Quyến Rũ Người Đẹp - Chương 02

Chương 2

Cô đang mặc quần
áo: Cài khuy bộ quần áo liền mặc trong, đi tất và bước vào trong chiếc váy lót,
chuyển động của cô thư thái giống như là một vũ công. Lưng cô quay về phía anh,
nhưng chiếc gương trên bàn trang điểm cho anh một tầm nhìn không hạn chế phần
còn lại của cơ thể cô. Anh vẫn ở trên giường, tay chống đầu, chiêm ngưỡng mái
tóc đen buông xõa đang lay động và đu đưa của cô.

Bên ngoài, một con
chim gõ kiến cần cù gõ vào thân cây. Trong phòng, mặt trời chiều muộn rút dần
ra khỏi phòng, những đốm sáng màu đồng rải rác trên trần nhà ngày càng mờ hơn.
Vẻ đẹp trong ánh sáng mờ ảo của cô bớt sắc nét hơn – như thể cô đã trở thành
những nét vẽ màu sắc và những khoảng tối trong một bức tranh của trường phái Ấn
tượng. Anh có thể nhìn vào cô mà không cảm thấy phải che mắt lại, nếu không sẽ
có nguy cơ làm hỏng mắt.

Anh với tay, nắm
một lọn tóc xoăn rơi ra của cô, quấn nó quanh ngón tay, và kéo cô lại gần anh
hơn.

Cô dễ dàng thuận
theo anh, ngồi xuống mép giường và vòng cánh tay quanh vai anh. “Anh chưa có đủ
em hay sao?” Cô cười điệu và hỏi.

“Không bao giờ là
đủ cả.”

“À, sẽ không có
thêm cho ngài bây giờ đâu, thưa ngài. Em phải gọi cô hầu gái. Và tại sao anh
không chuẩn bị sẵn sàng đi?”

Anh vuốt phía trong
khuỷu tay cô. “Anh sẽ bắt đầu trong mười lăm phút nữa. Trong lúc đó anh sẽ dùng
em để giết thời gian.”

Cô cười và trượt ra
khỏi cái nắm của anh. “Sau đó. Sau buổi dạ tiệc, có lẽ thế.”

Con chim gõ kiến gõ
to hơn bao giờ hết.

Christian ngồi bật
dậy trên giường. Căn phòng tối mờ mờ, không gian tối tăm, ngọn lửa trong lò
sưởi đã cháy rụi thành tro lẫn vài cục than hồng. Không có ai bên cạnh anh, cho
dù xinh đẹp hay ngược lại. Sáng hôm nay anh có bài diễn thuyết ở Harvard và ai
đó đang gõ cửa.

“Vào đi,” anh nói.

Parks, hầu phòng
của anh bước vào. “Chúc đức ngài một buổi sáng tốt lành.”

“Chào,” anh nói,
hất tung chăn sang một bên và ra khỏi giường.

Giấc mơ anh chưa
từng trải qua trước đây đã rất thật. Anh có thể miêu tả tấm rèm muslin trong
mờ, những cây leo cách điệu trên tấm thảm phương Đông cô đứng, chiều dài chính
xác và độ mềm mượt của tóc cô.

Nhưng sự chính xác
của các chi tiết không làm anh hoang mang – sau vài giấc mơ dâm dục hơn, anh đã
có thể vẽ cô với độ chính xác cao. Điều làm anh mất phương hướng là cảm giác
gia đình gần gũi đó, sự thân mật dễ chịu và ngọt ngào đó.

“Thưa ngài,” Parks
nói. “Nước đã nguội rồi. Tôi đi lấy chậu khác được không?”

Anh đã đứng trước
chậu rửa mặt mơ màng như một tên trộm vặt khao khát với tới căn hầm nằm dưới
Ngân hàng nước Anh bao lâu rồi?

Năm năm nữa đã trôi
qua kể từ khi anh nhìn thấy bà Easterbrook lần cuối, bên ngoài Bảo tàng lịch sử
tự nhiên Anh quốc. Có những ngày anh thành thật tin rằng mình đã thoát khỏi sự
ám ảnh thời trẻ đó. Vào một ngày như thế anh đã hứa với mẹ kế của mình rằng sau
khi đi giảng bài ở Harvard và Princeton về, anh sẽ ở Luân Đôn cả mùa lễ hội –
để thực hiện bổn phận và tìm một người vợ.

