Những người khốn khổ - PHẦN IV - Quyển VII - Chương 01
QUYỂN
VII: TIẾNG LÓNG
I
NGUỒN GỐC
Pigritia[193] là một từ ghê gớm. Nó sinh ra
cả một thế giới La Pègre, hãy hiểu: việc trộm cắp và cả một địa ngục La
Pègrenne, hãy hiểu: sự đói khát.
[193] Cần có một bản dịch trọn vẹn nên không thể bỏ qua
các chương về tiếng lóng - Tuy nhiên cũng không thể tìm đủ tiếng lóng, tiếng
nghề nghiệp trong ngôn ngữ Việt Nam, cho nên chúng tôi để nguyên các từ tiếng
lóng đó và nghĩ nên để chính tả của nguyên bản thì có ích cho người tìm hiểu
ngôn ngữ và văn học hơn là phiên âm.
Như vậy lười biếng là mẹ đẻ.
Nó có một con trai là trộm cắp và một con gái là đói khát.
Hiện chúng ta đang ở địa hạt nào? Tiếng lóng.
Tiếng lóng là gì? Nó là quốc gia, đồng thời là quốc âm; đó là
một đánh cắp dưới hai hình thức, nhân dân và ngôn ngữ.
Cách đây ba mươi tư năm, khi thuật giả câu chuyện nghiêm
trang và thảm đạm bày đưa vào một quyển sách, viết cũng một mục đích với quyển
sách này (Quyển "Ngày cuối cùng của một người tử tù" Lederrnier jour
d'un condamné), một tên ăn cắp nói tiếng lóng, thì người ta sửng sốt và la ó.
- Thế nào? Sao? Tiếng lóng à! Nhưng tiếng lóng thì thật là
ghê tởm! Đó là ngôn ngữ của những tên khổ sai, những nhà ngục, của tất cả những
gì khả ố nhất trong xã hội…
Chúng tôi chưa bao giờ hiểu được cái lối bôi bác đó.
Từ khi ấy, hai nhà tiểu thuyết lớn, một là người quan sát sâu
sắt lòng người, còn một là bạn dũng cảm của nhân dân, Bandắc và Ơgien Xuy, để
cho bọn kẻ cướp nói cái ngôn ngữ tự nhiên của họ, cũng như năm 1828 tác giả
cuốn "Ngày cuối cùng của một người tử tù" đã làm và đã bị công kích.
Người ta đã nhắc lại: "Các nhà văn muốn gì với cái khổ âm ngỗ ngược ấy?
Tiếng lóng khả ố! Tiếng lóng làm cho người ta ớn run!"
Ai chối cãi cái đó? Chắc là không ai.
Nhưng trong việc thăm dò một vết thương, một vực thẳm hay một
xã hội, thì đi sâu vào đi, đi đến tận đây, phải đâu là tội lỗi? Chúng tôi bao
giờ cũng nghĩ rằng đó là một hành vi đôi khi dũng cảm, hay ít nhất là một hành
động đơn giản, tự nhiên và có ích, xứng đáng được quan tâm, thông cảm đối với
một nhiệm vụ tự nguyện đã hoàn thành. Tại sao không khám phá cho hết, không
nghiên cứu cho hết, tại sao dừng lại ở nửa đường? Cái sào thăm dò có thể dừng
lại, người thăm dò thì không.
