Những người khốn khổ - PHẦN I - Quyển VII - Chương 03 phần 1
III
MỘT TRẬN BÃO TÁP TRONG ĐẦU
Chắc độc giả đã đoán ra ông Mađơlen
chính là Giăng Vangiăng rồi. Chúng ta đã có lần nhìn sâu vào lương tâm ông; bây
giờ lại nhìn vào đấy một lần nữa. Làm việc này khó mà bình thản, khó mà không
run sợ. Vì có gì ghê rợn bằng cái việc quan chiêm đó!
Một con người, dù là con người không
đáng kể đi nữa, đem tâm hồn họ mà viết thành bài ca, thì đó là thiên hùng ca
hay nhất, trọn vẹn nhất đúc lại trên mọi thiên hùng ca. Ôi! Tâm hồn con người,
bao nhiêu thứ mơ ước hão huyền, bao nhiêu thứ lòng tham, ý định, chất chồng ở
đấy! Bao nhiêu giấc mơ nung nấu, bao nhiêu ý nghĩ sâu xa ẩn nấp ở đấy! Ngụy
biện: thanh minh ngự trị ở đấy, dục vọng xô xát nhau cũng ở đấy. Vào lúc một
con người đang suy nghĩ, thử bỏ qua vẻ mặt lạnh lùng mà nhìn vào trong bóng
tối, vào tâm hồn của họ mà xem. Bên ngoài có vẻ yên tĩnh mà ở đấy chính là
những tráng sĩ khổng lồ đang đánh nhau như trong thơ Hôme, những rồng những rắn
quần nhau bên cạnh vô số bóng ma như trong sách Mintơn, những vòng nọ vòng kia
chật ních những linh hồn như trong tưởng tượng của Đăngtơ. Lương tâm là một cõi
vô biên ghê rợn. Con người ai cũng có và phải lấy đó để suy xét tất cả những ý
muốn nảy ra trong óc và tất cả những hành vi trải qua trong cuộc đời!
Ngày xưa có kẻ đã đứng trước cửa một nơi
kia nhưng vì cửa rùng rợn quá mà ngập ngừng. Nhưng thôi, cứ vào vậy. Từ khi
Giăng Vangiăng gặp thằng bé Giecve, câu chuyện đã xảy ra như thế nào, độc giả
biết cả rồi, không cần phải nói thêm nhiều. Chỉ biết từ hôm ấy trở đi, Vangiăng
đã thành một con người khác. Ông giám mục muốn Vangiăng trở nên như thế nào,
Vangiăng đã làm y như thế. Không phải là một sự thay đổi, mà thật tình là một
sự lột xác.
Vangiăng tìm cách mai danh ẩn tích, bán
món đồ đạc của ông giám mục đi, chỉ giữ có đôi chân đèn làm kỷ niệm. Vangiăng
lén lút từ tỉnh này sang tỉnh khác, đi suốt nước Pháp đến cảng Môngtơrơi. Ở đây
Vangiăng nảy ra sáng kiến đã nói trên kia và làm được những việc như đã biết,
khiến cho mình thành người không ai bắt nổi và không ai dám ngờ tới. Vangiăng
yên tâm ở Môngtơrơi, sung sướng thấy mình không quên bài học đau buồn của dĩ
vãng và cuộc đời mình về sau đã rửa sạch được vết nhơ của nửa đời mình ngày
trước. Đời Vangiăng từ nay yên ổn: ông vững lòng và hy vọng. Bây giờ ông chỉ lo
có hai điều là giấu kỹ tên tuổi và sống một cuộc đời được thừa nhận, thoát bàn
tay người đời và trở về với Chúa. Hai ý nghĩ ấy gắn liền với nhau thành một
trong tâm trí Vangiăng. Cả hai quyết liệt chiếm hết tâm trí và chi phối tất cả
hành động của Vangiăng. Thường thì hai ý nghĩ ấy thống nhất để định cho
Vangiăng cách xử thế, làm cho Vangiăng ưa cảnh sống tối tăm, biến Vangiăng thành
người trung hậu, giản dị và cũng khuyên Vangiăng những lời giống nhau. Nhưng
đôi khi cũng có mâu thuẫn. Lúc đó con người mà tất cả vùng Môngtơrơi gọi là ông
Mađơlen đã hy sinh ý nghĩ thứ nhất cho ý nghĩ thứ hai, hy sinh sự an toàn của
mình cho đạo đức. Cho nên, mặc dầu phải hết sức đề phòng và giữ gìn. Vangiăng
vẫn giữ đôi chân đèn của ông giám mục, để tang cho ông ấy, cho gọi và hỏi han
tất cả những trẻ người xứ Xavoa đi ngang qua tỉnh, điều tra về các gia đình ở
Phavơrôn và sứ cứu mạng cho lão Phôsơlơvăng, chẳng kể gì đến những lời bóng gió
đáng lo ngại của Giave. Hình như Vangiăng đã theo gương những bậc hiền nhân
quân tử và nghĩa vụ đầu tiên của ông không phải là vì mình.