Bà Easterbrook vẫn
còn một em gái chưa kết hôn, chắc chắn cô ta sẽ có mặt ở Luân Đôn. Với tư cách
là một người tháp tùng em gái, cô ta sẽ thường xuyên tham gia rất nhiều sự kiện
mà anh cũng sẽ phải tham gia. Họ có thể sẽ được giới thiệu. Thậm chí có những
dịp, vì lễ nghi xã giao, anh phải nói chuyện với cô ta.

“Thưa đức ngài?”
Parks hỏi lần nữa.

Christian bước sang
một bên chậu rửa mặt. “Cứ làm những gì anh thấy cần.”

*

* *

“Con bé trông thật
tuyệt, đúng không?” Venetia hỏi Millie.

Để đến dự buổi nói
chuyện của công tước, Helena đã mặc một chiếc váy đi dạo bằng nhung màu xanh lá
cây sẫm, Bridget, cô hầu gái của Millie đang loay hoay sau lưng Helena để đảm
bảo rằng những nếp gấp của chiếc váy rủ xuống đúng kiểu.

“Con bé thật đẹp,”
Millie dễ dàng đồng ý. “Em thích một cô nàng tóc đỏ mặc màu xanh lá cây.”

Venetia quay sang
Millie. “Và chị phải nói thêm rằng, em cũng rất đẹp.” Màu vàng sẫm của chiếc
váy vốn gây khó khăn cho hầu hết phụ nữ, bằng cách nào đó lại làm nổi bật những
ưu điểm của Millie, khiến cô trông thật mới mẻ và bất ngờ. “Công tước sẽ kết
luận rằng chị là một người chị gái, chị chồng tận tâm và là một người phụ nữ
ngay thẳng. Sau đó anh ta sẽ nhờ chị quản lý bảo tàng riêng ngay tức khắc.”

Helena lắc đầu.
“Luôn là hóa thạch.”

Venetia cười toe
toét. “Luôn luôn.”

Cô cảm thấy mình lạc
quan hơi quá. Nhưng tuần qua họ đã có một thời gian vui vẻ, đi thăm thú những
vùng quê của Connecticut và những hòn đảo xinh đẹp như Martha’s Vineyard và
Nantucket. Helena dường như đã giống với con người cũ hơn so với thời gian gần
đây. Và Venetia hy vọng rằng đến cuối chuyến đi, em cô sẽ nhận thức đầy đủ con
đường sai lầm của mình.

Helena không phải
là người đồng bóng hay không biết suy nghĩ. Thực ra, em cô luôn sắc sảo khác
thường trong việc đánh giá tính cách con người.

Sau cuộc gặp đầu
tiên với Millie, Helena đã nói với Venetia rằng: Fitz là người may mắn.
Millie sẽ là một người vợ tốt với anh ấy,
mặc dù suốt cuộc gặp Millie
nói không quá mười từ. Millie đã chứng tỏ là người vợ tốt nhất mà một người đàn
ông có thể mong đợi.

Và tất nhiên, còn
có một chuyện đáng nhớ khác. Rất nhiều năm về trước, khi đang yêu say đắm,
Venetia đã ép Helena nói ra suy nghĩ của mình về Tony. Helena đã lưỡng lự trả
lời rằng anh ta dường như “thiếu sức mạnh nội tâm nào đó.”

Em cô đã đúng làm
sao. Những điều đó chỉ làm cho sự việc ngày hôm nay đáng sửng sốt gấp bội, vì
trong số tất cả mọi người, em cô lại có những hành động có thể gây nguy hại cho
cả tương lai của mình như thế.

Hài lòng với chiếc
váy của Helena, Bridget quay sang Millie. “Cô có cần gì khác nữa không, thưa
cô?”

“Không, em có thể
nghỉ ngơi từ bây giờ cho đến hết ngày.”

“Cảm ơn cô.”

Trong chuyến đi
này, họ chỉ mang theo Bridget. Cô hầu gái Hattie của Venetia bị bệnh say sóng
nặng và phải ở lại Anh. Cô hầu gái của Helena đã nghỉ làm một năm trước để kết
hôn và chưa có người thay thế.

