Những người khốn khổ - PHẦN II - Quyển III - Chương 01 - 02 - 03 - 04
QUYỂN III:
GIỮ LỜI HỨA VỚI NGƯỜI ĐÃ KHUẤT
I
VẤN ĐỀ NƯỚC ĂN TẠI MÔNGPHÉCMÂY
Môngphécmây ở vào giữa Livơri và Senlơ, bên rìa phía nam cao
nguyên ngăn đôi triền sông Uốc và sông Mácnơ. Ngày nay Môngphécmây là một thị
trấn khá lớn; những biệt thự bằng đá trắng tô điểm cho thị trấn quanh năm và cứ
ngày chủ nhật thì nó lại được điểm tô bằng những ông thị dân mặt mày nở nang rạng
rỡ. Nhưng năm 1823 thì Môngphécmây làm gì có nhiều nhà trắng xóa như thế, nhiều
kẻ sung sướng như thế! Nơi ấy hồi đó chỉ là một cái làng miền rừng. Rải rác
cũng có dăm ba biệt thự xây từ thế kỷ trước, nhờ vẻ đường bệ mà dễ nhận ra, có
bao lơn bằng sắt uốn, có cửa sổ cao lấp lánh những miếng kính đủ các màu xanh
trên nền trắng của những cửa gỗ đóng im ỉm. Tuy vậy Môngphécmây cũng không hơn
gì một thôn xóm. Những tay buôn len dạ về vườn và những thầy cò thầy kiện đi
nghỉ mát chưa tìm ra nơi này. Đây là một khu tĩnh mịch và xinh xắn, không nằm
trên con đường nào hết. Đời sống quê mùa, dễ dàng, có đủ thứ và rất rẻ. Chỉ có
khoản nước là khan hiếm, vì là đồi cao.
Phải đi khá xa mới kiếm được nước. Đầu làng về phía Ganhi thì
lấy nước ở các hồ ao rất đẹp trong rừng. Cuối làng, mấy xóm quanh nhà thờ, về
phía Senlơ, phải xuống tận lưng chừng đồi, gần đường cái, đi mất khoảng mười
lăm phút, mới có một con suối nhỏ có nước ăn.
Vì vậy, nhà nào cũng thấy việc đi lấy nước là một công việc
khó nhọc. Những nhà giàu có, những nhà quý phái, quán hàng Tênácđiê cũng trong
số ấy, phải thuê gánh nước, cứ mỗi thùng một đồng lia; lão gánh nước thuê cho
các nhà ở Môngphécmây mỗi ngày kiếm được tám xu; nhưng về mùa hạ, lão chỉ làm
đến bảy giờ, về mùa đông thì đến năm giờ, cho nên lúc trời đã tối, cửa ngõ mọi
nhà đã đóng, nhà nào hết nước phải tự đi lấy hoặc nhịn uống đến hôm sau.
Con bé Côdét rất sợ cái nạn ấy, chắc độc giả chưa quên con bé
đáng thương. Vợ chồng Tênácđiê nuôi con Côdét được hai cái lợi, mẹ thì trả
tiền, con thì hầu hạ chúng nó. Đến khi mẹ nó không có tiền trả nữa, vì cớ đã
nói ở các chương trên, vợ chồng Tênácđiê vẫn giữ đứa bé; nó làm thay đứa ở. Vì
là đứa ở nên khi cần thì nó phải đi lấy nước. Hễ nghĩ đến việc đi lấy nước ban
đêm là nó khiếp sợ, nên không bao giờ nó dám để trong nhà phải thiếu nước.
Ngày lễ Giáng sinh năm 1823 ở Môngphécmây đặc biệt vui vẻ.
Đầu mùa đông, tiết trời dễ chịu, chưa có hôm nào đóng băng hay mưa tuyết. Đám
phường trò ở Pari đã được phép ông thị trưởng cho cất rạp ở ngay phố chính
trong làng. Bọn bán hàng rong cũng tha hồ được dựng quán ở sân nhà thờ và đến
tận cả ngõ Hàng Bánh; chắc độc giả còn nhớ ngôi hàng của vợ chồng Tênácđiê cũng
ở ngõ này. Quán ăn, quán rượu chật ních những khách hàng; cái làng thường ngày
tĩnh mịch này bỗng trở thành ồn ào, vui vẻ. Để làm một sử gia trung thành,
chúng tôi cần phải nói là trong mọi cái lạ tai lạ mắt phô bày giữa thiên hạ,
còn có một gánh xiếc thú rong mà những diễn viên là những người bẩn thỉu, rách
rưới, không biết từ đâu lại. Từ năm 1823, họ đã trưng bày cho nông dân
Môngphécmây xem một con kên kên Braxin khủng khiếp mà viện sinh vật hoàng gia
của chúng ta mãi đến 1815 mới có. Loại kên kên này có con mắt màu cờ tam tài.
