Hội hè miên man - Chương 13
Không bao giờ có kết thúc với Paris
Khi chúng tôi đã là ba người thay vì chỉ
có hai, rốt cuộc thì thời tiết và giá lạnh của mùa đông cũng buộc chúng tôi
phải chạy khỏi Paris. Lúc mới chỉ có hai chúng tôi thì chẳng có vấn đề gì, một
khi đã quen rồi. Tôi lúc nào cũng có thể ra quán ngồi viết và làm việc suốt
buổi sáng với mỗi một tách café crème trong khi những người
phục vụ quét dọn và không khí ấm dần lên. Vợ tôi chỉ cần mặc áo đủ ấm là có thể
đi tập đàn ở một nơi rất lạnh, sau đó quay về chăm Bumby. Không thể đem Bumby
đến quán vào mùa đông; cho dù cu cậu chẳng bao giờ khóc mà chỉ nhìn mọi thứ diễn
ra xung quanh không hề biết chán. Khi ấy chúng tôi vẫn chưa có vú em, và Bumby
phải vui vẻ định cư trong cái giường cũi lớn cùng chú mèo F. Puss to đùng thân
thiết. Nhiều người bảo để mèo ở với trẻ con là nguy hiểm. Những người có thành
kiến nhất và dốt nát nhất nói mèo sẽ hút cạn hơi thở của bé cho đến chết. Còn
những người khác thì bảo mèo sẽ nằm đè lên và sức nặng của nó sẽ làm bé ngạt
thở. Riêng F. Puss thì nằm bên Bumby trong cái giường cũi lớn, giương đôi mắt
to vàng trông chừng cửa và không để ai đến gần nếu chúng tôi đi vắng và cô
Marie, cô hầu không có mặt ở đó. Không cần người trông trẻ, Bởi F. Puss đã là
một tay trông trẻ rồi.
Nhưng khi ta nghèo, mà chúng tôi nghèo
thật kể từ khi tôi bỏ nghề báo và không bán được một cái truyện nào khi từ Canada
quay lại, mùa đông Paris trở nên quá khắc nghiệt, nhất là đối với gia đình có
con nhỏ. Lúc mới ba tháng tuổi, ông con Mr. Bumby đã vượt Bắc Đại Tây Dương
trong mười hai ngày trên tàu Cunarder, đi từ New York qua Halifax vào tháng
giêng. Trong suốt chuyến đi, ông cu con không bao giờ khóc, và cười khanh khách
mỗi khi bị vây nhốt trong giường để không lăn xuống đất lúc tàu gặp thời tiết
xấu. Nhưng Paris của chúng tôi thì quá lạnh với thằng bé.
Chúng tôi đi Schruns ở Vorarlberg, Áo. Sau
khi xuyên qua Thụy Sĩ là đến biên giới với Áo ở Feldkirch. Tàu băng qua
Liechtenstein và dừng ở Bludenz nơi có tuyến đường phụ chạy dọc theo một dòng
sông cá hồi đầy sỏi rồi xuyên qua một thung lũng nông trại và rừng để đến
Schruns, cái thị trấn thương mại đầy nắng với những xưởng cưa, cửa hàng, quán
trọ và một cái khách sạn tử tế tên Taube mở cửa quanh năm, nơi chúng tôi sẽ ở.
Phòng của Taube rộng rãi và tiện nghi
với lò sưởi lớn, cửa sổ lớn và giường lớn, chăn nệm ấm áp với khăn phủ giường
bằng lông. Bữa ăn đơn giản tuyệt ngon, phòng ăn và quầy rượu dành cho mọi người
được lát gỗ và sưởi ấm áp thân thiện. Thung lũng rộng và thoáng nên đầy nắng. Tiền
ở khoảng hai đô la mỗi ngày cho cả ba người chúng tôi, và vì đồng schilling của
Áo bị mất giá do lạm phát nên suốt mùa ấy chi phí phòng ở và ăn uống của chúng
tôi ít hẳn đi. Lạm phát và nghèo đói ở đây không đến mức tuyệt vọng như ở Đức. Đồng
schilling khi lên khi xuống, nhưng xu hướng chung là đi xuống.
Ở Schruns không có thang kéo ván trượt
lẫn cáp lên núi mà chỉ có những lối mòn tiều phu và mục đồng dẫn từ những thung
lũng khác nhau trong núi lên miền núi cao. Ta phải tự đi bộ, vác theo thanh
trượt, và ở trên cao nữa, nơi tuyết phủ ngập, phải leo bằng loại ván trượt đáy
lót bằng một lớp da hải cẩu. Ở nơi cao nhất của thung lũng trên núi, có những
căn nhà gỗ lớn, là câu lạc bộ Alps của những người leo núi mùa hè, nơi ta có
thể ngủ và trả tiền cho số củi sử dụng. Có khi ta phải tự mang theo củi, hoặc
nếu thực hiện một chuyến đi dài vào những miền núi cao và các sông băng, ta có
thể thuê người gom củi mang lên cùng để lập một trại căn cứ. Nổi tiếng nhất
trong những trại làm căn cứ ở độ cao này là Lindauer-Hutte, Madlener-Haus và
Wiesbadener-Hutte.