Vào thời điểm ấy,
Venetia không nghĩ nhiều về việc đó – Helena ở với Venetia hoặc gia đình Fitz
nên Hattie hoặc Bridget có thể dễ dàng chăm sóc cho em cô. Bây giờ cô tự hỏi
liệu có phải Helena đã cố tình làm thế. Không có hầu gái theo sau chăm sóc,
Helena bớt đi một người theo dõi hành động của mình.

Có phải Helena đã
lên kế hoạch cho cuộc tình đó, từng bước tháo gỡ từng rào cản một. Venetia
không muốn nghĩ tới khả năng này.

À, Helena vẫn có
thể thay đổi suy nghĩ. Có lẽ gặp gỡ một người đàn ông trẻ chưa kết hôn và rất
thích hợp là cú huých mà em cô cần. Chắc chắn đây hẳn phải là ý Chúa, nếu không
thì vị công tước, vốn hay lẩn tránh như Chén Thánh lâu nay, sẽ không đột nhiên
xuất hiện vào thời điểm đặc biệt này trong cuộc đời họ.

Venetia với lấy
găng tay. “Chị đã sẵn sàng nghé mắt nhìn Lexington. Ai nữa không?”

*

* *

Họ đến sớm hơn nửa
tiếng, nhưng nhà hát Sanders, giảng đường của đại học Havard đã chật kín. Họ
chỉ có thể tìm thấy ba chỗ ngồi gần nhau ở hàng ghế cuối cùng.

Millie liếc xung
quanh. “Ôi Chúa tôi, nhìn tất cả những phụ nữ tham dự kìa.”

Helena chỉnh lại
chiếc mũ mới, với kiểu cách cầu kỳ vừa phải. “Không đáng ngạc nhiên khi giảng
viên là một công tước trẻ, giàu có. Xem ra chị sẽ phải cạnh tranh đấy,
Venetia.”

“Có lẽ họ chỉ tò mò
thôi,” Venetia phấn khởi nói. “Với quá nhiều nữ thừa kế cao quý kết hôn với
những quý ông không một đồng xu dính túi của chúng ta, họ chắc hẳn phải muốn
nhìn thấy một quý ông người Anh không cần tiền trông như thế nào đến chết đi
được.”

“Chị cũng chưa bao
giờ nhìn thấy một người như thế, đúng không Millie?” Helena trêu.

“Trong cuộc hôn
nhân của chị thì không,” Millie cười giòn.

“Ít nhất quý ông
người Anh nghèo túng của em còn đẹp trai,” Venetia nói.

“Đúng thế, đẹp trai
hơn cả Apollo.”

Lời khen chồng của
cô được thốt ra với vẻ nghiễm nhiên hoàn hảo, không có một chút thay đổi nào
trong giọng nói hay một chút màu hồng trên má.

Nhiều năm nay
Venetia vẫn băn khoăn liệu Millie có yêu người đàn ông đã kết hôn với mình chỉ
vì tài sản hay không. Em trai cô đối xử với vợ rẩt lịch sự, và bằng tình yêu
mến trong những năm gần đây. Nhưng Venetia sợ rằng, trái tim em cô luôn thuộc
về cô gái anh đã phải từ bỏ vì nghĩa vụ.

“Cơ hội để chị gặp
may mắn như thế gần như bằng không, Venetia ạ,” Helena nói. “Em cá một đồng bảng
là công tước giống như thằng gù ở nhà thờ Đức bà.”

“Hừm,” Venetia lơ
đãng. “Liệu có thể có một công tước trẻ, giàu có và xấu xí hay sao?”

Và nếu có, anh ta
không phải công tước của Lexington, người đang đứng trên bục giảng với diện mạo
khiến tất cả mọi người phải thở dài ngưỡng mộ. Anh ta thực sự rất đẹp trai –
không phải kiểu trẻ con, dịu dàng vốn vẫn cuốn hút Venetia một cách mạnh mẽ, mà
gầy gầy góc cạnh: Đôi mắt sâu, mũi thẳng, gò má cao và đôi môi mạnh mẽ.

Millie tán thưởng.
“Anh ta có diện mạo của một nguyên lão thời La Mã, rất uy quyền, rất khác
biệt.”

“Chính xác là gia
tộc của họ lâu đời như thế nào?” Venetia hỏi.

“Rất lâu đời,”
Millie khẳng định. “Một người họ de Montfort đã chiến đấu cùng với William nhà
Chinh phạt[1].”