Hình như các nhà sinh vật học gọi con chim đó là Caracara Pôlybôruýtx, loại ăn thịt,
giống kên kên. Một vài cựu binh chất phác thuộc phái thân Bônapác đến chiêm
ngưỡng con vật ấy một cách tín mộ. Bọn làm xiếc thì khoa trương cái màu cờ
trong con mắt chim đó là một hiện tượng hãn hữu mà Chúa nhân từ bày ra để giúp
đỡ gánh xiếc của họ.
Đêm lễ Giáng sinh, vô số người, nào phu đánh xe, nào phu tải
vào hàng Tênácđiê ăn ăn uống uống, xúm quanh bốn hay năm ngọn nến ở gian phòng
tầng dưới. Gian phòng này cũng giống như ở mọi quán rượu khác, lủng củng những
bàn, những hũ rượu bằng thiếc, những chai lọ, những người uống rượu, người hút
thuốc lá. Anh sáng thì ít mà tiếng ồn ào thì nhiều. Hai vật thời thượng của
tầng lớp thị dân nằm trên một chiếc bàn, chứng tỏ rõ ràng chúng ta đang ở năm
1823: đó là một ống kính vạn hoa và một cây đèn sắt tây màu gợn sóng. Mụ
Tênácđiê đang chăm nom các món ăn xèo xèo trên lò lửa cháy đượm; lão chồng uống
rượu và nói chuyện thời thế với khách hàng.
Ngoài các câu chuyện thời sự mà những chủ đề chính là chiến
tranh Tây Ban Nha và công tước Ănggulem, trong tiếng ồn ào chung, người ta nghe
đây đó những mẩu chuyện địa phương đại loại: “Vùng Năngte và Xuyarên nho được
rượu quá, cứ dự tính mười thùng thì được những mười hai. Cho vào bàn ép mới
thấy nho lắm nước - Như thế là nho chưa chín chăng? - Ở vùng ấy không ai chờ
nho chín mới hái, nếu cất rượu bằng nho chín thì rượu bị lềnh ngay vào xuân -
Thế là rượu tiểu thủ công, rượu địa phương? - Còn địa phương hơn ở đây nữa.
Phải hái nho xanh”…
Có lúc một anh thợ xay hét:
- Làm sao đổ tội cho chúng tôi về những gì nằm trong các bao
lúa? Chúng tôi tìm thấy cả một xứ những hạt kia hạt nọ, hơi sức đâu mà nhặt,
cho nên cứ phải để vậy mà đổ vào cối. Nào là cỏ kiệu, cỏ gấu, cỏ may, cỏ chỉ,
cỏ mật, lùng, nàn nàn và khối những vị khác, không kể những hòn cuội nhan nhản
trong lúa một đôi vùng, đặc biệt là vùng Brơtanhơ, cũng như bọn thợ cưa không
thích xẻ những khúc gỗ có đanh. Cứ thử nghiệm xem cái bụi đá ấy mà trộn lẫn
trong bột thì còn ra gì. Rồi thì người ta kêu bột thế nọ, bột thế kia. Nói bậy
tuốt. Chúng tôi chẳng có lỗi gì nếu bột xấu.
Ở khoảng cách giữa hai cửa sổ, một anh cắt cỏ ngồi uống rượu
với một điền chủ. Người điền chủ đang mặc cả giá cắt một đám cỏ cần tiến hành
vào mùa xuân. Anh cắt cỏ bảo: “Cỏ ướt cũng không sao. Càng dễ cắt. Sương là
tốt, ông chủ ạ. Bù vào cái cỏ ấy, cỏ của ông non khó xơi lắm: nó mềm quá, cứ
oằn xuống tránh lưỡi hái”…
Con Côdét vẫn ở chỗ thường ngày, nó ngồi trên cái thang ngang
dưới gầm bàn bếp, kê cạnh lò sưởi. Quần áo nó rách tả tơi; chân không bít tất
xỏ một đôi guốc gỗ; bên ánh lửa lờ mờ, nó đang đan bít tất len dành cho mấy đứa
con nhà Tênácđiê. Một chú mèo con đùa giỡn dưới gầm ghế, có tiếng mấy đứa trẻ,
con Êpônin và con Adenma cười nói bi bô ở gian bên.