Tìm tòi tận đáy xã hội, nơi đất hết và bùn bắt đầu, đào mò
trong những đợt sóng to gió lớn ấy để truy bắt, nắm lấy và ném lên đường, tung
ra ánh sáng cái thổ âm hèn hạ, nhầy nhụa bùn nhơ, cái ngữ vựng nung mủ, mà mỗi
từ là một đốt ô uế của một con quái vật trong bùn đen và bóng tối, thì rõ ràng
không phải là một công việc quyến rũ, cũng như không phải là một công việc dễ
dàng. Không còn cái gì thảm đạm hơn là ngắm nghía, sau khi đã lột trần ra như
thế, dưới ánh sáng của tư duy, cái đám nhung nhúc gớm ghê của tiếng lóng. Quả
vậy hình như đó là một con vật kinh khủng tạo ra để cho bóng đêm, một con vật
mà ta vừa rứt ra khỏi vũng thối. Người ta tưởng như nhìn thấy một cái búi kinh
tởm, sinh động và lởm chởm, nó run rẩy, nó cử động, nó giãy giụa, nó đòi lại
bóng tối, nó đe doạ và nó giương mắt nhìn. Từ này giống như một vuốt nhọn, từ
kia như một con mắt đã tắt và ngấn máu; câu nọ như đang ngọ nguậy tựa một càng
cua. Tất cả những thứ đó sống, cái sinh lực ghê tởm của những con vật đã được
tổ chức trong tan rã của tổ chức. Bây giờ ta thử hỏi có lúc nào ta bỏ cấm chỉ
nghiên cứu cái ghê tởm?
Từ bao giờ bệnh tật xua đuổi thầy thuốc? Người ta có thể hình
dung được một nhà vạn vật học mà lại đi từ chối không nghiên cứu con rắn độc,
con dơi, con bọ cạp, con rết, con nhện độc, vứt lại chúng vào bóng tối của
chúng và nói: Ô! Xấu xí quá! Nhà tư tưởng mà quay mặt đi trước một ung nhọt,
một mụn cóc. Đó sẽ là một nhà ngôn ngữ học do dự, khảo sát một thực tại của
ngôn ngữ, một nhà triết học do dự dò xét một sự kiện của nhân loại: bởi vì
tiếng lóng vừa là một hiện tượng của văn học, vừa là một kết quả xã hội. Tiếng
lóng, căn bản, là gì? Tiếng lóng là ngôn ngữ của khốn cùng.
Tới đây, người ta bắt ta dừng lại. Người
ta có thể khái quát hóa một sự kiện, đôi khi đó là cách giảm nhẹ nó đi; người
ta có thể bảo chúng ta rằng, mọi nghề, mọi nghiệp, có thể mọi ngẫu nhiên của hệ
thống xã hội và hết thảy các hình thức của trí tuệ, đều có tiếng lóng của nó.
Người bán hàng khi nói: Montpelier sẵn sàng; Masesille phẩm chất tốt; nhân viên
hối đoái khi nói: đem qua, hoa hồng, cuối tới; người đánh bạc khi nói: tiers et
tout, refait de pique; người thừa phát lại các đảo xứ Normăngđi nói:
L’afftiffeur s’arr ant a son fonds ne peut cjamer les fruits de ce fonds
pendant la saisie héréditale dé immeubles du renonciateur; nhà soạn hài kịch
nói: người ta đã làm vui con gấu (vở kịch đã bị huýt còi), người diễn viên khi
nói: tôi làm phòng tối (Tôi đã diễn hỏng, mất khách); nhà triết học khi nói:
tam đồng hiện tượng; người ta săn bắn khi nói: voileci allais, voleci fuyant;
nhà não tướng học khi nói: ái lực tình, chiến đấu tính, tiết niệu tính; người
lính bộ nói: cái kèn của tôi; người kỵ sĩ nói: con gà Ấn của tôi; khi thầy dạy
kiếm nói: tierce, quarte, rompez; khi người thợ in nói: parlons bollo, thì, tất
cả, thợ in, người đi săn, triết gia, diễn viên, kịch sĩ, thừa phát lại, tay cờ
bạc, hối đoái viên, nhà buôn, đều đã nói lóng. Người họa sĩ khi nói: mon rapin,
người chưởng khế khi nói: mon sau teruisseau, người làm tóc giả khi nói: mon
commic, người chữa dép khi nói: mon gniaf (những từ này đều có nghĩa: người học
trò của tôi), đều đã nói lóng. Nói cho cùng, và nếu người ta tuyệt đối muốn như
vậy, thì tất cả những cách khác nhau để trỏ bên trái, bên phải của người lính
thủy: bâbord và tribord, của người điều khiển máy: phía sân phía vườn, của
người phụ việc trong nhà thờ: phía Thi huấn, phía Phúc âm là những cách nói
lóng.