[1] Công tước xứ
Mormandy từ năm 1035 đến 1087 và là vu Anh từ năm 1066 đến 1087. William xâm
chiếm Anh vào năm 1066, dẫn dắt một đội quân của người Norman giành chiến thắng
trước đạo quân Anglo-Saxon của Harold Godwinson trong trận Hastings, và đàn áp
các cuộc nổi loạn sau đó của người Anh, mà sau này được biết đến như là cuộc
chinh phục của người Normal.

Một giáo sư trường
Havard lao vào một bài giới thiệu dài về mình nhiều hơn là công tước. Lexington
kiên nhẫn giữ phép lịch sự, chỉ thể hiện thái độ bình thản đối với xung quanh
mà không bộc lộ chút chán nản hay tức tối nào.

Venetia nhẹ nhõm
nhận ra rằng anh ta đủ cao so với Helena. Đôi khi chiều cao của em cô khiến các
anh chàng không cao lắm cảm thấy nhụt chí. Cô liếc sang Helena, hy vọng nhìn
thấy một chút thích thú trên mặt em gái. Sau cùng công tước có mọi thứ mà
Helena luôn nói rằng mình mong muốn. Nhưng sắc mặt của Helena chỉ thế hiện sự
lịch sự thản nhiên.

“Chị có hài lòng
không, Venetia?” Millie thì thầm. “Chị sẽ khiến anh ta trở thành người đàn ông
may mắn nhất chứ?”

Venetia nhớ ra cô
phải duy trì sự quan tâm giả vờ với công tước. “Chuyện đó sẽ phụ thuộc vào kích
thước hóa thạch của anh ta,” cô thì thầm đáp lại.

Helena thốt ra một
âm thanh nửa như tiếng khịt mũi, nửa như một tiếng cười giòn bị kìm nén. Nỗi lo
lắng của Venetia tăng lên gấp đôi. Cô vẫn hy vọng rằng Helena còn là một trinh
nữ. Không phải một tiếng cười có thể giải đáp câu hỏi đó, nhưng vì Helena có
thể hiểu trò đùa đó ngay lập tức, khi vài bà cô trong trắng cần đến cả một biểu
đồ minh họa, có lẽ rất nhiều biểu đồ.

Bài giới thiệu kết
thúc. Công tước bước lên bục giảng. Anh ta nói với ngữ điệu vừa phải, vốn từ
phong phú, và không giống như người đàn ông nói trước đó, theo sát chủ đề chứ
không lệch đến một phân.

Anh ta xuất chúng,
điều này không nghi ngờ gì sẽ làm Helena hài lòng. Những ý kiến của anh ta đưa
ra theo kiểu để người khác có thể bàn luận, nhưng anh ta nghiêng về ủng hộ quan
điểm của ngày Darwin, rằng động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình tiến hóa là sự
lựa chọn tự nhiên, chứ không phải là lý thuyết mới về sự phát sinh định hướng
hay sự phát triển nhảy cóc của trường phái tân Lamarck, hiện đang được ủng hộ
rộng rãi. Anh ta trình bày một cách khách quan, như thể đang nhắc đến ý kiến
của một bên thứ ba chứ không phải của mình.

Nhưng anh ta có một
sức hút giữ khán giả trong vòng kim tỏa của mình, một lực hút lớn hơn cả sức
thuyết phục và vẻ đẹp trai cộng lại. Có lẽ đó là vẻ cao ngạo rất lịch sự, giọng
nói đầy uy quyền không thể nhầm lẫn, hoặc là sự kết hợp giữa tước vị cổ xưa và
niềm say mê rất hiện đại của anh ta.

Cuối bài diễn
thuyết, một loạt các câu hỏi được những người đàn ông trong khán phòng đưa ra,
vài người là giáo viên của trường Havard, vài người là nhà báo.

Venetia với tay qua
Millie và đưa cho Helena một mẩu giấy. “Hỏi anh ta đi.”

Là người phụ nữ đầu
tiên đưa ra một câu hỏi sẽ gây ấn tượng với công tước.

Helena nhìn xuống
câu hỏi Venetia đã gợi ý:Thưa ngài, ngài nghĩ gì về sự tiến hóa theo thuyết
cổ thần?
“Tại sao lại là em? Chị nên làm việc này.”

Venetia lắc đầu.
“Chị không muốn anh ta nghĩ chị quá bạo dạn.”

Nhưng trước khi cô
có thể thúc ép Helena hơn, một cô gái trẻ người Mỹ đã đứng lên giữa thính giả.

