Trái Tim Em Thuộc Về Đất - Chương 05 - 06

5

“Tôi sẽ về nhà,” nàng nói, nhưng gã đã kéo nàng vào
trong và đóng cửa lại.

“Tại sao cô lại muốn rời khỏi đây?”

“Tôi thấy mình lạc lõng giữa cái nơi lộng lẫy này.”

“Mái tóc cô còn lộng lẫy hơn bất cứ thứ gì trong
ngôi nhà này. Con mắt cô thì như rượu sherry.”

“Ông nói thật chứ?”

“Thật. Giờ thì cô hãy vào thay váy đi.”

Gã cúi xuống một chiếc chân nến cũ bằng bạc đã xỉn
màu.

“Cô lên gác đi. Có một chiếc gương ở trong căn
phòng đầu tiên. Sau đó chúng ta sẽ ăn tối.”

“Ngồi ăn tối trong chiếc váy óng ánh lộng lẫy in
hình hoa hồng,” Hazel nói với vẻ ngây ngất, giọng nàng ngân nga như đang hát,
“với tấm khăn trải bàn trắng tinh và một người hầu đi tới đi lui như một con
chim hoét chạy theo con giun.”

“Cô là chim hoét thì có!” Andrew làu bàu, ngó vào
phòng. Rồi lão lại rút lui, vừa đi vừa nói với con mèo bằng giọng sầu thảm cay
đắng như lão vẫn thường làm mỗi khi bực mình: “Không có con mèo nào trong Kinh
Thánh đâu.” Rồi lão bắt đầu hát lên bài hát “Bên dòng sông Babylon”.

Ở trên gác Hazel đang dùng tay chải mái tóc dài rực
rỡ của nàng, bởi nàng không có lược, và chỉnh chiếc váy lót sao cho phù hợp với
chiếc váy cổ sâu mà Reddin đưa cho nàng. Ở ngoài, núp trong bóng tối, Reddin
với mái tóc dính tuyết đứng ngắm nàng say sưa! Gã ngắm nàng đứng đó với mái đầu
ngẩng cao và đôi vai trần trắng nõn đang mỉm cười với chính mình trong gương.
Gã ngắm nàng chui vào chiếc váy lộng lẫy và đứng làm dáng với vẻ thích thú, rồi
uốn éo đi tới đi lui như một con chim chìa vôi. Gã lưu lại trong đầu dáng người
uyển chuyển và những lọn tóc óng mượt của nàng.

“Được đấy,” gã nói mà không buồn tự hỏi bản thân gã
có được hay không. Rồi gã bật ra một tiếng kêu khe khẽ. Nàng đã mở cửa sổ, đẩy
dây thường xuân phủ tuyết sang bên, và vươn người ra ngoài, bộ ngực bên dưới
lớp váy lụa gối lên tuyết.

Nàng dõi mắt ra khoảng không phía trên gã, nhìn đăm
đăm vào màn đêm mênh mông.

“Xin đừng để bất cứ ai cướp mất danh tiết của con,
bởi vì ông già đó nói con phải giữ gìn nó,” nàng nói. “Và xin hãy phù hộ cho
con được trở về với Cáo Nhỏ ngay khi ánh ngày ló dạng, và xin đừng để tai họa
nào giáng xuống đầu chúng con!”

Màn đêm nhận lời cầu nguyện của nàng trong
im lặng. Chẳng biết ngoài Reddin có ai nghe thấy lời nguyện cầu ấy không.

Reddin nhón chân đi vào nhà, khá chán nản. Gã vừa
vớ được một sinh vật thật lạ lùng.

Lúc Hazel ở trên gác xuống, Vessons vẫn đang hát
bài “Bên dòng sông Babylon”.

“Tại sao ông ta lại không hát được quá năm từ nhỉ?”
Hazel hỏi. “Ông ta cứ ngừng rồi lại hát như một con chó quẩn quanh cái xích.”
Nàng bắt đầu hát bằng giọng cao vút, trong trẻo. Mọi âm thanh trong bếp bỗng
ngừng bặt.

Reddin nhìn Hazel đăm đăm.

“Ai đã dạy cô hát thế?” gã hỏi.