Tuy vậy cũng phải nói rằng chưa bao giờ
có việc như thế xảy ra. Chưa bao giờ hai ý nghĩ ấy, hiện ngự trị con người đáng
thương mà ta đang kể lại cuộc đời đau khổ đây, lại xung đột nhau kịch liệt đến
thế. Giave vào buồng giấy ông, vừa thoạt nói mấy lời, ông đã lờ mờ hiểu ngay
câu chuyện và đã thấy nó sâu xa. Lúc đột nhiên nghe đọc đến cái tên đã chôn vùi
mấy lớp, ông như sững sờ choáng váng, vì thấy số mệnh sao lại có điều kỳ dị
kinh khủng đến thế. Qua phút sững sờ ông giật mình, cái giật mình báo hiệu
những cuộc biến đổi lớn. Bỗng dưng ông cúi đầu như cây cối trước cơn giông, như
người lính trước trận xung phong. Ông thấy như mây đen, sấm sét đang kéo trên
đầu mình. Nghe Giave nói, ông liền nghĩ đến việc đi ngay, chạy ngay đi tự tố
cáo để cứu lão SăngMáchiơ và ngồi tù thay cho lão. Lòng ông đau như dao cắt.
Nhưng rồi ý nghĩ ấy qua đi, ông tự bảo mình: “Sao lại thế!” ông cố nén cái cử
chỉ hào hiệp ban đầu ấy đi và lùi bước, không dám dũng cảm.
Tất nhiên, sau khi nghe những lời đáng
tôn kính của ông giám mục, qua bao nhiêu năm hối cải và nhẫn nhục, giữa lúc
đang bắt tay vào việc chuộc tội một cách hiệu quả đáng lẽ người ấy, mặc dầu
đứng trước một nỗi băn khoăn ghê gớm như lần này, nhất định không chịu chùn
chân chút nào, cứ thẳng bước đến chỗ vực thẳm mà dưới đáy thì lại là trời, được
như thế thì hay biết bao nhiêu. Nhưng nào có được thế. Chỉ biết là phải kể ra
đây tất cả những diễn biến trong tâm hồn con người ấy. Và cũng chỉ kể được cái
gì đã xảy ra thôi. Ban đầu ông bị bản năng sống còn lôi cuốn ông vội tập trung
mọi ý nghĩ lại, cố nén cơn xúc động, để ý đến sự có mặt của Giave, mối nguy cơ
lớn cho ông, hoãn những điều đã quyết định với cái liều lĩnh của người đang sợ
hãi, thận trọng đến mệt óc trong mọi việc sắp làm và lấy cái thái độ bình tĩnh
như người võ sĩ cúi nhặt lá mộc đánh rơi vậy.