Có tiếng lóng của những phụ nữ õng ẹo
cũng như có tiếng lóng của những bà kiểu cách. Lâu đài Răngbuiê cũng gần kề với
lều hành khất. Có tiếng lóng của những bà công tước, bằng chứng là câu này, ở
trong một bức thư tình của một bà lớn rất đẹp thời Phục hưng: “Ông sẽ thấy
trong những chuyện ngồi lê đôi mách của cả một mớ những lý do để tôi phóng
túng”. Những mật mã ngoại giao là tiếng lóng; ở phòng Chưởng ấn Giáo Hoàng, khi
nói 26 để chỉ La Mã, grkztntgzyal để nói gửi đi và abfxustgrnogrkzutuxi để thay
quận công xứ Môdenơ, đã nói lóng. Những thầy lang thời trung cổ, muốn nói cà
rốt, củ cải, củ nave đã gọi là: opoponach, perfroschinum, reptitalmus,
dracatholicum angelorum, postmegorum, cũng là nói lóng. Nhà sản xuất đường khi
nói: vergeoise, têle, clairce, tape, lumps, melis, bâtarde, commun, brulé,
ploque, con người lương thiện đó cũng đã nói lóng. Một trường phái phê bình,
cách đây hai mươi năm khi nói: Một nửa Sếchxpia là chơi chữ và chơi đồng âm dị
nghĩa, đã nói lóng. Thi sĩ và nghệ sĩ, với một ý thức sâu sắc, sẽ gọi ông Đờ
Môngmôrăngxi là một “tư sản” nếu ông không phải người am hiểu về thơ và tượng,
đã nói lóng. Một viện sĩ hàn lâm cổ điển gọi hoa là Flore, quả là Pômônơ, biển
là Néptuyn, gọi tình yêu là lửa nhiệt, sắc đẹp là mối quyến rũ, con ngựa là
“tuấn mã”, cái mão chương trắng hoặc tam tài là “đóa hồng của Benlon”, cái mũ
có ba sừng là tam giác của Chiến thần, thì viện sĩ cổ điển ấy đã nói lóng.
Đại số, y học, thực vật học đều có tiếng
lóng của nó. Ngôn ngữ mà người ta dùng trên tàu thủy, cái ngôn ngữ đáng thán
phục của biển cả, rất đầy đủ và rất tạo hình mà Giăng Ba, Đuy Ken, Xuyphren và
Đuyperê đã nói, nó lẫn với tiếng neo, xích, với tiếng loa, với tiếng búa đụng
nhau, tiếng tàu chòng chành, tiếng gió bão, đại bác, là cả một thứ tiếng lóng
oai hùng và rầm rộ, nó đối với tiếng lóng hoang sơ của kẻ cắp, như sư tử đối
với chó rừng.
Đành vậy, nhưng dù biện hộ thế nào đi
nữa, thì cái kiểu hiểu từ nói lóng như thế là một kiểu hiểu theo nghĩa mở rộng
mà không phải tất cả mọi người đều sẽ thừa nhận. Về phần chúng tôi, chúng tôi
giữ cho từ ấy cái nghĩa cũ, chính xác, có phạm vi và được chỉ định, và chúng
tôi giới hạn tiếng lóng trong tiếng lóng. Tiếng lóng thực sự, tiếng lóng cao độ
- nếu hai từ đó có thể phối hợp tiếng lóng từ muôn đời, đã là một vương quốc,
chúng tôi nhắc lại, chính là cái ngôn ngữ xấu xí, lo âu, thâm hiểm, phản bội,
có nọc, ác độc, ám muội, đề hèn, sâu sắc, bất hạnh của khốn cùng. Ở cùng cực
của mọi sự suy sụp và của mọi bất hạnh, có một cái khốn cùng tận đáy nổi dậy và
quyết định đấu tranh chống toàn bộ những thực tại tốt số và những quyền lợi
hiện hành: một cuộc đấu tranh khủng khiếp, khi gian trá, khi tàn bạo, vừa bệnh
hoạn, vừa hung dữ, qua đó khốn cùng tấn công vào trật tự xã hội bằng những nhát
chùy của tội ác. Để phục vụ cuộc đấu tranh này, khốn cùng đã phát sinh ra một
ngôn ngữ chiến đấu, đó là tiếng lóng.