Sau lưng khách sạn Taube có một sườn dốc
để tập chạy qua những vườn cây ăn quả và những cánh đồng. Ngoài ra còn có một
sườn dốc rất tốt nữa nằm sau Tschagguns bên kia thung lũng, ở đấy có một quán
trọ đẹp, trên tường phòng uống rượu treo bộ sưu tập những bộ sừng sơn dương
tuyệt hảo. Cũng sau ngôi làng gỗ Tschagguns ấy, xa xa nơi mép kia của thung
lũng là một đường trượt đẹp kéo thẳng lên tận phía trên, mà nếu đi theo ta có
thể vượt núi qua Silvretta để vào vùng Klosters.
Schruns là nơi rất tốt cho sức khỏe của
Bumby, giờ được một cô tóc đen xinh đẹp trông nom và cho ngồi xe trượt tuyết ra
ngoài đón nắng, trong khi ấy Hadley và tôi có cả một miền đất mới để tha hồ
khám phá, và những ngôi làng mới, những cư dân thị trấn đều rất thân thiện. Herr
Walther Lent, người tiên phong trong môn trượt tuyết trên núi cao, một thời là
đồng đội của Hannes Schneider, tay trượt tuyết vĩ đại người Arlberg từng chế ra
loại sáp bôi thanh trượt dùng leo núi và đi tuyết trong mọi điều kiện, vừa khai
trương ngôi trường dạy trượt tuyết trên dãy Alps mà cả hai chúng tôi đều ghi
danh học. Phương pháp của Walther Lent là cho học trò ra khỏi khu sườn dốc tập
càng sớm càng tốt để đi thực tế ngay vào những miền núi cao. Trượt tuyết ngày
ấy không như bây giờ, chuyện gãy xương chân hiếm khi xảy ra, và không ai lại để
xảy ra chuyện ấy. Vì không có xe đưa rước nên người trượt tuyết phải tự mình
leo đến vị trí mà họ muốn trượt. Nhờ thế mà đôi chân được tôi luyện, trở nên
chắc khỏe chịu được những cú lao xuống.
Với Walther Lent, cái thú của trượt
tuyết là leo vào vùng núi cao nhất nơi không có bóng người và tuyết vẫn còn
nguyên chưa bị động đến, rồi từ một căn nhà gỗ của câu lạc bộ Alps ở trên đó, trượt
qua những ngọn đèo cao và những sông băng của dãy Alps. Không được khóa giày vì
khi ngã chân có thể gãy. Thanh trượt phải kịp bung ra trước khi bẻ gãy đôi chân.
Nhưng điều khiến ông thích nhất là tháo dây buộc khi trượt trên sông băng, nhưng
để làm thế chúng tôi phải đợi cho đến mùa xuân, khi ấy những chỗ nứt trên sông
băng đã được lấp đầy.
Hadley và tôi yêu môn trượt tuyết kể từ
khi chúng tôi lần đầu tiên thử trượt cùng nhau ở Thụy Sĩ và sau đó là Cortina
d’Ampezzo ở Dolomites lúc nàng sắp sinh Bumby, vị bác sĩ ở Milan cho phép nàng
được trượt tuyết nếu tôi hứa không để nàng ngã. Vì thế chúng tôi buộc phải chọn
địa hình và đường trượt hết sức cẩn thận, cũng như kiểm soát tuyệt đối tình hình
lúc trượt, nhưng nàng có đôi chân đẹp vô cùng khỏe và nàng trượt đầy tự tin, không
hề ngã. Cả hai chúng tôi đều nắm rõ những kiểu tình trạng khác nhau của tuyết
và đều biết phải trượt trên tuyết xốp dày như thế nào.
Chúng tôi yêu Vorarlberg và chúng tôi
yêu Schruns. Chúng tôi đến đó vào khoảng thời gian lễ Tạ ơn và ở cho đến gần lễ
Phục sinh. Lúc nào cũng có trượt tuyết ở Schruns dù nó không nằm ở độ cao lí
tưởng để hình thành những khu trượt tuyết nghỉ dưỡng ngoại trừ mùa đông, khi
tuyết rơi dày. Nhưng chỉ leo thôi cũng đã rất vui và chẳng mấy ai cảm thấy ngần
ngại trong những ngày ấy. Chỉ cần ta xác định nhịp bước ổn định với tốc độ phù
hợp để leo dốc, mọi chuyện sẽ dễ dàng, tim ta sẽ ổn thỏa và ta sẽ tự hào với
khối lượng ba lô đang đeo trên lưng. Phần dốc leo lên Madlener-Haus cao và rất
nhọc nhằn. Nhưng leo lần thứ hai mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn, và cuối cùng ta có
thể thoải mái đeo trên lưng một trọng lượng gấp đôi lần đầu.