“Thưa quý ngài.”

Venetia nhăn mặt
trước cách xưng hô sai với tước hiệu công tước đó. Một công tước không bao giờ
bị gọi là “quý ngài,” mà luôn là “đức ngài.”

“Tôi đã rất thích
thú với bài báo của ngài trên tạp chí Harper,” cô gái trẻ tiếp tục.
“Trong bài báo đó, cho dù thật ngắn gọn, ngài đã làm độc giả hiếu kỳ với quan
điểm rằng sắc đẹp của con người cũng là một sản phẩm của chọn lựa tự nhiên.
Ngài có thể nói rõ hơn về quan điểm đó được không ạ?”

“Tất nhiên,” đức
ngài nói. “Dựa trên quan điểm về tiến hóa, sắc đẹp chẳng có gì quan trọng hơn
là một dấu hiệu cho biết người đó phù hợp với việc sinh sản. Khái niệm về sắc
đẹp của chúng ta phần lớn xuất phát từ tính cân đối và tỷ lệ, và rồi những điều
đó cũng thể hiện sức khỏe của cơ thể. Nhưng đường nét chúng ta cảm thấy hấp dẫn
nhất: Mắt trong, răng khỏe, da không tỳ vết… biểu hiện cho tuổi trẻ, sức khỏe
và không bệnh tật. Đàn ông bị thu hút bởi các cô gái trẻ, mạnh khỏe, có khả
năng sinh đẻ nhiều hơn là những người già, ốm yếu. Vì thế, quan điểm về sắc đẹp
của chúng ta không nghi ngờ gì đã bị ảnh hưởng bởi sự lựa chọn thành công diễn
ra hàng nghìn năm trong quá khứ.”

“Vậy là khi ngài
nhìn thấy một cô gái đẹp, điều ngài nghĩ đến là cô ấy phù hợp với việc sinh
đẻ?”

Cằm Venetia trễ
xuống. Những người Mỹ có sự táo tợn phi thường.

“Không, tôi khá
ngạc nhiên trước sự tôn sùng mà chúng ta dành cho sắc đẹp – đó là một điều thú
vị đối với một người làm khoa học.”

“Như thế nào?”

“Từ khi sinh ra
chúng ta đã được dạy dỗ là phải đánh giá người khác dựa trên tính cách. Nhưng
khi đối mặt với một người đẹp, mọi thứ vượt ra khỏi khuôn khổ. Sắc đẹp trở
thành điều quan trọng duy nhất. Điều này nói với tôi rằng ngài Darwin hoàn toàn
chính xác. Chúng ta có nguồn gốc từ động vật. Có những bản năng động vật nào
đó, ví dụ như hay bị cuốn hút bởi sắc đẹp, đã trở thành nền tảng trong bản chất
của chúng ta và vượt qua mọi dấu ấn của nền văn minh. Vì thế chúng ta lãng mạn
hóa cái đẹp, bởi chúng ta xấu hổ vì vẫn dễ bị nó tác động như thế cho đến ngày
nay.”

Khán giả lao xao
trước những quan điểm khác thường và cứng rắn của anh ta.

“Điều này có nghĩa
ngài không thích người đẹp, thưa ngài?”

“Tôi thích người
đẹp, nhưng giống như thích một điếu thuốc, và hiểu rằng cho dù nó mang đến
những khoái cảm tạm thời, nó hoàn toàn vô nghĩa, và thậm chí có thể có hại
trong một thời gian dài.”

“Đó là một quan
điểm cực đoan về sắc đẹp.”

“Sắc đẹp xứng đáng
với tất cả những ý kiến đó,” công tước lạnh lùng nói.

“Chị có thể sẽ gặp
một chút khó khăn hơn dự liệu ban đầu, Venetia ạ.” Helena nói khẽ.

“Công tước rõ ràng
là kẻ gây phiền phức.” Và Venetia đang nảy sinh một sự thích thú khá mạnh mẽ
với anh ta, một sự thích thú có lẽ mạnh hơn sự thích thú dành cho một người em
rể tiềm năng.

Một anh chàng trẻ
tuổi đứng phắt dậy. “Thưa ngài, nếu tôi hiểu đúng ý ngài, ngài đã tuyên bố rằng
về cơ bản, tất cả phụ nữ xinh đẹp đều không đáng tin.”