Ở góc bệ sưởi, có cái roi da treo vào một chiếc đinh. Thỉnh
thoảng lại có tiếng một đứa rất bé đặt nằm chỗ nào không biết khóc thét lên
giữa cảnh ồn ào trong quán. Mụ Tênácđiê đẻ thằng bé này vào một mùa đông trước:
mụ thường bảo “không biết tại sao lại đẻ ra nó, chắc là tại trời rét” - thằng
bé đã được hơn ba tuổi. Mẹ nó vẫn nuôi nó, nhưng không ưa. Khi thằng bé kêu
khóc dữ quá, làm mọi người khó chịu, thằng chồng mới bảo mụ vợ: “Thằng nhãi lại
oe óe kìa, xem nó đòi gì”. Con mụ đáp: “Chà! Bực cả mình với thằng ranh”. Đứa
bé bị bỏ mặc vẫn la khóc trong bóng tối.
II
HOÀN THÀNH HAI BỨC CHÂN DUNG
Trên đây ta mới được biết chân dung vợ chồng Tênácđiê nhìn
nghiêng; đã đến lúc cần đi quanh đôi vợ chồng này để thấy đủ mọi mặt.
Thằng chồng vừa mới chẵn năm mươi tuổi; con vợ thì gần bốn
mươi, nhưng là đàn bà, kể cũng như năm mươi; như thế là hai vợ chồng vừa tuổi
nhau.
Chắc độc giả còn nhớ cái bóng dáng đầu tiên của mụ Tênácđiê;
mụ cao lớn, tóc vàng, da đỏ, béo nung núc những thịt, vuông người, phục phịch
mà nhanh nhẹn; như chúng tôi đã nói, mụ thuộc cái hạng nữ khổng lồ man rợ ở các
phiên chợ, tóc đeo nhiều tảng đá đứng tấn cho người ta xem. Mụ làm mọi việc
trong nhà, dọn giường, lau buồng, giặt giũ, bếp núc, làm mưa làm gió, tác yêu
tác quái. Trong nhà chỉ có mỗi một con ở là con Côdét. Rõ ràng một con chuột nhắt hầu
một con voi. Tiếng mụ nói làm rung cả cửa kính, đồ đạc và làm mọi người run
lên. Cái mặt phèn phẹt đầy những chấm đỏ, trông như cái môi hớt canh. Mụ có
râu. Rõ là một anh phu khuân vác đầu chợ, mặc quần áo đàn bà. Mụ chửi rủa ra
tuồng; mụ khoe chỉ đấm một cái là vỡ tan quả hạnh đào. Giả sử không có những
cuốn tiểu thuyết mụ đã được đọc, thỉnh thoảng lại làm hiện ra một cách kỳ quái
bóng dáng cô ả mỹ miều trong cái lốt con quỷ cái, thì không bao giờ ai có ý
nghĩ gọi mụ là một người đàn bà. Mụ giống như một tiểu thư ghép vào một mụ hàng
tôm hàng cá. Nghe tiếng mụ nói, người ta bảo: một tên sen đầm; nhìn mụ uống,
người ta bảo: một tay đao phủ. Lúc mụ nghỉ ngơi, vẫn thấy sát khí đằng đằng!
Thằng cha Tênácđiê người bé nhỏ, gầy gò,
xanh xao, góc cạnh, xương xương, khẳng kheo, trông như ốm thế mà mạnh khỏe ra
dáng; nó xảo trá ngay từ hình dáng. Nó quen mỉm cười để đề phòng; nó hầu như lễ
phép với hết thảy mọi người, với cả đứa ăn mày mà nó không thí cho được một
đồng lia. Mắt nó như mắt giống cầy nhưng vẻ mặt nó là vẻ mặt một nhà văn. Trông
nó, giống như các bức chân dung của ông thầy tu Đơlin. Chỗ hãnh diện của nó là
ngồi uống rượu với bọn phu tải. Chưa ai làm cho nó uống đến say bao giờ; nó hút
một cái tẩu to tướng. Nó mặc áo choàng ngoài một bộ quần áo đen đã cũ. Nó sính
nói văn chương và duy vật luận. Lúc nó nói cái gì ra vẻ quan trọng, nó thường
kể nào là Vônte, là Raynan, là Pácni và có cái lạ là cả Thánh Ôguytxtanh nữa.
Nó tự xưng có “một học thuyết”. Học thuyết của quân kẻ cắp. Đúng là một nhà
“đạo tặc đạo”,[96] một danh từ có ý nghĩa riêng.