Chúng tôi luôn đói và mỗi lần giờ ăn đến
thì không khác gì diễn ra một sự kiện vĩ đại. Chúng tôi uống bia nhẹ hoặc bia
đen hoặc các loại rượu mới và thỉnh thoảng là loại rượu một năm tuổi. Rượu
trắng là ngon nhất. Những thức uống khác là rượu anh đào của thung lũng và loại
rượu Schnapps của vùng Alps chưng cất từ loại cây long đởm núi. Thỉnh
thoảng vào bữa ăn tối có món thỏ hầm nồi đất với xốt rượu đỏ đặc, đôi khi là
thịt nai cùng xốt hạt dẻ. Chúng tôi uống kèm rượu đỏ mặc cho chúng có đắt hơn
rượu trắng, giá rẻ nhất cũng phải hai mươi xu một lít. Rượu đỏ loại thường thì
rẻ hơn nhiều và chúng tôi đóng từng thùng loại bốn mươi lít để đem lên trại
Madlener-Haus.
Chúng tôi có cả một kho sách mượn của
Sylvia Beach để đọc trong mùa đông và chúng tôi chơi trò ném bi với dân thị
trấn tại lối đi dẫn đến khu vườn mùa hè của khách sạn. Mỗi tuần một hay hai lần
người ta đóng chặt hết cửa sổ và khóa trái cửa ra vào của phòng ăn khách sạn, rồi
thì ở trong phòng diễn ra cuộc chơi bài poker. Vào thời gian ấy, trò đánh bạc
bị cấm ở Áo và tôi chơi cùng Herr Nels, chủ khách sạn, Herr Lent của trường dạy
trượt tuyết Alps, ông chủ ngân hàng trong thị trấn, cùng một công tố viên và
viên đại úy hiến binh. Đó là một cuộc chiến gian nan vì tay nào cũng chơi poker
có hạng ngoại trừ Herr Lent chơi rất liều vì trường dạy trượt tuyết của ông
chưa làm ra tiền. Viên đại úy hiến binh sẽ đưa ngón tay lên tai mỗi khi ông
nghe tiếng hai anh lính đi tuần dừng chân ngoài cửa, và chúng tôi giữ im phăng
phắc cho đến khi họ đi qua.
Trong cái rét đầu ngày ngay khi vừa có
ánh sáng, cô giúp việc sẽ vào phòng đóng cửa sổ và nhóm lửa trong lò sưởi lớn
làm bằng sứ. Rồi căn phòng ấm lên, bữa điểm tâm được dọn ra với bánh mì tươi
hoặc bánh mì nướng kèm mứt trái cây ngon tuyệt, cùng những tách café to với
trứng gà tươi và thịt lớn muối, nếu cần. Ngủ bên chân giường là Schnautz, con chó
vẫn thích những chuyến trượt tuyết, thích cưỡi trên lưng hay vắt trên vai tôi
mỗi khi tôi trượt xuống dốc. Nó cũng là chiến hữu của Mr. Bumby, thường tháp
tùng bên chiếc xe trượt nhỏ của ông cu con cùng cô bảo mẫu.
Schruns là nơi ngồi làm việc rất tốt. Tôi
biết, bởi vì ở đấy trong mùa đông 1925 và 1926, tôi đã làm cái việc viết lại
khó khăn nhất trong đời bản thảo đầu tiên quyển The Sun Also Rises mà
trước đó tôi đã viết một mạch trong sáu tuần, để chuyển thành tiểu thuyết. Tôi
không nhớ mình đã viết những truyện ngắn nào ở đó. Nhưng có nhiều truyện về sau
đọc rất được.
Tôi nhớ tuyết trên đường dẫn vào làng
kêu ken két trong đêm khi chúng tôi, thanh trượt gậy trượt trên vai, về nhà
trong giá lạnh, thấy xa xa là ánh đèn rồi những tòa nhà, và mọi người trên
đường chào nhau “Gruss Gott”. Lúc nào cũng có những người bản xứ đi giày đinh
mặc áo miền núi ngồi trong quán rượu Weinstube đầy khói, sàn
loang lổ vết thẹo vì đinh giày. Có nhiều thanh niên từng phục vụ trong các binh
đoàn Alps của Áo, một trong số đó là Hans, làm ở xưởng gỗ, một tay thợ săn có
tiếng, và chúng tôi rất thân nhau vì chúng tôi từng đóng quân cùng một nơi trên
miền núi ở Ý. Chúng tôi uống rượu và cùng hát những bài ca sơn cước.
