Trăm năm cô đơn - Chương 18 - Phần 2
Aurêlianô về phòng và
không ra khỏi đấy nữa, kể cả khi nghe thấy tiếng ồn ào của đám tang cô đơn chú
cũng không vì tò mò mà bước ra. Thỉnh thoảng, từ nhà bếp Aurêlianô nhìn thấy
Hôsê Accađiô đi đi lại lại quanh nhà để mà lịm đi trong nhịp thở đầy khao khát
dục vọng của mình, và đến quá nửa đêm chú vẫn còn dõi theo tiếng bước của Hôsê
Accađiô trong các phòng ngủ đổ nát. Trong nhiều tháng Aurêlianô không nghe thấy
tiếng nói của Hôsê Accađiô, chẳng phải chỉ vì anh ta không nói với chú, mà còn
vì chú chẳng muốn có chuyện gì xảy ra và chẳng muốn mất thời gian suy nghĩ về bất
cứ việc gì ngoài những tấm da thuộc kia. Khi Phecnanđa chết, Aurêlianô đã lấy đến
con cá vàng gần như là con cuối cùng và đã đến hiệu sách của nhà thông thái xứ
Catalunha để mua những cuốn sách mà chú cần. Trên đường đi, Aurêlianô chẳng hề
quan tâm tới những gì mà mắt mình nhìn thấy, có lẽ vì chú không có những ký ức
về chúng để so sánh, và những con đường vắng vẻ, những ngôi nhà buồn tẻ cũng chẳng
khác gì những con đường và những ngôi nhà chú đã từng tưởng tượng thấy trước
đây, khi chú còn khao khát làm quen với chúng. Aurêlianô đã tự cho phép mình
làm điều mà Phecnanđa cấm, đó là lần duy nhất với mục đích duy nhất và trong một
khoảng thời gian vô cùng ngắn ngủi, chú đi một mạch qua mười một ô phố ngăn
cách nhà mình với con đường mà ở đó trước đây người ta thường đoán mộng, rồi
khó khăn lắm mới vào đến một nơi nhem nhuốc, tối tăm và chật chội đến mức dường
như không thể xoay trở được thân mình. Ngôi nhà chẳng giống một hiệu sách mà giống
như một nơi chứa rác với những cuốn sách cũ để lộn xộn trên những chiếc giá đã
bị mọt, trong các xó xỉnh đầy mạng nhện, và ngay cả ở những chỗ lẽ ra là lối
đi. Trên một chiếc bàn dài cũng chất đầy sách, chủ nhà đang viết một bài văn
dài dằng dặc với những chữ bay bướm và hơi rối rắm trên những tờ giấy rời xé từ
cuốn vở học trò. Ông ta có một mái tóc bạc rất đẹp và nhô ra trước trán, trông
giống chiếc mào của con chim dẻ cùi; đôi mắt màu xanh, linh lợi và hẹp toát ra
sự nhân từ của một người đã từng đọc tất cả các thứ sách. Ông ta mặc một quần cộc
đẫm mồ hôi, và không ngừng viết để xem ai đến. Aurêlianô dễ dàng thấy năm cuốn
sách mình cần giữa đống sách hỗn độn đó, bởi vì nó nằm đúng ở chỗ Menkyađêt đã
bảo cho chú biết. Không nói một lời nào, Aurêlianô đưa cho ông già thông thái
người xứ Catalunha năm cuốn ấy và con cá vàng; ông già ngắm nghía những thứ đó,
đôi lông mày ông nhíu lại như hai con sâu róm.
“Có lẽ mày điên chắc.”
Ông già vừa nói bằng ngôn ngữ địa phương của mình vừa nhún vai, rồi đưa lại cho
Aurêlianô năm cuốn sách và con cá vàng.
- Hãy mang chúng đi,
- ông già nói tiếng Catalan[39] -
Người duy nhất đọc những cuốn sách này là cụ Isăc, Người MÙ[40].
Vậy chú mày hãy nghĩ kỹ về việc mình làm.
[39] Một thứ tiếng địa phương được dùng ở Catulut,
thuộc Tây Ban Nha.
[40] Nhân vật trong Cựu ước, là con của Abraham
và Sara và là cha của Jabơ.
Hôsê Accađiô sửa chữa
lại phòng ngủ của Mêmê, anh sai quét dọn, sửa lại các tấm rèm cửa bằng nhung và
tấm trướng gấm trước chiếc giường phó vương, và sử dụng lại phòng tắm đã bị bỏ
mà cái bồn chứa nước bằng xi măng ở đó bị váng nước đặc và bẩn làm cho đen lại.