Làm cho nổi lên rồi lại nâng đỡ lên trên
trên quên lãng, lên trên vực thẳm, một mảnh nhỏ của một ngôn ngữ nào mà con
người đã sử dụng - cái ngôn ngữ luôn luôn mất mát đó - nghĩa là duy trì được
một yếu tố, tốt hoặc xấu của nền văn minh, là phát triển những luận cứ của quan
sát xã hội, là phục vụ nền văn minh. Nhiệm vụ ấy Plôtơ đã làm, dù muốn hoặc
không muốn, khi để hai người lính thành Cáctagiơ nói tiếng xứ Phênixi, Môlie đã
làm khi để cho nhiều nhân vật của mình nói tiếng Đông phương và đủ các thứ thổ
âm. Ở đây, tiếng phản đối lại nổi dậy; tiếng Phênixiêng à, tốt lắm chứ, tiếng
Đông phương à, hay quá! Ngay tiếng thổ âm cũng được, đó từng là những ngôn ngữ của
một nước, một tỉnh. Còn tiếng lóng? Ích gì mà giữ tiếng lóng? “Làm cho tiếng
lóng nổi lên” thì lợi gì?
Với cái đó, chúng tôi chỉ trả lời một
câu: đúng vậy, nếu ngôn ngữ mà một nước, một tỉnh đã nói đáng quan tâm, thì có
một thứ còn đáng quan tâm hơn và đáng nghiên cứu hơn, đó là ngôn ngữ của khốn
cùng.
Đó là ngôn ngữ của khốn cùng ở Pháp bốn
thế kỷ nay, không phải chỉ một khốn cùng, mà tất cả khốn cùng của loài người.
Chúng tôi còn nhấn mạnh điểm này: nghiên
cứu những dạng xấu, những tàn tật xã hội và nêu chúng lên để sửa chữa không
phải là một công việc trong đó người ta được phép kén chọn. Nhiệm vụ nhà nghiên
cứu lịch sử phong tục và tư tưởng cũng nghiêm khắc không kém nhiệm vụ nhà
nghiên cứu những sự kiện: sử gia sau nhìn bề mặt của văn minh, những cuộc đấu
tranh của vua chúa, sự sản sinh các hoàng tử, những hôn lễ của các nhà vua,
những chiến trận, những hội nghị, những vĩ nhân công chúng thừa nhận, những
cuộc cách mạng giữa thanh thiên bạch nhật, tất cả bề ngoài. Sử gia kia nhằm cái
bên trong, cái ở dưới, nhằm vào nhân dân lao động, đau khổ và chờ đợi, nhằm
người phụ nữ bị điêu đứng, đứa trẻ hấp hối, những chiến cuộc âm thầm giữa con
người và con người, những hung dữ ngấm ngầm, những thành kiến, những bất công
được thừa nhận, những phản ứng ngấm ngầm đối với luật pháp, những diễn tiến bí
mật của tâm hồn, những rung động khó phân của đám đông, những người chết đói,
những người đi chân đất, những người để cánh tay trần, những người bất hạnh,
những trẻ mồ côi, những người khổ sở và điếm nhục, tất cả những sâu bọ lê lết
trong bóng tối. Nhà sử gia đã phải rất nhân ái đồng thời phải rất nghiêm khắc,
như một người anh và một thẩm phán, đi xuống tận những căn buồng khó vào nhất
trong đó bò lổm ngổm và lẫn lộn những kẻ đánh người và những kẻ đổ máu, những
kẻ khóc và những kẻ nguyền rủa, những kẻ nhịn đói và những người nhai ngấu
nghiến, những kẻ chịu đựng cái ác và những kẻ ác. Các sử gia của những tấm lòng
và của những tâm hồn há lại kém phận sự hơn các sử gia của những thực tại bên
ngoài ư? Người ta có nghĩ rằng Alighieri có ít chuyện để nói hơn Makiaven
không? Cái bên dưới của nền văn minh có vì sâu hơn và tối hơn mà kém quan trọng
không? Người ta có hiểu được núi khi không biết hang hay không?