Tôi nhớ những lối đi lên qua những vườn
cây trái, qua những cánh đồng của các nông trại bên sườn đồi phía trên ngôi
làng, những nhà thôn dã ấm áp với lò sưởi bề thế và những đống củi khổng lồ
trong tuyết. Phụ nữ làm lụng trong bếp, chải và dệt len thành những sợi màu xám
và đen. Bánh xe dệt quay nhờ bàn đạp chân và sợi dệt không hề nhuộm. Sợi đen từ
lông cừu đen. Và vì là len tự nhiên còn nguyên cả mỡ, nên mũ hay áo len dài tay
và khăn quàng cổ Hadley đan từ những sợi này đi trong tuyết không bao giờ ẩm.
Có lần vào dịp lễ Giáng sinh, hiệu
trưởng trường đạo diễn một vở kịch của Hans Sachs. Vở kịch hay và tôi viết một
bài bình luận cho báo địa phương với bản dịch của viên quản lí khách sạn. Vào
một năm khác, có một viên cựu sĩ quan hải quân Đức đầu cạo láng bóng đầy sẹo
đến nói chuyện về cuộc chiến ở Jutland. Bản chiếu đèn hiện lên các di chuyển
hạm đội của hai phe tham chiến, và viên sĩ quan hải quân dùng cây cơ bi-a làm
con trỏ mỗi khi ông nhấn mạnh sự hèn nhát của Jellicoe và thỉnh thoảng ông nổi
giận đến lạc cả giọng. Ông hiệu trưởng trường cứ sợ cây cơ bi-a chọc thủng màn
hình. Sau đó, viên cựu sĩ quan không thể giữ bình tĩnh được nữa, và trong Weinstube mọi
người đều thấy rất khó ở. Chỉ có mỗi viên công tố và ông chủ ngân hàng ngồi
uống với ông ta tại một bàn riêng. Herr Lent, xuất thân từ vùng sông Rhine, không
dự buổi thuyết trình. Có một đôi từ Viên đến trượt tuyết nhưng không muốn lên
vùng núi cao nên đang chuẩn bị rời đây để đến Zurs, về sau tôi được biết, cả
hai đều chết ở đó trong một vụ tuyết lở. Người đàn ông bảo thuyết trình viên là
thứ đồ con lớn đã hủy hoại nước Đức và hai mươi năm tới bọn người như thế sẽ
tiếp tục hủy hoại lần nữa. Người phụ nữ đi cùng bảo ông im mồm bằng tiếng Pháp
và nói cái chốn này chỉ là một nơi bé tí và làm sao mà biết được.
Đó là cái năm có rất nhiều người thiệt
mạng vì tuyết lở. Đợt chết nhiều người đầu tiên xảy ra trên vùng núi bên kia
thung lũng chúng tôi đang ở, về miệt Lech của Arlberg. Một nhóm người Đức muốn
đến trượt tuyết cùng Herr Lent trong dịp nghỉ lễ Giáng sinh. Năm ấy tuyết rơi
muộn, sườn núi và những ngọn đồi hãy còn ấm dưới ánh mặt trời thì đợt tuyết lớn
đầu tiên bắt đầu rơi. Tuyết dày và xốp không kết chặt vào đất. Không gì nguy
hiểm hơn trượt tuyết trong điều kiện ấy, thành thử Herr Lent đánh điện bảo
những người ở Berlin kia đừng đến. Nhưng đây là kì nghỉ của họ và cả bọn ngu
muội nên chẳng biết sợ tuyết lở là gì. Bọn họ đến Lech và Herr Lent từ
chối dẫn đường. Một gã gọi Lent là thằng hèn và bảo họ sẽ tự trượt tuyết lấy. Rốt
cuộc ông phải đưa họ đến sườn đồi an toàn nhất mà ông có thể tìm được. Ông tự
mình trượt trước để thử rồi cả bọn làm theo và cả sườn đồi trong nháy mắt trượt
xuống ụp lên đầu họ không khác gì những cơn sóng triều. Mười ba người được lôi
lên và chín người trong đó đã chết. Trước khi xảy ra sự kiện ấy, trường dạy
trượt tuyết Alps chưa từng phát đạt, còn sau đó thì chúng tôi gần như là những
học viên duy nhất. Chúng tôi trở thành những học trò xuất chúng về môn tuyết lở,
về các loại tuyết lở khác nhau, làm sao tránh chúng và biết ứng biến thế nào
khi lâm vào tình cảnh ấy. Hầu hết những gì tôi viết năm ấy đều là viết trong
mùa tuyết lở.