Trong hai căn phòng ấy, sự cao ngạo của các loại vật dụng, của những thứ hàng
ngoại lai, của các thứ nước hoa rởm và của các loại đá trang sức rẻ tiền đã giảm
hẳn đi. Thứ duy nhất ở trong phần còn lại của ngôi nhà cản trở Hôsê Accađiô là
những bức tượng thánh trên bàn thờ, do đó một buổi chiều anh ta đem chúng đất
thành tro trên một đống lửa nhóm ở sân. Hôsê Accađiô ngủ đến quá mười một giờ.
Anh chàng vào nhà tắm với một chiếc áo rộng mặc trong nhà được trang điểm bằng
cách rút chỉ và thêu hình con rồng màu đỏ, đi đôi dép có đường viền màu vàng;
và ở đó, vừa cầu kinh chậm rãi và kéo dài, anh ta vừa nhớ đến Rêmêđiôt - Người
đẹp. Trước khi tắm, Hôsê Accađiô dùng các chất muối đựng trong ba chiếc lọ bằng
đá vân vẩy thơm bồn đựng nước. Anh chàng không lấy gáo làm bằng vỏ quả bí để dội
nước lên người mà lại ngâm mình trong nước thơm ngát, nằm ngửa ở đó đến hai giờ
đồng hồ mơ màng với sự mát mẻ và với nỗi hoài nhớ Amaranta. Vài ngày sau khi trở
về, Hôsê Accađiô đã bỏ bộ quần áo bằng lụa đen, không những vì nóng mà còn vì ở
đây bộ đồ ấy chỉ mình anh ta có thôi thay vào đó anh ta mặc quần chẽn, rất giống
quần của Piêtrô Crêspi mặc trong những buổi dạy khiêu vũ và chiếc áo bằng lụa
tơ tằm có thêu những chữ viết tắt tên mình trên ngực. Mỗi tuần hai lần anh
chàng giặt tất cả những quần áo thay ra, và trong khi chờ quần áo ấy kịp khi
anh ta mặc bộ đồ rộng dùng trong nhà, vì chẳng còn bộ nào khác. Không bao giờ
Hôsê Accađiô ăn ở nhà. Anh chàng đi khỏi nhà từ lúc cái nóng ban trưa bắt đầu dịu
đi và khuya mới trở về. Khi ấy anh chàng tiếp tục đi đi lại lại buồn bã, thở
hít như một con mèo, và nghĩ tới Amaranta. Bà ta và cái nhìn hết hoảng của cái
vị thánh trong ánh sáng của ngọn đèn đêm là hai kỷ niệm còn lại trong anh chàng
về ngồi nhà này. Rất nhiều lần, vào cái tháng tám kỳ lạ ở Rôm, giữa giấc mơ
Hôsê Accađiô mỏ mắt trừng trừng và nhìn thấy Amaranta từ trong bể nước xây bằng
đá vân chui lên, với chiếc váy mỏng và chiếc băng đen băng trên tay, bà đã được
lý tưởng hoá bởi nỗi buồn khổ của kẻ sống biệt xứ. Nếu như Aurêlianô Hôsê cố gắng
dìm nghẹt hình ảnh đó trong bùn máu của chiến tranh, thì ngược lại, Hôsê
Accađiô lại cố gắng lưu giữ nó sống động trong bùn lầy của dục vọng, trong khi
làm vui lòng bà mẹ với sự dơi trá về lòng ước muốn trở thành Giáo hoàng. Cả
Hôsê Accađiô và Phecnanđa đều không bao giờ nghĩ rằng những thư từ họ viết cho
nhau là sự trao đổi về những điều bịa đặt hoang đường. Hôsê Accađiô, từng bỏ lớp
học chuyên đề ngay sau khi đến Rôm, vẫn tiếp tục đọc sách về thần học và luật
tu hành để tránh nguy hiểm cho việc thừa kế tài sản lớn lao mà mẹ anh ta thường
nói đến trong những bức thư đầy cám dỗ, và nó có thể giải thoát cho anh ta khỏi
cảnh sống nghèo khó và bẩn thỉu mà anh ta đang chung đụng với hai người bạn
trên một chiếc gác xép ở Tristêvêra. Khi Hôsê Accađiô nhận được lá thư cuối
cùng của Phecnanđa, lá thư được viết theo dự cảm về cái chết đang đến gần, anh
chàng liền nhặt những mảnh cuối cùng của đồ trang sức giả của mình bỏ vào
va-li, rồi chui vào hầm một chiếc tàu thuỷ để vượt biển, tại đó những người di
cư chen chúc như một lũ bò ở lò sát sinh, họ ăn mì ống và pho mát đã có giòi.