“Cha tôi. Ông ấy chơi đàn tuyệt lắm, cha tôi ấy.”
Hazel nhận ra rằng đứng trước những con người xa lạ tình cảm của nàng dành cho
cha gần như có thể nói là ấm áp. “Chơi đàn hạc suốt đêm, ông ấy làm cho da thịt
người ta râm ran. Ôi! Cha tôi có bùa ngải gì đó, giống như những bụi cây vào
tháng Năm ấy. Ông ấy nói, ‘Hát đi!’, thế là tôi bật dậy và hát, trong khi tôi
chẳng biết mình đang hát cái gì.”

“Hẳn rồi,” Vessons nói.

Reddin quay ngoắt lại.

“Ông đang làm cái quái gì ở đây thế hả?” gã hỏi.

“Tôi ra để nói rằng,” – giọng Vessons khô khốc –
“thức ăn cho bữa tối cháy rồi.”

“Cháy ư?”

“Đúng thế, cháy thành than rồi.”

“Đồ đần, làm thế nào mà ông lại để cháy hả?”

“Tôi mải nghe quý cô đây dạy hát.”

Reddin tức điên. Gã biết tại sao bữa tối nay lại
cháy thành than.

“Cút đi!” gã quát. “Cút xuống chuồng ngựa và đừng
có thò mặt về đây nữa. Tôi sẽ tự nấu bữa tối.”

Vessons bình thản rút lui. Bởi vì Hazel đã xúc phạm
lão nên lão quyết định để mặc xác nàng tự lo lấy thân.

“Ông ấy không thể ở trong nhà được sao?” Hazel hỏi
với vẻ áy náy.

“Không.”

Họ lấy bánh mì, bia và thịt nguội ra. Reddin vui
mừng hớn hở, và trong suốt bữa ăn, gã tỏ ra khá lịch sự. Gã nể sợ trước vẻ đẹp của
nàng và lời cầu nguyện của nàng trước màn đêm. Nhưng khi cơn đói của gã đã được
thỏa mãn, giọng nói của gã trở nên sôi nổi hơn, đôi mắt gã đầy thèm khát.

Sự tự chủ sụp đổ giữa họ. Nhìn khuôn mặt của gã,
Hazel lại cảm thấy muốn thoát khỏi đó. Khi gã nói, “Tôi muốn vuốt ve chiếc váy
lụa đó,” và tiến về phía nàng, vờ như vô tình đánh đổ cây nến, nàng liền né
tránh gã, và nói bằng giọng gay gắt:

“Đừng có thô bạo với tôi!”

Gã không đếm xỉa đến những gì nàng vừa nói.

“Tôi sẽ đối xử tốt với em,” gã nói; “Tôi xin thề.
Tôi… phải, thậm chí tôi sẽ cưới em ngay ngày mai. Nhưng đêm nay hãy là của
tôi.”

Trong mắt Hazel vấn đề không phải là có cưới hay
không. Mà vấn đề là bản năng gốc. Nàng sẽ là của riêng nàng mà thôi.

Gã kéo váy nàng tụt khỏi một bên vai. Nàng vùng vẫy
cố thoát khỏi bàn tay gã như một con cá cố vùng vẫy khỏi tấm lưới. Gã ngạc
nhiên đến mức không tiếp tục lấn tới.

“Ông già ơi!” nàng gọi, chạy vụt ra sân, “lại đây
nhanh lên! Nhanh lên!” Một cái đầu xám bù xù xuất hiện.

“Chuyện gì thế? Có chuyện gì mà gọi lão già này
thế?”

“Tôi không muốn ở một mình với ông ta!”

Vessons
nhìn nàng trừng trừng. Có vẻ như nàng cũng là người sùng mộ tín ngưỡng của lão
– tín ngưỡng độc thân; người dám cưỡng lại mệnh lệnh dứt khoát của tự nhiên.

“Tôi
đánh giá cô cao hơn rồi đấy,” lão nói. “Vậy là ông chủ mất công mà chẳng xơ múi
được gì,” lão cười khùng khục. “Cô có thể ngủ ở phòng của tôi. Cô sẽ không phải
nói Andrew Vessons không phải là người có lòng nhân đức. Cô sẽ không bao giờ
phải nói thế đâu! Có chìa khóa để khóa cửa phòng lại đấy.”

Lão
dẫn nàng đi qua cửa sau, vào bếp, lên gác tới cửa phòng của lão.

Hầu
hết mọi người đều thà phải chiu đựng bất kỳ điều gì còn hơn là ngủ trong căn
phòng này, lão tiết lộ khi mở cửa phòng với vẻ hãnh diện. Lão có tình yêu của
một kẻ ẩn dật dành cho những vật sở hữu nho nhỏ và những tiện nghi thường ngày.