[96] Nguyên văn: Un Filousophe”, filou: tên trộm cắp,
sophe: người có lý thuyết, có khoa học - một danh từ tác giả mới tạo, phỏng âm
danh từ philosophe, nhà triết học - để nói đây là một tay trộm cắp có lý luận.
Ta còn nhớ nó khoe nó đã từng đi lính;
nó kể lể không dè sẻn là ở trận Oatéclô, nó đóng lon đội trong đạo khinh kỵ thứ
6 hay thứ 9 gì đó, một mình nó đương đầu với một tiểu đoàn kỵ binh quyết tử và
đã lấy thân che kín và cứu sống “một vị tướng bị trọng thương” giữa mưa đạn. Do
câu chuyện ấy mới có cái biển lòe loẹt treo trên tường và trong làng ai cũng
gọi quán ăn của nó là “quán đội trưởng Oatéclô”. Nó tự nhận thuộc phái tự do,
cổ điển và đế chính. Dân làng đồn rằng nó đã từng đi học để làm cố đạo.
Chúng tôi thì nghĩ rằng nó chỉ học cái
nghề bán hàng cơm ở Hà Lan. Có lẽ đúng là loại tứ chiếng ấy: ở xứ Pơlăngđrơ thì
nó là người Pơlăngđrơ của thành phố Lilơ, ở Pari thì là người Pháp, ở Bơruxen
thì là người Bỉ, hai chân ở hai biên giới, khai vào chỗ nào cũng tiện. Nó dũng
cảm ở Oatéclô như thế nào thì ta đã biết rồi. Đấy, nó phóng đại ra một chút như
thế. Đời nó khúc khuỷu, phiêu lưu, lúc lên voi lúc xuống chó; lương tâm đã rách
nát thì cuộc đời cũng chắp vá thôi; hình như trong cái thời gian bão táp ngày
18 tháng 6 năm 1815, Tênácđiê thuộc các loại những kẻ vừa làm nghề bán căngtin
vừa ăn cắp trong quân đội, như đã nói ở trên; chúng đi đến đâu là sục sạo đến
đấy, bán hàng cho người này, đánh cắp của kẻ kia, cả bầu đoàn thê tử trên một
chiếc xe lăn khấp khểnh theo các cuộc hành quân, dựa vào bản năng để bao giờ
cũng theo bên thắng. Sau chuyến đó, sẵn có ít vốn[97] nó bèn về mở quán hàng ăn ở
Môngphécmây.
[97] Nguyên
văn: du quibus.
Cái vốn ấy là những túi tiền, đồng hồ,
nhẫn vàng, huy chương bạc gặt được trong vụ mùa trên những luống cày gieo bằng
xác chết; cái vốn ấy chẳng to gì nên tên bán hàng trong quân đội ấy lúc trở về
mở cái quán tồi tàn này, chứ cũng chẳng làm nên trò trống gì hơn. Cử chỉ
Tênácđiê mang một nếp cứng rắn riêng. Nếp cứng rắn ấy cộng với thói quen nguyền
rủa là nếp của trại lính, cộng với dấu chữ thập, là nếp của nhà tu. Nó ăn nói
hoạt bát. Nó để cho người ta đồn rằng nó học thông. Tuy vậy thầy giáo làng vẫn
thấy nó “hớ” luôn. Nó kê hóa đơn cho khách hàng một cách rất thạo. Nhưng người
tinh ý nom vào thì thấy có lỗi chính tả. Tênácđiê là đứa thâm hiểm, háu ăn, la
cà, lanh lợi. Nó chẳng từ con sen con ở, nên mụ vợ không mượn người giúp việc
nữa. Con voi nan ấy mà ghen tuông. Mụ tưởng như tất cả đàn bà con gái ai cũng
muốn chim cái lão bé choắt, còm nhom, vàng ễnh đó.
Nổi bật hơn hết, Tênácđiê là một thằng
lưu manh thuộc loại ôn hòa, nó là một đứa giảo hoạt và tỉnh táo. Loại này mới
thật là nguy hiểm nhất: đã lưu manh, lại đạo đức giả.