Vả chăng cũng nên nói qua một lần từ mấy
câu trên đây, người ta có thể suy diễn là giữa hai hạng sử gia có một ngăn cách
dứt khoát. Chúng tôi không hề nghĩ có cái ranh giới kiểu đó. Không ai là một sử
gia tốt về cuộc sống hiển nhiên, rõ rệt và công khai của các dân tộc, nếu không
là sử gia của cuộc sống sâu xa và thầm kín của bọn họ trong chừng mực nào. Và
không ai là sử gia tốt của cái bên trong, nếu người đó không biết ghi chép lịch
sử của cái bên ngoài khi cần phải thế. Lịch sử những phong tục và tư tưởng,
thấm vào lịch sử những biến cố và ngược lại. Đó là hai loại thực tại khác nhau
và cũng có khi cái nọ làm nảy ra cái kia. Tất cả những nét mà trời đã vạch lên
bề mặt của một quốc gia đều có những nét song song âm thầm ở bên dưới, nhưng
khác biệt và tất cả những biến động dưới đáy đều làm phát sinh những chấn động
trên mặt. Khoa sử học chân chính chui vào khắp nơi, nhà sử học chân chính cũng
xông vào khắp chốn.
Con người không phải là một hình tròn có
tâm điểm duy nhất, đó là một hình bầu dục, có hai tiêu điểm. Những sự kiện là
một tiêu điểm, những ý tưởng là tiêu điểm kia.
Tiếng lóng không khác gì một phòng treo
áo trong đó ngôn ngữ đến để ngụy trang khi phải làm một việc xấu. Ở đó nó khoác
những từ mặt nạ và những ẩn dụ tã rách.
Vì vậy nó trở thành kinh tởm. Người ta
khó mà nhận ra nó. Có phải đấy là tiếng Pháp, ngôn ngữ lớn của nhân loại? Kìa
nó sẵn sàng lên sân khấu, để đáp ứng tội ác và thích ứng với mọi vai của tội
ác. Nó không đi ngay nữa, nó lê lết, nó què quặt trên chiếc nạng của bọn hành
khất, một chiếc nạng có thể thay hình thành cái chùy: nó lấy tên là phường ăn mày
nói; tất cả những yêu mà, tức là những kẻ lo về trang phục đã tô vẽ cho nó; nó
bò lê và chồm dậy theo hai dáng đi của loài rắn rết; bây giờ nó có khả năng
đóng mọi vai, người chuyên làm đồ giả đã cho nó cái ám muội, người đầu độc cho
nó cái sắc của gỉ đồng, kẻ đốt nhà đã quét đen bồ hóng cho nó và kẻ sát nhân đã
bôi đỏ cho nó.
Về phía những người lương thiện, họ đứng
trong cánh cửa xã hội mà nghe và họ bắt chước được những câu đối thoại của
những người bên ngoài. Người ta phân biệt được những câu hỏi và những lời đáp.
Người ta tri giác được tuy không hiểu nó, một tiếng rì rầm, gớm ghiếc, vang lên
hầu như giọng người, nhưng gần với tiếng rú hơn là tiếng nói. Đó là tiếng lóng.