Venetia tặc lưỡi.
Công tước không hề nói như thế: Anh ta đưa ra một lập trường trung lập trong
việc đánh giá sắc đẹp. Phụ nữ đẹp, cũng như tất cả những người phụ nữ khác, nên
được tiếp cận và đánh giá dựa trên những khía cạnh khác hơn là chỉ dựa vào diện
mạo bề ngoài. Và điều đó thì có gì sai?

“Nhưng phụ nữ đẹp
về cơ bản thì không đáng tin,” công tước trả lời.

Venetia cau mày.
Không phải câu chuyện cũ tẻ nhạt đó chứ. Điều đó cũng tệ hại như việc đặt sắc
đẹp ngang hàng với phẩm giá. Tồi tệ hơn, có lẽ thế.

“Một phụ nữ đẹp
được khao khát miễn là nhan sắc của cô ta vẫn còn, được tha thứ cho tất cả
những sai lầm, và không bao giờ bị yêu cầu bất cứ điều gì hơn là phải xinh
đẹp.”

Venetia khịt mũi.
Giá mà như thế.

“Nhưng thưa ngài,
chắc chắn tất cả chúng ta đều không mù quáng đến mức ấy,” anh chàng trẻ tuổi
tranh luận.

“Vậy thì cho phép
tôi trình bày vài bằng chứng giai thoại nhé. Những bằng chứng giai thoại không
cấu thành nên luận cứ. Nhưng khi nghiên cứu về vấn đề tâm linh con người, những
luận cứ xác đáng, chân thật là không thể, vì thế chúng ta sẽ phải sử dụng bằng
chứng kiểu này.

Vài năm trước, tôi
ghé qua Luân Đôn vào nửa cuối tháng Tám, một thời điểm mà toàn bộ xã hội thượng
lưu nước Anh rời bỏ thành phố và chuyển về nông thôn. Câu lạc bộ của tôi trống
không, ngoại trừ tôi và một người đàn ông khác.

Tôi biết người đàn
ông này vì đã có người chỉ cho tôi biết rằng anh ta là chồng của một phụ nữ rất
đẹp. Anh ta nói qua loa về vợ mình và cảnh báo rằng một người đàn ông không nên
thèm muốn cô ta trừ phi muốn trở thành như anh ta.

Đối với tôi, cuộc
nói chuyện đó thật khó chịu. Nó cũng không có nghĩa lý gì, cho đến khi tôi đọc
được cáo phó của anh ta trên báo vài ngày sau đó. Tôi có tìm hiểu và được biết
không những anh ta đã phá sản, mà còn gánh chịu những khoản nợ rất lớn ở nhiều
cửa hàng trang sức. Cái chết của anh ta suýt nữa đã gây ra một cuộc điều tra
chính thức.”

Có gì đó kêu lên
lanh lảnh trong đầu Venetia. Người phụ nữ này, người rõ ràng bị công tước đổ
tội giết chồng mình…Có thể nào anh ta đang nói về cô không?

“Người vợ góa phụ
của anh ta tái giá khoảng gần một năm sau đó, với một người đàn ông già hơn và
rất giàu có. Tin đồn lan truyền rằng cô ta lén lút ngoại tình với bạn thân của
người chồng mới. Và khi ông ta nằm chờ chết ở trên giường, cô ta thậm chí không
màng đến việc ở bên ông ta. Ông ta chết trong cô đơn.”

Anh ta đang nói
về cô, chỉ là với những sự thật đã được bóp méo ghê gớm. Cô muốn bịt tai lại,
nhưng cô không thể di chuyển. Cô thậm chí không thể chớp mắt, mà chỉ có thể
nhìn chằm chằm vào anh ta với ánh mắt đui mù của một bức tượng.

Những chỉ trích về
cuộc hôn nhân thứ hai làm cô đau nhói, nhưng điều đó cũng chẳng quan trọng lắm,
chính cô đã giúp lan truyền vài tin đồn đó. Nhưng điều anh ta nói về Tony, bằng
những lời nói của chính Tony chứ không ai khác, ám chỉ rằng Tony sẽ không tự
sát nếu không phải vì cô…

“Cực kỳ nhẫn tâm,
người đẹp của chúng ta.”