Không phải là có lúc Tênácđiê không biết
nổi nóng; ít ra nó cũng nóng bằng con vợ nó; nhưng họa hoằn thôi; lúc ấy thì nó
thù ghét tất cả nhân loại, lòng nó chứa chất cả một lò lửa căm thù; nó giống
như những người suốt đời chỉ lo trả thù trả oán, những người động một tí là
buộc tội tất cả mọi vật xung quanh, rồi lúc nào cũng lăm le chỉ muốn nhảy xổ
vào kẻ nào chẳng may chợt qua đấy; kẻ đó tức là thủ phạm chính thức gây ra tất
cả những thất vọng, những tai họa, những bất hạnh trong đời nó; bấy giờ nó
giống như có men rượu bốc trong người, sôi sục trong mồm, trong mắt, thế là nó
trở thành ghê gớm. Vô phúc cho kẻ nào chợt đến lúc nó hung hãn như thế.
Ngoài những năng khiếu khác, Tênácđiê
lại còn được cái nết ý tứ và sâu sắc, biết lựa lúc mà im lặng hay ba hoa, nhưng
dù lúc nào, nó cũng tỏ ra thông minh rất mực. Nó có cái nhìn của người thủy thủ
quen nheo con mắt trước ông kính viễn vọng. Tênácđiê làm một chính khách vậy.
Kẻ nào mới đến quán ăn này lần đầu, thấy
mụ Tênácđiê cũng phải bảo: “Hẳn đây là chủ nhà”. Lầm to. Mụ cũng chẳng là bà
chủ nữa. Chính thằng chồng mới vừa là ông chủ vừa là bà chủ. Thằng chồng sắp
đặt công việc, con vợ cứ thế làm. Nó điều khiển tất cả bằng một thứ điện lực vô
hình và thường xuyên. Chỉ một tiếng, hay có khi chỉ cần một dấu hiệu, thế là
con voi cái tuân lệnh. Thằng Tênácđiê, đối với con vợ, vô tình đã là một đấng
đặc biệt quyền uy vô thượng. Thái độ ấy âu cũng là một đức tính riêng của mụ.
Nói thí dụ, - ấy là thí dụ thôi, chứ chẳng bao giờ lại có thế, - nếu có điều gì
không đồng ý với “ông Tênácđiê” thì dù là việc gì đi nữa, mụ cũng không đổ cho
chồng là sai trước mặt mọi người. Có “người lạ”, không bao giờ mụ phạm lỗi ấy,
cái lỗi này nhiều bà mắc phải và thường được gọi là: vạch áo cho người xem
lưng. Tuy cái cảnh thuận vợ thuận chồng chỉ là để làm việc độc ác, nhưng sự
phục tùng của mụ Tênácđiê vẫn có một cái gì tôn nghiêm. Cả cái núi thịt suốt
ngày ầm ĩ ấy chuyển động theo ngón tay bé nhỏ của tên bạo chúa lẻo khoẻo kia.
Đây là chuyện vật chất bái phục tinh
thần, một chân lý lớn lao và phổ biến biểu hiện ở một sự việc bé nhỏ và buồn
cười. Bởi vì một đôi cái xấu xí dị hợm vẫn có cơ sở tồn tại ở sâu ngay trong
cái đẹp vĩnh cửu. Ở Tênácđiê có một cái gì thuộc cõi bất khả tri. Do đó hắn có
quyền uy tuyệt đối với vợ. Có những lúc mụ ta thấy hắn như một ngọn nến sáng
trưng; nhiều lúc khác mụ cảm thấy hắn là một cái vuốt nhọn.
Người đàn bà ấy là một sinh vật ghê gớm
chỉ biết yêu con và sợ chồng. Mụ sở dĩ có con là vì mụ thuộc loài có vú. Tuy
nhiên tình mẹ con cũng chỉ trùm lên hai đứa con gái là hết, mụ không yêu gì
những đứa con trai, sau này ta sẽ rõ. Còn thằng chồng, nó có độc một tư tưởng:
làm giàu.
Nhưng nào có được. Cái tài ba lỗi lạc ấy
không có đất dụng võ. Ở Môngphécmây, Tênácđiê cứ sa sút mãi, - ấy là tạm dùng
chữ sa sút, đến đấy Tênácđiê cũng chỉ có hai bàn tay trắng. Giả sử nó ở Thụy Sĩ
hay ở Pyrênê, chắc cái thằng kiết xác ấy đã trở thành triệu phú. Nhưng số mệnh
đã buộc chặt thằng chủ quán ở đâu thì nó đành phải gặm ở đấy.
Chủ quán ở đây dùng theo nghĩa hẹp không
mở rộng đến cả giai cấp.
Đúng vào cái năm 1823 ấy, Tênácđiê mắc
nợ chừng ngàn rưỡi phơrăng, đều là những món vay nóng, nên nó có bề lo lắng.