Cả buổi tối hôm ấy, tâm trạng ông cứ như
thế. Trong lòng rối như tơ vò mà bề ngoài vẫn cứ điềm nhiên, bình thản. Ông chỉ
thực hiện những “biện pháp bảo lưu” thôi.[67] Tất cả như mơ hồ và lộn xộn trong đầu óc ông. Lòng phân
vân đến nỗi ông không thể có được một ý kiến gì cho rõ rệt. Ngay cả bản thân
ông, ông cũng không hiểu như thế nào cả. Chỉ biết rằng mình vừa bị một vố nặng,
ông vẫn đến thăm Phăngtin ở phòng bệnh như mọi khi và nấn ná ở lại lâu hơn.
Lòng thương người khiến ông thấy cần phải làm như thế và ông ủy thác chị cho
hai bà xơ một cách cặn kẽ phòng khi ông phải vắng mặt. Ông mơ hồ nghĩ rằng có
lẽ cần phải đi Arát, nhưng chẳng có ý gì quả quyết cả. Ông lại tự bảo như mình
thì còn sợ gì ai nghi ngờ nữa, có tới đó cũng không hại gì, lại được xem sự thể
ra làm sao. Và ông đã đến thuê xe ngựa của lão Xcôphơle, cũng là cách chuẩn bị
đề phòng mọi sự bất trắc, thế thôi.
[67] Danh từ chuyên môn về tư pháp
Tối hôm ấy, ông ăn cơm khá ngon miệng.
Vào phòng nghỉ, ông bình tâm suy nghĩ lại.
Ông nhận định lại tình hình và thấy thật là phi lý. Phi lý
đến nỗi giữa lúc suy nghĩ vẩn vơ như thế mà cũng hình như có mối lo sợ gì khó
tả, buộc ông phải đứng dậy ra đóng chặt cửa và cài then thật kỹ. Ông sợ còn có
cái gì nó vào nữa. Ông chặn ngang cửa để chống lại với cái có thể đến.
Một lát sau, ông tắt nến đi. Ánh sáng làm ông khó chịu.
Hình như người ta có thể trông thấy ông được.
Người ta, là ai?
Khổ thay! Ông muốn đuổi nó ra ngoài thì
nó đã vào, ông muốn che mắt nó thì nó đã nhìn ông, nó là lương tâm ông.
Mà lương tâm ông tức là Chúa.
Dù sao, lúc đầu ông vẫn còn ảo tưởng,
cho mình thế là yên chí, chỉ có một mình mình thôi. Cửa đã cài then không ai
còn làm gì nổi mình; đèn đã tắt đi rồi, còn ai trông thấy mình nữa. Bây giờ ông
mới nhìn kỹ vào mình. Gian phòng tối om. Ông tỳ khuỷu tay xuống bàn. Đưa bàn
tay đỡ trán, ngồi suy nghĩ.
“Ta nghĩ đến đâu rồi? - Ta không mơ ngủ
chứ? - Họ đã nói gì với ta? Có thật ta đã gặp tên Giave và nó đã nói với ta như
thế không? Tên SăngMáchiơ là thế nào? - Nó giống ta ư? - Có thể thế được không?
Hôm qua ta còn được thảnh thơi và có ngờ đâu sự thể thế này! Hôm qua, giờ này
ta đang làm gì nhỉ? - Việc này nó thế nào? - Kết cục rồi ra sao? - Làm thế nào
bây giờ?”
Đấy, trong lòng ông xốn xang như thế
đấy. Đầu óc không còn sức suy nghĩ minh bạch nữa, các ý nghĩ cứ xô đi như làn
sóng, ông đưa hai tay ôm lấy đầu như để giữ lại. Tình trạng bời bời ấy làm cho
tâm trí và nghị lực ông bị đảo lộn cả, ông muốn tìm một cái gì đích xác, muốn
có một sự quyết định, nhưng chỉ thấy có lo sợ. Đầu nóng bừng bừng. Ông ra cửa
sổ, mở toang cả hai cánh ra. Trên trời không một bóng sao. Ông lại vào bàn
ngồi.