Trên
một chiếc hòm để lộn ngược cạnh giường ngủ là cái tẩu thuốc bằng đất sét, mấy
que diêm, một lon thiếc đựng mật đường giờ chuyển sang đựng rượu whisky, và vài
cái xương gà. Lão thường giữ vài chiếc xương để gặm như một cách giải khuây.
Một con chim sẻ thông vàng với dáng vẻ ưu tư nhốt trong chiếc lồng gỗ ở bậu cửa
sổ, bệ lò sưởi được trang trí bằng những con chuột bạch nhốt trong những chiếc
lồng tự chế. Đó là một căn phòng khá thú vị đối với Hazel.

“Hãy
cẩn thận với đồ đạc của tôi đấy,” Vessons nói bằng giọng nuối tiếc. “Hai mươi
năm nay chưa có đêm nào tôi không ngủ ở căn phòng này đâu. Con chim kia chưa
bao giờ ngủ mà không có tôi ở đây. Nó sẽ nhớ lão già này đấy. Nó không hót cho
bất cứ ai khác nghe đâu.” Lão luôn khẳng định điều đó, còn con chim kia thì
luôn làm ngược lại khi hót cho Reddin và bất cứ vị khách nào ghé qua. Nhưng
Vessons vẫn một mực tin thế. Có những điều cần phải tin; nghi ngờ có nghĩa là
thất vọng.

Vessons
tự cho mình là người hào phóng.

“Cô
có thể uống một ngụm whisky nếu cô muốn,” lão nói. “Bây giờ tôi phải đi đây,
trước khi con chim đó nhận ra tôi, nếu không tôi đố có đi ra khỏi đây được.”

Con
chim ngồi im, đắm chìm trong im lặng. Có thể nó đang nghĩ đến một khu rừng già
và những cây bồ công anh đã kết hạt. Nó thân thiết với những gì mà tiện nghi
không có ý nghĩa mấy còn tự do thì ngược lại. Hazel cũng vậy.

“Khóa
cửa phòng lại!” Từ ngoài cầu thang Vessons nói vọng vào bằng giọng thì thầm sầu
thảm.

Hazel
làm theo lời lão, rồi nằm cuộn mình ngủ trong ngôi nhà đầy những tiếng cọt kẹt,
vô lo vô nghĩ như đám chuột bạch kia, không có khả năng tự vệ như chúng, biết
ơn Vessons chút xíu vì sự che chở của lão như chúng, và ngủ mà không mảy may
nghĩ đến chuyện thế giới sẽ đối xử với nàng như chúng.

6

Sáng
sớm hôm sau, trong khi con chim vẫn đang chìm trong giấc mơ còn đám chuột vẫn
nằm cuộn tròn bất động, Hazel đã bị đánh thức bởi một tiếng gõ nơi cánh cửa sồi
đồ sộ. Nàng chạy ra mở hé cửa, ghé mắt nhìn ra qua những lọn tóc như một con
sóc nhìn qua đám lá mùa thu.

Vessons
đứng đó chìa một cốc bia về phía nàng. Nhưng Hazel thuộc kiểu phụ nữ thích uống
trà.

“Giá
như có ấm nước đang sôi thì tốt biết mấy,” nàng nói vẻ bâng khuâng.

“Trà!” Vessons nói. “Chao ôi! Đàn bà thường nổi cơn
tam bành sau khi uống trà! Tôi có buộc phải pha trà không nhỉ?”

“Giá như có ấm nước đang sôi thì tốt biết mấy.”

“Ấm nước! Dĩ nhiên đến giờ này thì phải có ấm nước
đang sôi rồi. Nếu không thì làm thế nào lũ bê có được bữa ăn nhỉ?”

“Hừm, ông không cần phải gào lên như vậy. Ông đánh
thức ông ta dậy đấy.”

Nỗi sợ hiển hiện trong mắt nàng, nỗi sợ ghê gớm và
khó hiểu đối với chính bản thân nàng.

“Tôi phải đi khỏi đây!” nàng thì thầm.

“Phải! Cô phải đi,” Vessons nói, mừng vì chỉ một
lần này thôi nhiệm vụ và sự phục tùng đi đôi với nhau.

“Tôi sẽ đưa cô về,” lão nói thêm. “Cô sống ở đâu?”

Nàng lưỡng lự.