Số mệnh dù đối với hắn khe khắt một cách
kiên trì. Tênácđiê vẫn là một trong những con người hiểu sâu sắc và mới mẻ nhất
cái nghĩa vụ đối với khách trọ. Cái nghĩa chủ khách đó ở các dân tộc dã man là
một đức tính cao quý, ở các dân tộc văn minh, đó là một món hàng bán mua. Ngoài
ra hắn còn là một tay săn bắn trộm tài tình, đường đạn tinh ai cũng ca ngợi.
Tiếng cười của nó lạ lắm, lạnh lẽo và ôn hòa nhưng rất thâm hiểm.
Một đôi khi những lý thuyết làm chủ quán
từ óc nó bật ra như những tia chớp. Các giáo điều nghề nghiệp ấy hắn cài vào
trí óc vợ nó. Một hôm nó hung hăng nói nhỏ với vợ: “Bổn phận của người chủ quán
là bán cho mọi người bước vào cửa hàng cái ăn, cái ngủ, cái ánh sáng, cái lửa
sưởi, chăn đệm bẩn, cô hầu phòng, rận rệp và nụ cười; là bắt cóc kẻ qua đường,
là trút những túi nhẹ, làm nhẹ những túi nặng một cách lương thiện; là cung
kính chứa trọ những gia đình đi đường xa, là nạo ông, vặt bà, lột da cô, cậu;
là định giá tất cả: nào cửa mở, cửa đóng, bệ sưởi, ghế bành, ghế tựa, ghế đẩu,
ghế con, nệm lông chim, nệm bông, ổ rơm; là phải biết bóng người làm mòn gương
soi bao nhiêu để tính tiền: là… nghĩa là, mẹ kiếp! Phải biết tính tiền đủ các
thứ để bắt khách hàng trả, đến những con ruồi mà chó họ ngáp phải cũng biết
tính!”
Người đàn ông ấy với người đàn bà ấy là
xảo quyệt và điên cuồng kết hôn, một đôi hợp phối gớm ghiếc và đáng sợ.
Thằng chồng thì âm thầm nghĩ ngợi, tính
toán; còn con vợ thì chẳng thèm nghĩ gì đến bọn chủ nợ không có ở đấy; nó thì
chẳng lo gì về ngày hôm qua, cũng chẳng màng đến ngày mai; nó sống hăng tiết,
sống tất cả trong giờ phút hiện tại.
Đấy, hai con người ấy là như thế. Côdét
sống giữa chúng nó, chịu đựng sức ép của cả hai đứa, giống như kẻ vừa bị tảng
cối xay nghiến, vừa bị kìm xé thịt. Thằng chồng và con vợ, mỗi đứa một cách đối
xử: Côdét bị đánh đập tơi bời là do con vợ; nó đi chân không mùa rét là do thằng
chồng.
Con bé hết lên lại xuống, nào là giặt
giũ, cọ chải, lau chùi, quét tước, vừa đi vừa chạy, vừa làm vừa thở, chuyển
những đồ vật nặng; tội nghiệp con bé gầy còm như thế mà phải làm những công
việc rất nặng nhọc. Chẳng ai thương hại nó; một bà chủ dữ tợn, một ông chủ thâm
độc. Cái cửa hàng của Tênácđiê giống như cái lưới nhện, Côdét mắc vào đó, run
rẩy. Cái lối hà hiếp người trong cảnh ở tớ thảm đạm này thật là một cảnh điển
hình. Đó là kiếp con ruồi làm tôi con nhện.
Tội nghiệp con bé đành ngậm miệng mà
chịu đựng.
Vừa từ cõi Chúa xuống, trần trụi, bé
bỏng bước vào bình minh của cuộc sống mà gặp phải người đời như vậy, thử hỏi
các linh hồn trong trắng ấy nghĩ gì?
III
PHẢI CÓ RƯỢU CHO NGƯỜI, NƯỚC CHO NGỰA
Lại bốn khách đi đường nữa vào hàng.
Côdét buồn rầu nghĩ ngợi; vì tuy mới tám
tuổi đầu, nó đã chịu bao đau xót, nên nó ngồi nghĩ vơ vẩn với dáng điệu một bà
cụ già thảm hại.
Một bên mắt nó tím bầm, vì một quả đấm
của mụ Tênácđiê, đã thế thỉnh thoảng mụ còn nói:
- Gớm! Con mắt sưng húp của nó sao mà xấu
thế!