Một giờ đồng hồ trôi qua như thế. Dần
dần một vài đầu mối bắt đầu hiện ra và cấu kết lại trong ý nghĩ, làm ông thấy
hé ra một cách chính xác thực tế của cảnh ngộ mình tuy chưa được bao quát song
đã chắc chắn được đôi ba điều.
Ông bắt đầu nhận ra rằng dù cảnh ngộ ấy
có kỳ dị bấp bênh đến đâu đi nữa, ông cũng hoàn toàn làm chủ được tình thế.
Vì lẽ ấy, ông lại càng thấy thêm lo sợ…
Các việc ông làm đều nhằm mục đích sửa
mình một cách nghiêm khắc, theo lời răn của Chúa. Nhưng đặt mục đích ấy qua một
bên thì tất cả những điều ông làm, cầm bằng như ông đào một hố sâu để chôn chặt
tên mình. Điều ông sợ nhất trong những lúc ông trầm ngâm tự vấn hoặc trong
những đêm trằn trọc không ngủ, là có ai đọc đến tên ấy. Ông nghĩ rằng nếu việc
ấy xảy ra thì mọi sự coi như hỏng hết: cái tên ấy mà hiện ra thì nó sẽ làm tiêu
tan cuộc đời mới của ông, và biết đâu nó lại không làm tiêu tan cả tâm hồn mới
của ông nữa? Chỉ mới nghĩ việc ấy có thể xảy ra là ông đã rùng mình.
Giả dụ những lúc ấy có người đến nói với
ông như thế này: có lúc cái tên ấy sẽ vang đến bên tai, cái tên Giăng Vangiăng
ghê tởm ấy sẽ từ trong bóng tối hiện ra sừng sững trước mặt, những luồng ánh
sáng vĩ đại lâu nay đã xóa sạch cái màn bí mật chung quanh ông, bỗng dưng sáng
rực hẳn lên, làm cho mọi người chói mờ không trông thấy gì. Cái tên vì thế
không còn gì đáng sợ, cái màn bị xé lại tăng thêm sự bí mật, cái phút tưởng như
trời sa đất sụt kia lại là phút làm cho nền móng ngôi nhà thêm vững. Và sự việc
kỳ lạ kia chỉ đưa đến kết quả làm cho cuộc đời ông càng thêm sáng tỏ đồng thời
càng thêm khó hiểu, cái bóng ma Giăng Vangiăng đem đặt bên ông tư sản Mađơlen
đáng kính, chỉ làm cho ông càng thêm vinh dự, càng thêm được kính mến, được yên
tĩnh hơn giờ hết. Giả sử có ai nói với ông như vậy, ông cũng sẽ lắc đầu và cho
là vô lý. Thế mà tất cả những cái đó vừa xảy ra, tất cả những cái không thể có
đã có và Chúa đã cho phép các thứ viển vông kia trở thành sự thật!
Suy nghĩ mãi cũng thấy sáng sủa dần ra.
Mỗi lúc ông mỗi nhận rõ thêm cái thế của mình lúc này.
Ông thấy mình như vừa tỉnh một giấc mơ
và đương trượt dần trên một con đường dốc trong đêm tối, đến bên bờ một cái vực
sâu, cả người run lên mà không sao lui trở lại được. Ông nhìn thấy rõ ràng
trong bóng tối ấy có một người lạ mặt mà số mệnh tưởng lầm là ông và đương đem
xô xuống vực thay cho ông. Trong hai người, hoặc ông hoặc người kia phải có một
người ngã xuống thì vực mới khép lại được.