Những từ ngữ này dị hợm và đượm một nét gì cầm thú quái đản. Người ta tưởng như
nghe những con mãng xà tinh chuyện trò.
Đó là cái không hiểu được trong cái tối
tăm. Cái đó rít lên và thì thầm, bổ sung cái nhá nhem bằng cái bí ẩn. Cảnh hoạn
nạn tối lắm, những tội ác còn tối hơn nữa. Hai cái đen tối ấy hỗn hợp tạo nên
tiếng lóng. Tối mò trong không khí, tối mò trong hành vi, tối mò trong tiếng
nói. Kinh khủng là cái ngôn ngữ cóc nhảy, nó đi, nó lại, nó nhảy, nó bò, nó sùi
bọt mép và nó vận động quái đản giữa đám sương mù vô biên, xám xịt, trong có
mưa, có đêm tối, có đói khát, có tật xấu, có dối trá, bất công, trần trụi nghẹt
thở và lạnh lẽo đông tiết, đúng cảnh giữa trưa của những người khốn khổ.
Chúng ta hãy thương những người bị trừng
phạt. Than ôi! Chính bản thân chúng ta là ai? Tôi là ai, đang nói với anh? Anh
là ai, đang nghe ai? Chúng ta từ đâu tới? Và có thật chúng ta đã chẳng làm gì,
trước khi ra đời? Trái đất không phải không giống với một nhà tù. Biết đâu con
người không là một cựu phạm trước tòa án Chúa?
Hãy nhìn gần hơn vào cuộc sống. Nó được
cấu tạo để đâu đâu người ta cũng cảm thấy như bị trừng phạt.
Anh có phải là một người mà ta gọi là
người sung sướng không? Thế mà, ngày nào anh cũng buồn bã. Mỗi ngày có cái buồn
lớn và cái âu lo nhỏ của nó. Hôm qua, anh đã run sợ cho sức khỏe của một người
anh yêu quý; hôm nay, anh sợ cho sức khỏe của chính anh; ngày mai, sẽ là một lo
ngại về tiền bạc, ngày kia, lời công kích của một tên vu cáo; ngày kìa, tai nạn
của một người bạn; rồi chuyện thời tiết xấu; rồi cái gì đổ vỡ hay mất mát; rồi
một cuộc vui mà lương tâm và cuộc sống sẽ trách móc anh; một lần khác, diễn
biến quốc sự không tốt. Không kể những vết thương lòng. Và cứ tiếp tục như thế.
Một bóng mây tan, một bóng mây khác lại tụ. Trong một trăm ngày, chưa có lấy
một ngày vui trọn vẹn và nắng suốt! Thế mà anh ở trong thiểu số những người có
hạnh phúc đấy! Còn những người khác, đêm tối ngưng đọng trên năm tháng của họ.
Những trí óc chịu suy nghĩ ít dùng cái
từ ngữ: những người sung sướng và những người khổ sở. Trong thế giới này, tiền
đình tất nhiên của một thế giới khác, không có ai là sung sướng.
Nhân quần chỉ có thể phân loại như thế
này: những người sáng tỏ và những người ngu tối.
Giảm số những người ngu tối, tăng số
những người sáng tỏ, đó là mục đích. Vì thế, chúng tôi hét to: giáo dục! Khoa
học! Học để đọc sách, là đốt lửa, mỗi âm tiết đánh vần lên là một tia sáng.
Vả lại, nói ánh sáng, không nhất thiết
là nói vui vẻ. Người ta cũng có thể đau khổ trong ánh sáng, cái gì quá mức cũng
đốt cháy. Ngọn lửa thiêu mất cái cánh. Bốc lửa mà vẫn bay, đó là kỳ tích của
thiên tài.
Khi anh biết và khi anh yêu, anh vẫn còn
đau khổ. Ánh sáng xuất hiện trong nước mắt. Những người sáng tỏ khóc, ít nhất
là khóc thương kẻ u tối.