Trước khi đọc bản chúc thư của Phecnanđa - bản chúc thư chỉ là một bản tóm tắt
vụn vặt và muộn màng những sự bất hạnh - thì những thứ đồ đạc đã rêu rã và những
đám cỏ dại ở hành lang đã chỉ cho Hôsê Accađiô biết rằng anh ta đã rơi vào một
cạm bẫy không bao giờ có thể thoát ra được, đã bị đẩy ra khỏi cái vầng sáng của
kim cương và bầu không khí cổ kính của mùa xuân xứ Rôm. Những lúc mất ngủ đầy mệt
mỏi vì bệnh hen, Hôsê Accađiô đo đi đo lại chiều sâu nỗi bất hạnh của mình, và
lục lọi ngôi nhà u tối, ở đó tiếng la hét già nua của Ucsula đã từng khiến cho
Hôsê Accađiô khiếp sợ thế giới bên ngoài. Ðể chắc chắn là chú bé Hôsê Accađiô
không lạc trong sự mịt mù, xưa kia cụ đã bắt chú phải ở cố định trong một góc
phòng ngủ, đó là nơi duy nhất của chú, còn những người chết thì thường đi đi lại
lại trong nhà từ lúc trời về chiều. “Bất cứ một việc làm xấu gì của mày các
thánh cũng sẽ nói với ta.” Ucsula bảo chú thế. Những đêm hãi hùng thuở ấu thơ của
Hôsê Accađiô đã thu lại trong góc nhà, ở đó chú bé phải ngồi yên như bất động
trên một chiếc ghế cho đến giờ đi ngủ, toát mồ hôi vì khiếp sợ, dưới cái nhìn cảnh
giác và lạnh lùng của các vị thánh mách lẻo. Cái hình phạt ấy thật là vô ích, bởi
vì thuở ấy Hôsê Accađiô đã sợ hãi tất cả những gì ở quanh mình và đã được chuẩn
bị sẵn sàng để giật mình kinh sợ trước bất cứ cái gì sẽ gặp trong cuộc đời: những
người đàn bà ngoài xã hội nếu không nghe lời cha mẹ sẽ bị băng huyết; những người
đàn bà trong gia đình này nếu không cẩn thận sẽ đẻ ra những đứa con có đuối lợn,
những con gà chọi đưa lại cái chết cho những người đàn ông và sự giày vò lương
tâm cho những người khác; những khẩu súng mà chỉ sờ vào thôi cũng bị người ta kết
án ra trận hai mươi năm; những công trình sai lệch chỉ đưa đến nỗi thất vọng và
sự điên loạn, tất cả, tất cả những thứ mà Chúa trời đã sáng tạo nên với lòng từ
thiện vô biên thì quỉ sứ đã làm cho hư hại. ánh sáng nơi cửa sổ cùng tiếng kỳ cọ
của Amaranta ở trong bồn tắm và cảm giác thú vị do “củ khoai bằng lụa” đưa lại
cứ lan lan trên đôi chân, tất cả đều đã giải thoát Hôsê Accađiô khỏi nỗi kinh
hoàng từng khiến chú thẫn thờ sợ sệt khi thức dậy. Khi ấy, đến cả Ucsula cũng
khác hẳn đi dưới ánh sáng rực rỡ rạng toả trên vườn, bởi vì ở đó cụ không nói với
chú những chuyện khủng khiếp mà lại dùng bột than đánh bóng hàm răng cho chú để
chú có nụ cười rạng rỡ của một Giáo hoàng, cắt và mài nhẵn móng tay cho chú để
cho những người hành hương đến Rôm từ mọi nơi trên trái đất sẽ phải kinh ngạc
trước sự thanh khiết của đôi tay Giáo hoàng khi ngài ban phước lành cho họ, và
chải cho chú kiểu tóc của một Giáo hoàng, phun nước hoa vào chú để thân thể và
quần áo chú toả hương thơm của một Giáo hoàng. Ở sân Castenganđônphô, Hôsê
Accađiô đã nhìn thấy Giáo hoàng trên ban công khi ngài đọc một bài diễn văn bằng
bảy thử tiếng trước một đám đông khách hành hương, và quả thật là Hôsê Accađiô
chỉ chú ý đến màu trắng ngần trên đôi tay như được nhúng bột của Giáo hoàng, sự
rực sáng của bộ áo quần mùa hè ngài mặc và mùi hương bí ẩn của thứ nước thơm
ngài dùng.