Ông cứ để cho việc xảy đến ra sao thì ra
là yên. Giờ thì rõ ràng lắm rồi. Ông tự thú điều này: - Chỗ của ông ở trong nhà
lao vẫn còn bỏ trống. Dù ông có muốn làm thế nào đi nữa, nó vẫn cứ chờ ông. Tội
cướp tiền của thằng bé Giecve đã đưa ông trở vào đó, cho nên cái chỗ bỏ trống
ấy, nó cứ chờ ông, lôi kéo ông, cho đến khi ông phải vào mới nghe. Đó là việc
không thể tránh được, thế nào cũng phải tới. Và ông lại nghĩ:
- Hiện giờ ông đã có một người thay thế.
Nghe đâu tên SăngMáchiơ nào đó đã vô phúc gặp phải cái không may ấy. Còn ông
thì từ nay trong nhà lao đã có tên SăngMáchiơ thế chân, ngoài xã hội thì ông là
Mađơlen, ông không còn phải lo gì nữa, quý hồ ông cứ để cho người đời đem cái
tấm bia chung thân ô nhục kia đè lên đầu ông SăngMáchiơ; cái tấm bia ấy giống
như cái nắp mồ, đã sập xuống một lần thì thôi, không bao giờ còn nâng lên được
nữa…
Tất cả những cái đó quá mãnh liệt, qua
lạ đời. Trong người ông như có một chuyển động gì khó tả, ít khi thấy nảy ra
trong một đời người. Hình như lương tâm đang vùng lên quằn quại, khuấy động tất
cả những gì đáng nghi ngờ của trái tim. Hình như trong đáy sâu của cõi lòng có
một tiếng cười phá đang vang lên, mà ý nghĩa gồm đủ mỉa mai vui mừng, lẫn thất
vọng.
Bỗng ông thắp nến lên, tự bảo mình:
- Ơ hay, ta sợ cái gì chứ? Sao ta lại
phải nghĩ ngợi phân vân như thế? Ta đã thoát nạn rồi. Xong cả rồi. Trước kia
thì còn cái cửa bỏ ngỏ để dĩ vãng có thể lọt được vào cuộc sống hiện tại. Cái
cửa ấy, giờ đã xây bịt lại rồi! Một cách vĩnh viễn! Cái thằng Giave ấy, lâu nay
nó làm ta lo lắng, nó theo dõi ta khắp nơi, cái linh tính đáng sợ của nó hình
như đã đoán được ra ta, mà đoán được ra rồi chứ còn gì nữa! Cái tên chó săn
đáng tởm ấy nó rình ta từng bước, nay thì nó lạc hướng rồi, lo chạy theo con
đường khác rồi, nó sẽ để cho ta yên, nó đã nắm được tên Giăng Vangiăng của nó
rồi! Hình như nó lại muốn bỏ nơi đây mà đi! Và cái chuyện này xảy ra ta có biết
đâu! Ta có can dự gì đến đó đâu! Nhưng mà này! Trong chuyện này có cái gì gọi
là đáng trách được không! Những người gặp ta chắc sẽ tưởng ta gặp nạn lớn!
Chung quy lại, nếu có ai gặp tai họa phen này thì chẳng phải lỗi ở ta chỗ nào
cả. Thôi thì cũng là tại trời cả. Có lẽ trời muốn như thế thật. Ta có quyền gì
xáo trộn việc trời đã xếp đặt? Ta cầu mong gì bây giờ? Tại sao ta cứ chực xen
vào việc này? Can dự gì đến ta đâu. Ơ hay! Ta không bằng lòng hay sao? Mà ta
đòi hỏi cái gì chứ? Cái mục đích lâu nay ta theo đuổi, cái điều hằng đếm ta mơ
ước, điều mà ta đem cầu nguyện với trời là sự an toàn, thì ta đạt được rồi! Ý
Chúa là như vậy. Ta còn làm gì trái nổi ý Chúa được. Mà tại sao ý Chúa lại muốn
như thế? Chính là để ta tiếp tục cái việc ta mới bắt đầu, để ta làm điều thiện,
để ta có thể một ngày kia nêu tấm gương sáng cho người khác, để người ta thấy
rằng kẻ đã biết hối quá, đã biết tu tỉnh thì cũng sẽ được hưởng phần hạnh phúc!