Côdét nghĩ ngợi: đêm thì tối đen như
mực, đột nhiên lại phải múc nước đổ đầy các bình, các chai trong buồng bọn
khách chợt đến và ngoài bể lại chẳng còn hột nước nào.
Nó còn yên tâm đôi tí là ở nhà hàng
Tênácđiê này, người ta không uống nhiều nước lắm. Chẳng thiếu gì người khát;
nhưng thật là khát cái vò rượu chứ không phải khát cái vại nước. Ở đây, trước
một cái bàn la liệt cốc rượu, ai mà gọi một cốc nước thì chẳng khác gì người
man rợ. Vậy mà đã có lúc con bé phải run sợ: mụ Tênácđiê mở vung một cái xoong
đang sôi trên bếp lửa, rồi cầm lấy cái cốc đi vội ra bể nước. Mụ vặn vòi nước;
con bé ngẩng đầu lên và nhìn theo từng cử chỉ của mụ. Một tia nước nhỏ chảy ra
từ vòi nước, chỉ có lưng cốc. Mụ bảo: “Ồ! Hết sạch nước rồi!”; mụ đứng im một
lát. Con bé nín thở. Mụ Tênácđiê xem lại lưng cốc nước, lại nói: “Chà, thôi thế
này cũng đủ”.
Côdét lại cắm cúi làm, nhưng đến hơn
mười lăm phút đồng hồ, nó thấy tim nó nhảy trong lồng ngực, bồng bềnh tựa như
bóng.
Nó đếm từng phút trôi qua như vậy và
mong cho chóng đến sáng hôm sau.
Thỉnh thoảng lại có khách đang uống rượu
nhìn ra đường, kêu lên: “Tối như hũ nút” hoặc “Giờ này có họa là mèo mới ra
đường không đèn đuốc gì”, Côdét rùng mình.
Bỗng một ông khách trọ buôn hàng chuyến
bước vào sừng sộ nói:
- Ngựa tôi không được uống nước!
Mụ Tênácđiê bảo:
- Cho uống rồi đấy chứ.
Tên lái buôn đáp:
- Cái chị này! Tớ bảo không mà lị.
Côdét chui dưới gầm bàn ra, nói:
- Thưa ông, có mà! Ngựa uống rồi, nó
uống ở thùng, nó uống một thùng đầy cơ đấy, thì tay cháu mang nước cho nó, cháu
lại còn nói chuyện với nó nữa.
Chuyện không có như thế. Côdét đã nói
dối. Ông lái quát:
- Con ranh bé bằng nắm tay mà nói điêu
to như hòn núi. Tao bảo nó chưa uống là nó chưa uống, nhóc cái ạ! Lúc nó khát
thì nó thở thế nào, tao biết chứ.
Côdét cố cãi; nó hoảng quá, giọng thều
thào nghe không rõ:
- Nó uống no nê là khác!
Tay lái buôn cả giận mắng:
- Thôi đừng nói láo. Cho ngựa uống nước đi, rồi xếp, không
đôi co gì nữa.
Côdét lại chui vào gầm bàn. Mụ Tênácđiê bảo:
- Phải, phải rồi. Ngựa chưa được uống thì phải cho nó uống
chứ.
Rồi mụ nhìn quanh:
- Kìa, cái con kia đâu rồi?
Mụ cúi xuống, thấy Côdét ngồi thu mình mãi cuối bàn, gần ngay
dưới chân khách uống rượu. Mụ thét:
- Mày có ra ngay không.
Côdét từ xó ẩn chui ra. Mụ Tênácđiê tiếp:
- Mời cô Chó Vện đi lấy nước cho ngựa uống đi.
Côdét trả lời khe khẽ:
- Nhưng, thưa bà, nước hết rồi ạ.
Mụ Tênácđiê mở toang cửa ra đường:
- Hết thì đi mà xách về chứ!
Côdét cúi đầu vào lấy cái thùng không ở góc lò sưởi.
Cái thùng to hơn cả nó, con bé mà ngồi hẳn vào trong cũng còn
rộng chán.
Mụ lại đến ngồi cạnh bếp lò, cầm cái môi gỗ nếm thử món ăn
nấu ở trong xoong, mồm lẩm bẩm:
- Nước ở ngoài suối chứ còn đâu. Có khó gì! Ồ! Giá mình tán
hành ra thì hơn.
Rồi mụ lục cái ngăn kéo đựng cả xu, cả hồ tiêu, cả tỏi. Mụ
tiếp:
- Này cô Cóc, lúc về vào hàng bánh mua cho tôi một cái bánh
to. Đồng mười lăm xu đây này.