Khoảng một năm sau
khi trở về nhà, để có tiền ăn, Hôsê Accađiô đã bán hết những cây đèn nến bằng bạc
và chiếc bô vàng có khảm gia huy mà đến phút cuối cùng anh chàng mới biết rằng
thật ra chỉ có những đường khảm mới bằng vàng thôi, thì sự giải trí duy nhất của
Hôsê Accađiô là tụ tập bọn trẻ trong làng lại để chơi đùa ở nhà mình. Anh chàng
chơi với chúng từ trưa, bảo chúng nhảy dây ở vườn, hát ở hành lang và nhào lộn
trên những chiếc ghế ở phòng khách, trong khi đó anh chàng đi đến từng nhóm dạy
chung những bài học về cách cư xử tốt đẹp. Khi ấy, những chiếc quần chẽn và áo
lụa chẳng còn, Hôsê Accađiô vận bộ đồ cũ xoàng xĩnh mua ở một kho của những người
A-rập, nhưng anh chàng vẫn giữ vẻ trịnh trọng yếu đuối và phong thái giáo hoàng
của mình. Bọn trẻ con xâm chiếm ngôi nhà giống như trước đây đám bạn gái của
Mêmê từng làm. Ðến tận đêm khuya vẫn còn thấy tiếng chúng hò reo nhảy múa, khiến
cho ngôi nhà giống như một nhà trẻ không có kỷ luật. Aurêlianô không bận tâm về
sự xâm lấn ấy khi bọn trẻ con chưa quấy rầy đến chú ở trong phòng của
Menkyađêt. Một buổi sáng hai đứa nhỏ đẩy cửa và chúng kinh ngạc khi nhìn thấy một
người đàn ông bẩn thỉu, râu tóc bù xù đang dịch những tấm da thuộc trên bàn làm
việc. Chúng không dám vào nhưng vẫn tiếp tục lượn quanh căn phòng, chúng lấp ló
và xì xào qua những kẽ hở, ném sâu bọ vào những ô cửa sổ tròn, và có lần chúng
đóng đinh vít cửa ra vào và cửa sổ, khiến cho Aurêlianô tốn nửa ngày mới mở được.
Khoái trá vì những trò nghịch ngợm của mình không bị trừng trị, một buổi sáng
khác bốn đứa nhỏ đã vào phòng trong khi Aurêlianô đang ở bếp, chúng quyết định
phá huỷ những tấm da thuộc. Nhưng ngay khi chúng vừa mới túm lấy những tấm da
ngả màu vàng ấy thì một sức mạnh thần linh đã nâng chúng lên khỏi mặt đất, giữ
chúng lơ lửng trong không trung cho đến khi Aurêlianô quay trở về và giằng lại
những tấm da thuộc đó. Từ ấy, bọn trẻ không còn đến quấy rầy Aurêlianô nữa.