Thật lạ, ta không hiểu tại sao ban nãy ta không dám vào nói hết câu chuyện với
ông cha xứ đáng kính ấy, như một người xưng tội. Chắc hỏi ý kiến ông, ông cũng
sẽ trả lời như ta nghĩ thôi. Nhất định rồi, cứ mặc cho công việc tiếp diễn! Để
yên cho Chúa định đoạt!
Đó là lời ông tự nhủ. Lời nói vang lên
từ tận đáy lòng khi ông cúi nhìn xuống cái có thể gọi là vực thẳm của lòng ông.
Sau đó ông đứng lên, đi bách bộ trong phòng - thôi, đừng nghĩ đến việc đó nữa.
Quyết định rồi mà! Nhưng trong lòng vẫn không thấy vui.
Trái lại nữa.
Người ta không sao ngăn trí óc trở lại
với một ý nghĩ, cũng như không sao ngăn sóng bể lui ra rồi lại xô trở vào bờ.
Với người thủy thủ, đó là thủy triều. Với kẻ có tội, đó là lòng hối hận. Chúa
khuấy động linh hồn con người cũng như làm cho đại dương nổi sóng vậy.
Chỉ một lát sau, dù đã cố sức quên đi,
ông lại phải trở lại với cuộc đối thoại đau khổ lúc trước, mình nói rồi mình
lại nghe. Nói lên những điều mình không muốn nói tới, rồi phải nghe những điều
mình không muốn để vào tai. Đành để cho một sức gì huyền bí nó lôi cuốn và ra
lệnh: “Nghĩ đi!” như nó đã ra lệnh cho một kẻ có tội trước đây khác trước đây
hai nghìn năm! “Đi đi”.
Trước khi kể tiếp xin nhấn mạnh một nhận
xét cần thiết để mọi người hiểu đầy đủ câu chuyện.
Loài người biết suy nghĩ, ai cùng từng
trải qua những phút mình nói với mình. Ngôn ngữ thật không bao giờ huyền diệu
tuyệt vời, bằng khi ở bên trong con người, nó như con thoi chuyển từ trí tuệ
đến lương tâm rồi từ lương tâm quay về với trí tuệ. Những chữ “ông nói”, “ông
kêu lên” thường gặp trong chương này, chính phải hiểu theo nghĩa ấy. Người ta
tự nói với mình, tự bảo với mình, tự kêu lên với mình. Thật là ầm ĩ: cái gì
trong ta cũng nói, chỉ miệng là không. Nhưng sự im lặng chung quanh không hề
lúc nào bị ngắt quãng. Bao nhiêu hiện thực của tâm hồn, không trông thấy, không
sờ mó được, nhưng vẫn là những hiện thực.
Ông hỏi mình suy tính đến đâu rồi. Ông
tự vấn xem “quyết định như thế”, thì rồi ra sao? Ông tự thú, công việc xếp đặt
như thế là bất nhân. Cái lối để mặc cho công việc xảy ra, phải để yên cho Chúa
định đoạt là một lối rõ ràng ghê tởm. Cứ để mặc cho số mệnh và người đời nhầm
lẫn, không ngăn cản nó lại, yên lặng để phụ họa với nó, không làm gì cả, tức là
mình đã làm tất cả đấy! Đó là một việc gian giảo đốn mạt nhất! Đó là một tội ác
khốn nạn, hèn hạ, hiểm độc, đáng khinh, đáng tởm!
Suốt tám năm, lần này là lần đầu con
người đáng thương ấy mới lại thấy cái vị cay đắng của một ý nghĩ xấu và của một
hành động xấu. Ông kinh tởm, khạc nhổ nó đi.