“Cô không cần phải sợ đâu, cứ nói cho tôi biết
đi,” Vessons nói. “Tôi sáu mươi tuổi rồi, và cô đối với tôi” – lão thăm dò
khuôn mặt ửng đỏ của nàng với vẻ trầm tư – “chẳng hơn gì một con mèo hoang vô
dụng,” lão kết luận.

Hazel nhăn mặt; nhưng nàng muốn có một lời hứa từ
Vessons, vậy nên nàng không bắt bẻ.

“Ông sẽ không nói cho ông ta biết chứ?” nàng van
nài.

“Tôi
ư? Không bao giờ! Không con ngựa hoang nào, không con ngựa thuần chủng nào,
không con ngựa đua nào, không con ngựa kéo nào, không con ngựa Suffolk nào moi
được điều đó ở tôi!” Vessons nói một cách hung hồn, bởi vì lại một lần nữa lời
đề nghị và tính cách của nó đi đôi với nhau. Lão không muốn có một người đàn bà
ở Undern.

“Thôi
được,” Hazel thì thầm qua khe cửa, “tôi sống ở Callow.”

“Gì
cơ! Cái nơi khỉ ho cò gáy bị lãng quên từ đời tám hoánh ở bên kia núi ư?”

“Đúng!
Nhưng nó không phải là nơi khỉ ho cò gáy bị quên lãng; nó tốt hơn nơi này. Ở đó
chúng tôi có ong.”

“Chúng
tôi cũng có ong.”

“Và
nhạc nữa.”

“Nhạc
ư? Nhạc làm gì? Nhạc có ăn được đâu.”

“Và cha tôi làm quan tài.”

“Thật vậy sao?” Vessons nói, cuối cùng cũng tỏ ra
quan tâm. Sau đó lão sực nhớ tới danh dự của Undern. “Nhưng ở đó cô không có
cây dâu tằm,” lão nói vẻ đắc thắng. “Thấy chưa! Ở đâytôi có!”

Lão lệnh khệnh đi xuống dưới nhà.

Lát sau Hazel cũng đi xuống, ngồi uống trà bên bếp
lửa đỏ rực trong bếp, vừa uống vừa nhìn những cụm sương giá như những bông hoa
nhẹ nhàng trôi khỏi cửa sổ như thể ai đó đã dùng một miếng bọt biển lau đi.
Tuyết giống như những hạt đường lấm tấm dồn đống trên bậu cửa sổ, và khu vườn,
những nếp nhà phụ, những cánh đồng, ao hồ, những đống rơm, tất cả đều mang một
vẻ chói lọi, lóng lánh như thủy tinh.

“Đi đường nào nhỉ?” Hazel đứng trên bậc cửa, ngơ
ngác hỏi. “Làm thế nào tôi tìm thấy đường bây giờ?”

“Cô sẽ không tìm thấy đâu.”

“Nhưng tôi phải tìm!”

“Cô nghĩ Andrew Vessons này sẽ để một người đàn bà
lang thang trong tuyết khi mà ông ta có cả một đàn ngựa tốt ở trong chuồng ư?”
Vessons nói bằng giọng kẻ cả. “Tôi sẽ đánh xe đưa cô về nhà.”

“Tôi rất biết ơn ông,” Hazel nói. “Nhưng liệu ông
ta có phát hiện ra không?”

“Cô đừng lo. Nếu tôi để mặc cho ông ta ngủ thì ông
ta sẽ ngủ tít cho đến tận trưa,” Andrew nói.

Họ
đánh xe đi trong im lặng. Móng ngựa ngập sâu trong tuyết. Hazel ngoái đầu nhìn
lại khi hừng đông thẫm đỏ ló dạng. Ngôi nhà đối diện với nàng bằng cái vẻ uy
lực và kiên nhẫn của nó. Nàng có cảm thấy mình vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi
nó. Nàng tự hỏi mình sẽ cảm thấy thế nào nếu Reddin bỗng nhiên xuất hiện bên
cửa sổ phòng gã. Và một ao ước nhỏ nhoi mang hơi hướm phản bội bỗng nhen lên từ
một nơi nào đó trong tim nàng. Nàng nhìn những ô cửa sổ và trút một tiếng thở
dài. Nàng suýt nữa ước ao rằng lúc ấy Reddin đã thức dậy.