Bài phát biểu của
anh ta đã chậm lại rồi sao? Từng âm tiết treo lơ lửng bất tận trong không khí,
một bầu không khí sáng rực với ánh sáng chiếu xuống từ cửa trời, hàng nghìn hạt
bụi bị mắc trong ánh sáng trắng gay gắt.

“Anh nghĩ rằng tai
tiếng sẽ bám theo cô ta sao?” Công tước cứng rắn tiếp tục. “Nhưng không, cô ta
được chào đón ở mọi nơi và thường xuyên nhận được những lời cầu hôn. Dường như
không ai nhớ đến quá khứ của cô ta. Vì thế, phải, tôi tin rằng phần lớn chúng
ta thực sự mù quáng.”

Có những câu hỏi
khác. Venetia không nghe thấy chúng. Cô cũng không thực sự nghe thấy câu trả
lời của công tước, ngoại trừ giọng nói của anh ta, giọng nói xa xăm, rõ ràng,
không thể lẩn tránh đó.

Cô không biết bài
diễn thuyết kết thúc lúc nào. Cô cũng không biết công tước rời đi lúc nào hay
khán giả nối đuôi nhau về hết lúc nào. Giảng đường tối đen và vắng tanh khi cô
đứng lên, cô gạt cánh tay của em gái ra khỏi tay mình, và lao ra ngoài.

*

* *

“Em vẫn không thể
tin rằng chuyện này lại xảy ra,” Millie nói, ấn một tách trà nóng khác vào tay
Venetia.

Venetia không biết
cô đã uống hết tách trà trước đó, hay là nó đã nguội và được mang đi.

Helena đi lại trong
phòng khách, bóng người cô trải dài và gầy gầy trên tường. “Chuyện này có rất
nhiều lời nói dối và nhiều người nói dối. Gia đình ông Easterbrook chắc chắn là
một mớ người đặt điều. Townsend cũng rất có khả năng trong chuyện đó. Và chị,
Venetia, cũng góp phần hỗ trợ cho bọn họ.”

Đó là sự thật,
Venetia đã có phần dối trá. Đôi khi có người cần được bảo vệ; đôi khi thể diện
cần được duy trì; và đôi khi lòng kiêu hãnh của chính cô phải được giữ vững, để
cô có thể ngẩng cao đầu ra ngoài làm việc, ngay cả khi tất cả những gì cô muốn
là co rúm người vào một góc.

“Tất nhiên công
tước không phải là một kẻ nói dối,” Helena tiếp tục. “Nhưng anh ta đã nói một
cách bất cẩn đáng trách, đưa ra một loạt những tin đồn không có căn cứ như thể
chúng nằm trong Bách khoa toàn thư nước Anh. Không thể tha thứ
được. Chúng ta chỉ có thể cảm tạ rằng người Mỹ đã nghe đến hoàng tử xứ Wales và
công tước của Marlborough, họ không biết về Venetia và không thể đoán được danh
tính của chị từ những gì anh ta nói.”

“Tạ ơn Chúa vì ân
huệ nho nhỏ đó,” Millie lẩm bẩm.

Helena dừng lại
trước ghế của Venetia và cúi đầu xuống để mắt cô ngang tầm mắt Venetia. “Hãy tự
trả thù cho mình, Venetia. Hãy làm anh ta yêu chị, sau đó bỏ anh ta đi.”

Những suy nghĩ đen
tối, náo động đã chằng chéo trong đầu Venetia như một đám mây đen trên tháp
Luân Đôn. Nhưng lúc này, khi cô nhìn vào đôi mắt cương quyết, lạnh lùng của em
gái, quá khứ trôi đi, và những suy nghĩ về Lexington cũng lùi xa.

Helena. Helena là
một phụ nữ đưa ra những quyết định với sự tàn nhẫn đáng sợ.

Nếu Helena đã thực
sự quyết định rằng Andrew Martin xứng đáng với những phiền phức đó, thì con xúc
xắc đã được quăng, tấm ván đã đặt xuống, cây cầu đã được bắc qua sông và bốc
cháy. Millie, Fitz và Venetia có thể cố gắng nếu họ muốn. Họ không thể thay đổi
quyết định của em gái mình, không thể với bất kỳ phương tiện nào đang nắm trong
tay.

Venetia chỉ có thể
chúc mừng rằng đầu óc cô đã tê liệt gần hết. Cô không thể cảm thấy bất kỳ sự
kinh hoàng nào trong lúc này…

Báo cáo nội dung xấu