Bốn đứa trẻ lớn nhất,
những đứa vẫn còn mặc quần cộc mặc dù đã chớm bước vào tuổi thành niên, quan
tâm đến dáng vẻ bên ngoài của Hôsê Accađiô. Chúng đến sớm hơn những đứa khác,
dành cả buổi sáng để cạo râu, dùng khăn nóng xoa bóp, sửa sang móng tay móng
chân và xức nước hoa cho anh ta. Có vài lần chúng vào bồn tắm, xát xà phòng từ
chân tới đầu Hôsê Accađiô, trong khi đó anh chàng nằm ngửa trong nước nghĩ đến
Amaranta. Sau đó chúng lau người, thoa phấn khắp người và mặc quần áo cho anh
chàng. Trong đám trẻ ấy có một đứa tóc nâu và quăn, đôi mắt như thuỷ tinh nâu hồng
giống mắt thỏi thường ngủ trong nhà. Nó gắn bó rất chặt chẽ với Hôsê Accađiô,
thường ở bên cạnh anh chàng trong những đêm mất ngủ vì bệnh hen, im lặng và
theo anh chàng đi đi lại lại trong ngôi nhà u tối. Một đêm, qua lớp xi măng
trong, Hôsê Accađiô và đứa bé kia nhìn thấy trong phòng ngủ của Ucsula một thứ
ánh sáng màu vàng, như thể mặt trời vừa từ trong lòng đất chiếu hắt ánh sáng lên
đã biến nền nhà thành một tấm kính mờ. Họ không cần phải tìm tâm điểm nguồn
sáng đó. Chỉ cần nâng những tấm kính vẽ hình đã vỡ ở góc nhà, nơi thường xuyên
đặt chiếc giường của Ucsula và là nơi ánh sáng tập trung nhất, là thấy ngay cái
hầm bí mật mà Aurêlianô Sêgunđô đã tìm kiếm khổ sở trong những cuộc đào bới
phát sốt lên mà không thấy. Trong hầm có ba chiếc túi tải được chằng buộc bằng
dây đồng đựng bảy ngàn hai trăm mười bốn đồng đôblông và mỗi đồng đôblông trị
giá bốn đồng đôbla[41],
những đồng tiền vàng ấy đang tiếp tục phát sáng như than hồng.
[41] đôblông và đôbla: tiền vàng Tây Ban Nha từ
thời Trung cổ.
Việc tìm thấy kho báu
giống như một cú bùng cháy vậy. Ðáng lẽ trở lại Rôm với vận may trái mùa - đó
là giấc mơ ấp ủ từ lâu trong cảnh nghèo khó - thì Hôsê Accađiô lại biến ngôi
nhà thành thiên đường ở mặt đất. Anh chàng thay các rèm cửa sổ và tấm trướng ở
phòng ngủ bằng nhung mới, sai lát gạch nền nhà tắm và ốp gạch men màu lên các bức
tường. Chiếc tủ ở phòng ăn chất đầy các loại quả ngọt, giăm bông và hoa quả ướp
vang nho; căn nhà kho chứa ngũ cốc bấy lâu nay bỏ không, nay lại được mở cửa để
chứa các loại rượu mà chính Hôsê Accađiô lấy ở nhà ga xe lửa, đựng trong những
chiếc hộp có ghi tên anh ta. Một đêm, Hôsê Accađiô và bốn đứa trẻ lớn nhất kia
mở một cuộc liên hoan kéo dài đến tận sáng. Ngay từ sáu giờ sáng chúng trần truồng
ra khỏi phòng ngủ, trút hết nước trong bồn tắm và đổ đầy rượu sâm banh vào đấy.
Chúng đàn đúm lặn ngụp bơi lội trong đó giống như những con chim bay trên một bầu
trời màu vàng đầy những bọt bong bóng thơm ngát, trong khi Hôsê Accađiô không
đùa vui với chúng mà nằm ngửa thả nổi mình, đôi mắt mở to, đang tưởng nhớ tới
Amaranta. Hôsê Accađiô nằm như vậy, suy tư và nhấm nháp lại vị đắng của những
thú vui lầm lỗi của thình, cho đến khi bọn trẻ đã mệt và nháo nhác ùa vào trong
phòng ngủ, ở đó chúng giật những tấm rèm nhung để lau người, trong cảnh nhốn
nháo chúng làm tấm gương rạn vỡ làm bốn, chen nhau ngủ làm rách cả khăn trải
giường. Hôsê Accađiô từ phòng tắm trở về thì thấy chúng đang trần truồng nằm ngủ
chen chúc trong căn phòng ngột ngạt. Anh ta bực bội, vì sự phá hoại của chúng
thì ít mà vì cảm giác ghê tởm và thương hại đối với chính bản thân mình trong cảnh