Nhưng
nàng mau chóng quên đi tất cả trong niềm vui thích; bởi vì tuyết ánh lên lấp
lánh, nhưng vết chân thỏ rừng và thỏ nhà tạo thành vệt, những dấu chân chim in
thành hàng ngay ngắn, những vết chân sâu của cừu, tất cả khiến nàng bật cười
trước sự thay đổi hướng đi đột ngột của những con vật, vì chúng chạy theo hình
thòng lọng và những vòng tròn tựa như những bước đi điên rồ của một kẻ mộng du
trước con mắt những người không biết cớ sao người đó lại đi như thế. Hành vi
của Hazel cũng vậy; ai cũng thế cả thôi nếu như nhìn những hành vi mà không
biết rõ nguyên do.

Bầy
chim choi choi lượn vòng vòng, cất lên những tiến kêu chán chường, nhìn những
bông tuyết mềm rơi không ngớt ngăn cách chúng với đồng cỏ xanh, buồn như những
kẻ nhìn số phận kéo tấm mạng dày che giữa họ và cánh đồng của hy vọng và niềm
vui.

Đến
chân đồi Callow, Hazel xuống xe.

“Đừng
bao giờ nói cho ông ta biết nhé,” nàng ngước lên nói.

“Không
đời nào,” Vessons quả quyết.

Hazel
lưỡng lự.

“Đừng
bao giờ nói cho ông ta biết,” nàng nói thêm, “trừ khi ông ta hỏi quá nhiều
và bất an quá đỗi.”

“Ông
chủ có thể hỏi cho đến ngày tận thế,” Vessons nói, “và ông ấy có lẽ sẽ cảm thấy
bất an như thể có mười nghìn con ma đang dạo chơi quanh Undern khi mặt trăng
xuống thấp, nhưng tôi sẽ không bao giờ nói cho ông ấy biết đâu.”

Hazel
thở dài, quay gót leo lên đồi.

“Một
bà chủ ở Undern ư!” Andrew nói với con ngựa kéo khi lão đánh xe quay trở về.
“Không, không, lão già này sẽ không nói ra đâu! Không đời nào.”

Một
con chim ác là bay ra từ trong một khu rừng ven đường, nhìn lão với vẻ ghê tởm.
Lão nhìn quanh như thể có ai đó đang cười khẩy khi thấy lão cứ lải nhải mãi
điệp khúc, “Không, lão già này sẽ không bao giờ nói ra đâu! Không đời nào.”

“Hazel
đâu?” Reddin hỏi.

“Không
con ngựa hoang nào, không con ngựa thuần chủng nào, không con ngựa đua nào,
không con ngựa kéo nào, không con ngựa Suffolk nào…” Vessons, người có phong
cách được tích lũy dần theo thời gian và là người mà hễ đã nghĩ ra được một cụm
từ hay ho thì y như sẽ khai thác nó cho đến chết giống như bất cứ nghệ sĩ nào
nói.

“Ôi,
ông say rồi, Vessons ạ!” ông chủ của lão nói.

“Không
một con ngựa nào có thể moi được ở tôi,” Vessons nói nốt câu.

Reddin
biết đó là sự thật, và cảm thấy khá vô vọng. Tuy nhiên, gã quyết tâm không bỏ
cuộc cho tới khi tìm được Hazel.


dò hỏi thông tin tại quán Vũ Khí Của Thợ Săn, nhưng Vessons đã có mặt ở đó
trước gã, và vì thế gã được chào đón bởi sự ngu ngơ không biết gì hết của mọi
người.

Vessons
thuộc tầng lớp dân đen, Reddin thuộc tầng lớp địa chủ, vậy nên những người
thường lui tới quán Vũ Khí Của Thợ Săn đứng về phía kẻ đối đầu với Reddin.

“Ông
sẽ không cắn được một miếng táo nào nữa đâu,” Vessons nói bằng giọng mãn
nguyện, khi ông chủ của lão quay trở về với vẻ mặt thất vọng.

“Tôi
không thể chịu nổi thái độ của lão hơn nữa, Vessons ạ,” gã nói vẻ tức tối.

“Vậy
thì hãy đuổi việc tôi đi,” Vessons nói, lặp lại chiêu bài cũ rích của lão, và
lại giành phần thắng.

Reddin
có những sai lầm của tầng lớp mình, nhưng đuổi cổ một gia nhân già nua không
phải là một trong những sai lầm đó. Vessons lợi dụng điều ấy, luôn nói và làm
theo ý mình.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3