chị à. Tuy nhiên những gì tôi khám phá ra lại có ích cho
khối người khác.” Ông cậu Paton liếc nhìn Billy Raven.

Charlie nhìn theo bà nội nó hằm
hằm đi ra cửa. Ở đó mụ chần chừ, bàn tay phải suýt giơ lên bật công
tắc đèn. Nó có thể thấy mụ hết sức ham muốn bật cái bóng đèn treo
phía trên bàn lên. Nếu mụ mà bật thì Ông cậu Paton sẽ bị dội mưa
thủy tinh và đĩa đồ ăn của ông sẽ đầy mảnh vụn. Nhưng mụ chỉ lần
chần rồi, với một cái nhún vai nhẫn nhục, mụ rời khỏi phòng.

“Chính xác thì là ông nghiên cứu
gì thế ạ, ông Yewbeam?” Billy hỏi.

“À, nghiên cứu của ta,” Ông cậu
Paton mỉm cười, hình như với chính mình thì đúng hơn. “Ta đang viết
về lịch sử dòng họ nhà ta, Billy à. Gia đình YewBeam. Nhưng việc đào
xới và khoan xoáy quá khứ lại dẫn ta đi sâu vô cuộc đời của nhiều
người khác. Không thành phố nào trên đất nước này giống như thành
phố này, con biết đấy. Trước hết, nó được xây dựng bởi một thầy
pháp, hơn nữa, và một vị vua. Nhưng thầy pháp, những người tốt và
kẻ xấu giờ đây nằm lẫn trong từng tấc đất của nơi này. Giống như
một lớp vỉa quặng ăn liền vô đất trồng, đá và đất sét, đá vôi và
đất mùn bên dưới bước chân chúng ta.”

Ngoại Maisie khẽ thốt lên “Chậc!”
rồi lắc đầu bảo “Có cần thiết phải mua một chiếc xe moóc to như thế
không, Paton?”

“Tổ tiên của chúng tôi ở rải
rác khắp đất nước,” Ông cậu Paton đáp. “Tôi phải đi tới những nghĩa
trang, thư viện, nhà riêng, văn phòng hội đồng, đại loại thế. Khi đêm
xuống, tôi thường nhận ra mình ở xa nhà. Chắc chắn tôi không thể vô
khách sạn được, với tất cả đèn đóm sáng trưng như thế. Tôi chỉ còn
lựa chọn duy nhất là ngủ trên băng ghế công viên.”

“Và bị bóp cổ từ phía sau,”
Billy nói.

“Bóp cổ, đúng. Chính xác,
Billy.” Ông cậu Paton múc muỗng cuối cùng, tuyên bố đó là món hầm
ngon nhất mình từng ăn, và ngồi ngửa lưng ra sau thở một cái thật khoan
khoái.

“Ông đã tìm ra cái gì thú vị
chưa ạ, ông YewBeam?” Billy hỏi tiếp.

Ông cậu Paton nhìn Billy một
thoáng, như thể đang quyết định xem có nên bộc lộ với thằng bé hay
không. Cuối cùng ông đáp, “Có chứ, Billy. Có thật sự. Nhưng hiện tại
những manh mối vẫn còn mù mờ. Để tới lúc ta tháo gỡ được những chi
tiết rối rắm, rồi thì…” Ông ngừng lại, “rồi thì sau đó, cuộc sống
của nhiều người sẽ đột ngột thay đổi… đầy kịch tính.”

Charlie có ấn tượng là những
lời nói của Ông cậu Paton rất có ý nghĩa với Billy, đúng là riêng
với Billy, đến nỗi cuộc đời thằng bé có thể thay đỏi hoàn toàn.
Phải chăng Ông cậu Patton đã phát hiện điều gì đó về cha mẹ thằng
bé?

Ông cậu Paton không nói gì thêm
về nghiên cứu của mình nữa. Thay đổi đề tài, ông hỏi ngoại Maisie có
gì xảy ra với bức tranh trong khi ông đi vắng không.

“Ông không nghĩ tôi nhìn vô tầng
hầm đấy chứ?” Bà bắt bẻ. “Sau những gì xảy ra với con chó tội
nghiệp. Vả lại bà chị của ông khóa tịt cửa rồi.”

“Tôi chỉ tự hỏi, bà biết đây,
xem bà có nghe thấy tiếng sủa hay tiếng tru… gì đó không.” Ông cậu
Paton nói.

“Không.” Ngoại Maisie thu dọn đĩa
và đem ra bồn rửa. “Nhưng tôi hay thấy Benjamin Brown cứ nhìn đau đáu
qua bên đây như thể trái tim nó tan vỡ.”

“Con phải làm gì đây?” Charlie kêu
lên, ụp hai tay che mặt. “Con sẽ cố cứu Hạt Đậu, cho dù không có
Clearwen.”

“Con bị mất con bướm à?” Ông cậu
Paton lo lắng.

“Con biết nó ở đâu? Nhưng con chưa
thể lấy nó lại được.”

“Sao chưa?” Ông cậu của nó nói.

“Quá phức tạp để giải thích.”

Ông cậu Paton chấp nhận câu trả
lời này một cách miễn cưỡng. “Chừng nào chưa tìm thấy con bướm thì
đừng nhìn vô tầng hầm. Đó là mệnh lệnh.” Ông đứng lên và đẩy ghế vô
bàn. Chúc mọi người ngủ ngon, ông cắp cặp táp vô nách, lấy một cây
nến từ trên tủ đựng ly chén và đi lên phòng riêng.

Khi ngoại Maisie nghe thấy tiếng
cửa phòng Ông cậu Paton đóng lại, bà bật đèn bếp và giơ một chiếc
khăn lau bát đĩa lên, “Nào các cậu bé. Ai sẽ lau đây?”

Billy xí lau bát đĩa, còn Charlie
cất chúng đi. Ngoại Masie là người rửa chảo nồi sạch nhất.

Nửa giờ sau, khi Charlie và Billy
đang leo lên cầu thang, một cơn gió lạnh quét qua hành lang. Lớp áo
khoác trên mắc đu đưa trong cơn gió, hai bức tranh trên tường xệch qua
bên, tấm thảm chùi chân đặt ở cửa bị nhấc lên một đầu, và chiếc mũ
phớt của Ông cậu Paton vọt lên trần nhà, lật ngửa ra rồi rơi phịch
xuống đất.

“Cái gì đó?” Billy bám chặt lấy
thanh vịn cầu thang.

“Không biết.” Charlie tới nhặt
chiếc mũ của ông cậu lên. Nó không hề nghe thấy tiếng gió ngoài
đường, không có tiếng cửa lạch cạch, không có cây cối xào xạc. Nó
ngó xuống hành lang dấn tới tầng hầm. Nó có thể đoán cơn gió độc
từ đâu thổi tới nhưng quyết định không nói cho Billy biết.

Hay là cái bóng đã chạm tới
chúng, ở ngay tại đây?

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3