trống rỗng buồn tẻ do cuộc trác táng gây nên thì nhiều, liền túm vội lấy chiếc
gậy đuổi chó của linh mục vẫn để ở dưới đáy hòm cùng những công cụ trừng phạt
khoe mà giáo hội vẫn dùng, rồi đuổi chúng ra khỏi nhà, anh ta la hét như điên
và quất vào chúng không thương xót. Hôsê Accađiô suy sụp vì một cơn hen kéo dài
hàng mấy ngày, và trông như người hấp hối. Ðến đêm thứ ba, vì không chịu nổi sự
tức thở, Hôsê Accađiô đành tới phòng Aurêlianô nhờ đến một hiệu thuốc gần đấy
mua giúp một ít thuốc bột để về xông đường hô hấp. Thế là Aurêlianô ra khỏi nhà
lần thứ hai. Chú chỉ cần qua hai ô phố là đã đến một hiệu thuốc có những tủ
kính đầy bụi bặm đựng những lọ sành nhãn ghi tên thuốc bằng tiếng Latinh; ở đó,
một cô gái có sắc đẹp bí ẩn của một con rắn vùng sông Nin, bán cho chú thứ thuốc
mà Hôsê Accađiô đã ghi trên giấy. Lần thứ hai nhìn thấy phố xá hoang vắng, lúc
này đang nằm trong ánh sáng vàng vọt của những ngọn đèn đường, Aurêlianô cũng
chẳng tò mò hơn lần trước. Khi Hôsê Accađiô tưởng rằng Aurêlianô đã trốn đi mất
rồi thì thấy chú trở về, lúc ấy Aurêlianô hơi tức thở một chút vì vội vàng, vì
cố lê đôi chân mềm yếu và chậm chạp do bị tù túng và thiếu hoạt động. Thái độ dửng
dưng với thế giới bên ngoài của chú được thể hiện quá rõ ràng cho nên sau đó
vài ngày, khi Hôsê Accađiô không thực hiện lời hứa với mẹ mình, đã cho phép
Aurêlianô tự do đi đến nơi mà chú muốn, Aurêlianô đã trả lời:
- Cháu chẳng có việc
gì làm ở ngoài đường cả.
Aurêlianô tiếp tục tự
giam mình trong phòng và vùi đầu vào những tấm da thuộc, dần dần chú đọc được
những điều ghi trên đó nhưng vẫn chưa diễn giải được nội dung của chúng. Hôsê
Accađiô mang đến phòng cho Aurêlianô những lát giăm bông và những hoa trái ngọt
ngào để lại trên miệng dư vị của mùa xuân, và có hai lần còn cho cả rượu ngon nữa.
Hôsê Accađiô không quan tâm đến những tấm da thuộc mà anh ta coi là một trò
tiêu khiển bí ẩn, nhưng lại chú ý đến sự thông thái kỳ lạ và kiến thức về thế
giới không hiểu vì sao có được ở thằng cháu ưu sầu ấy của mình. Anh ta biết rằng
Aurêlianô có khả năng đọc được tiếng Anh và trong khi nghiên cứu những tấm da
thuộc Aurêlianô còn đọc từ đầu chí cuối sáu tập bách khoa toàn thư như đọc tiểu
thuyết. Thoạt đẩu anh ta cho là như vậy khi thấy Aurêlianô có thể nói về Rôm
như là đã từng sống ở đó nhiều năm, nhưng ngay sau đó anh ta biết rằng
Aurêlianô còn biết nhiều thứ không có trong bách khoa toàn thư, ví dụ như giá
hàng chẳng hạn. “Người ta biết tất.” Đó là câu trả lời duy nhất của Aurêlianô
khi Hôsê Accađiô hỏi chú rằng làm thế nào mà có được hiểu biết đó. Về phần
mình, Aurêlianô ngạc nhiên vì thấy khi nhìn gần Hôsê Accađiô rất khác với hình ảnh
mà mình ghi nhận khi nhìn anh ta đi đi lại lại trong nhà: Hôsê Accađiô là người
có thể cười, thỉnh thoảng có thể tự cho phép mình nuối tiếc quá khứ của gia
đình, và có thể băn khoăn về cảnh nghèo nàn trong căn phòng của Menkyađêt. Việc
nhích lại gần nhau ấy giữa hai người cô đơn cùng dòng máu còn xa mới đạt đến một
tình hữu nghị, nhưng nó cho phép họ chịu đựng được nỗi cô đơn sâu lắng không thể
nào đo, nỗi cô đơn ấy vừa làm cho họ xa nhau vừa làm cho họ gần nhau. Khi ấy,
Hôsê Accađiô có thể nhờ Aurêlianô giải quyết giúp những khó khăn nhất định
trong những việc nhà mỗi ngày một nặng nề thêm. Aurêlianô thì đã có thể ngồi đọc