Côdét mặc cái tạp dề có túi con ở một bên; nó lẳng lặng cầm
đồng hào bỏ vào túi.
Rồi nó đứng im, tay xách thùng, trước cái cửa mở toang. Hình
như nó đợi có người đến cứu nó. Mụ Tênácđiê thét:
- Đi đi chứ!
Côdét đi ra. Cánh cửa đóng lại.
IV
MỘT CON BÚP BÊ LÊN SÂN KHẤU
Ta còn nhớ, cái dãy cửa hàng giữa trời chạy từ nhà thờ đến
tận cái quán ăn Tênácđiê. Những quán ấy chờ bọn nhà giàu đi dự lễ nửa đêm đi
qua, nên quán nào quán nấy đều nến thắp sáng trưng trong những cái phễu bằng
giấy; cảnh ấy trông như “cảnh thần tiên”, theo lời ông thầy giáo trong làng,
lúc ấy đang ăn uống trong quán Tênácđiê. Trái lại trên trời không có lấy một
ông sao.
Cái quán cuối dãy dựng lên ngay trước mặt cửa hàng nhà
Tênácđiê; hàng bán đồ chơi, lấp la lấp lánh những giấy trang kim, những đồ thủy
tinh, những đồ bằng sắt tây rất đẹp. Bên ngăn ngoài, ở ngay đằng trước, bày một
con búp bê lót trên một lượt khăn bông trắng nõn. Con búp bê thật lộng lẫy, cao
tới gần bảy mươi phân, mặc một cái áo nhiễu màu hồng, đầu cài những bông lúa
vàng, tóc như tóc thật, mắt thì bằng men sứ. Suốt ngày những khách tí hon dưới
mười tuổi qua lại đều ngây người ra mà ngắm cái kỳ quan ấy. Ở Môngphécmây tìm
đâu ra bà mẹ có đủ tiền hay thừa tính tiêu hoang mà mua cho con cái của ấy. Con
Êpônin và con Adenma cứ đứng hàng giờ mà ngắm con búp bê; cả con Côdét nữa cũng
cả gan lấm la lấm lét nhìn trộm búp bê.
Lúc Côdét bước ra ngoài, tay xách thùng, mặt rầu rĩ và khổ sở
như thế, mà nó cũng không nhịn được, phải ngước mắt nhìn con búp bê kỳ diệu ấy,
nhìn “cái bà quý phái ấy”, như nó nói. Con bé khốn nạn đứng đờ người ra. Chưa
lần nào nó được nhìn gần như thế. Nó tưởng gian hàng như một cái cung điện nào;
còn búp bê thì không phải là con búp bê, mà là một nàng tiên hiển hiện. Con
người bé nhỏ đáng thương ấy đang chìm sâu trong cảnh ảm đạm lạnh lẽo bỗng nhiên
thấy đứng trước một cảnh vui vẻ, lộng lẫy, giàu có, hạnh phúc thoáng hiện ra
như trong một luồng ánh sáng ảo mộng. Côdét lấy cái trí thông minh thơ ngây
nhưng đáng buồn của nó để ước lượng cái hố sâu thăm thẳm phân cách nó với con
búp bê này. Nó cho rằng phải là một bà hoàng hậu hay ít ra là một nàng công
chúa mới mua được “cái của ấy”. Nó ngắm nghía cái áo hồng tươi đẹp, mớ tóc mượt,
bụng nghĩ thầm: “Con búp bê này, chắc nó sung sướng lắm nhỉ!” Mắt nó không thể
rời cái cửa hàng huyền diệu ấy. Càng nhìn càng thấy lóa mắt. Nó tưởng như được
thấy thiên đường. Những con búp bê bày phía sau con búp bê to, tưởng như tiên
nữ, thánh thần cả. Còn cái ông bán hàng đi đi lại lại sau quầy thì nó mường
tượng như Đức Chúa Trời vậy.
Mải chiêm ngưỡng, nó quên hết; quên cả nhiệm vụ phải làm.
Bỗng nhiên tiếng gắt của mụ Tênácđiê gọi nó trở về thực tế:
- Ô kìa, con ranh, mày chửa đi à? Cứ
đứng đấy, tao ra đây! Không biết nó còn đứng đấy làm gì kia chứ! Đồ quỷ quái,
đi đi!
Thì ra mụ Tênácđiê vừa nhìn ra đường
thấy Côdét đang say sưa ngắm nghía.
Côdét vội vàng xách thùng lủi đi, cố hết
sức bước những bước thật dài.