ở ngoài hành lang, nhận những bức thư thường xuyên đến đúng hạn của Amaranta
Ucsula và có thể sử dụng cái phòng tắm mà khi mới về Hôsê Accađiô đã không cho
chú bén mảng tới. Một sớm nóng nực cả hai người bị đánh thức bởi những tiếng gõ
cổng khẩn cấp. Người đến nhà là một ông già đen đủi có đôi mắt to và xanh đem lại
cho gương mặt ông ta một thứ ánh lân tinh ma quái, trên trán in hình chữ thập
tro thánh. Bộ quần áo mạt hạng, đôi giày rách, chiếc ba lô cũ đeo trên vai là
hành trang duy nhất, những thử đó khiến ông ta có vẻ một người hành khất, nhưng
tư thế của ông ta lại đĩnh đạc khác hẳn với cái vẻ ngoài ấy. Chỉ cần nhìn qua
ông ta một lần, dù là ở trong phòng khách tối mờ, cũng đủ nhận biết rằng sức mạnh
huyền bí đã cho phép ông ta sống được không phải là bản năng sinh tồn mà là
thói quen sợ sệt. Ðó là Aurêlianô Buênđya Amađô, người duy nhất trong số mười bảy
người con của đại tá Aurêlianô Buênđya còn sống sót, đang đi tìm một chút nghỉ
ngơi trong cuộc sống trốn tránh rất dài và đầy mạo hiểm của mình. Ông ta tự giới
thiệu rồi cầu xin cho phép ẩn nấu trong ngôi nhà này, ngôi nhà mà trong những
đêm khốn khổ ông ta vẫn hằng nghĩ tới và coi là nơi trú ẩn an toàn cuối cùng
còn lại trong đời mình. Nhưng Hôsê Accađiô và Aurêlianô không nhận ra ông ta. Họ
nghĩ rằng ông ta là một kẻ du thủ du thực nên đã đẩy ông ta ra đường. Ðến lúc ấy,
từ cổng hai người chửng kiến cái cảnh chót của tấn thảm kịch mở màn từ trước
khi Hôsê Accađiô biết nhận xét. Hai nhân viên cảnh sát, từng truy nã Aurêlianô
Amađô trong nhiều năm và như chó bám theo ông khắp nửa trái đất, bỗng nhô lên
giữa đám những cây hạnh đào phía hàng rào đối diện, bắn ông hai phát súng mô
de, đạn xuyên thẳng vào dấu chú thập tro thánh.
Thực ra, từ khi đuổi
bọn trẻ con khỏi nhà, Hôsê Accađiô thường đợi tin tức về một con tàu vượt Ðại
Tây Dương sẽ rời bến trước lễ Noen để đi Napôlet. Hôsê Accađiô đã nói với
Aurêlianô điều đó, anh ta còn vạch kế hoạch để Aurêlianô tiến hành một cuộc
kinh doanh lấy tiền sinh sống, vì từ sau đám tang Phecnanđa những chiếc làn thực
phẩm không được chuyển tới nữa. Nhưng, cái giấc mơ cuối cùng ấy của Hôsê
Accađiô cũng không được thực hiện. Một buổi sáng tháng chín, sau khi uống cà
phê với Aurêlianô ở nhà bếp, Hôsê Accađiô đi tắm theo lệ thường và khi anh ta sắp
tắm xong, thì bốn đứa trẻ đã bị đuổi ra khỏi nhà bỗng ập vào theo lối những lỗ
hổng trên mái ngói. Không để cho Hôsê Accađíô có thời gian tự vệ, chúng mặc
nguyên cả quần áo nhảy vào bốn tắm, túm tóc và dìm đầu anh ta xuống nước, cho tới
khi trên mặt nước không còn nổi lên một chút bọt nào của hơi thở hấp hối nữa, tấm
thân như cá heo của Hôsê Accađiô bất động và tái nhợt nằm duỗi dài dưới đáy nước
thơm. Sau đó chúng mang đi ba túi tiền vàng mà chỉ có chúng và nạn nhân của
chúng mới biết nơi cất giấu. Ðó là một việc làm nhanh chóng, có phương pháp và
tàn bạo, giống như một cuộc tấn công của những nhà quân sự. Aurêlianô ở trong
phòng kín nên không hay biết gì. Buổi chiều hôm ấy, khi ở bếp, Aurêlianô nhớ
Hôsê Accađiô nên đi tìm anh ta khắp nhà và thấy anh ta nổi trên mặt nước thơm
trong bồn tắm, đã trương phềnh, nhưng lòng vẫn còn nghĩ đến Amaranta. Ðến lúc ấy
Aurêlianô mới biết mình đã bắt đầu yêu mến anh ta như thế nào.