Chiến Tranh Và Hòa Bình (Quyển 3) - Phần 11 - Chương 01 + 02 + 03

Phần
XI- Chương -1-

Trí tuệ của con người không quan
niệm nổi tính chất liên tục tuyệt đối của sự vận động. Chỉ khi nào tách rời một
cách võ đoán sự vận động đó ra từng đơn vị thì con người mới hiểu nổi những quy
luật của sự vận động, dù là loại vận động nào cũng thế. Nhưng đồng thời chính
cái lối phân chia sự vận động một cách võ đoán ra thành từng địa vị đã đưa đến
phần lớn những sai lầm của con người. Ai cũng biết lý luận quỷ biện (1) của
người cổ đại, nói rằng Asil (2) sẽ không bao giờ đuổi kịp con rùa đang đi trước
mặt ông ta, mặc dầu Asil đi nhanh gấp mười lần con rùa, thì con rùa đã đi được
một phần mười khoảng cách đó; đến khi Asil vượt được đoạn này, thì con rùa đã
đi được một quãng bằng một phần mười đoạn đó, và cứ thế mãi mãi không cùng.
Người cổ đại tưởng rằng không sao giải quyết được bài tính đố này. Sở dĩ đi đến
kết luận vô lý như vậy. - Kết luận rằng Asil sẽ không bao giờ đuổi kịp con rùa.
- Chỉ là người ta thừa nhận một cách võ đoán rằng sự vận động chỉ có thề chia
ra thành những đơn vị rời rạc, trong khi thật sự vận động của Asil cũng như của
con rùa đều toàn liên tục.

(1)
Lý luận trên một cơ sở sai lầm, nhưng có vẻ hợp lý nhờ một lối suy diễn chặt
chẽ, nhằm đưa đến một kết luận không đúng (sophisme). Lý luận quỷ biện nói đây
là của Zenon người Hele, triết gia Hy Lạp ở thế kỷ V trước công nguyên.

2.
Asil (hay Akhillox), nhân vật nổi tiếng nhất trang anh hùng ca Iliad của Homer,
vua dân Miếcmiđông, rất dũng cảm và nóng nảy. Chết trong cuộc đánh chiếm thành
Troie.

Trong khi chấp nhận những đơn vị
ngày càng bé đi hơn của sự vận động, ta chỉ tiến đến gần chỗ giải quyết vấn đề
nhưng không bao giờ đạt được đến chỗ giải quyết cả. Chỉ khi nào thừa nhận một
đại lượng vô cùng bé và một cấp số của nó tiến dần lên đến một phần mười và
tổng cộng cái cấp số hình học này lại, ta mới giải quyết được cái nghệ thuật xử
lý với các đại lượng vô cùng bé, và trong những vấn đề khác phức tạp hơn của sự
vận động, nó đã giải đáp những vấn đề mà trước kia tưởng chừng không sao giải
quyết nổi.

Cái ngành toán học mới mà người cổ
đại không hề biết đến trong khi xét các vấn đề sự vận động, thừa nhận những đại
lượng vô cùng bé, tức là phục hồi cái điều kiện chủ yếu của sự vận động (tính
chất liên tục tuyệt đối), và do đó đã sửa chữa được cái sai lầm tất nhiên mà
trí tuệ con người không sao tránh khỏi khi đem những đơn vị rời rạc thay thế
cho sự vận động liên tục.

Trong việc tìm tòi các quy luật vận
động của lịch sử cũng thấy có một tình hình giống hệt như vậy.

Sự vận động của nhân loại vốn xuất
phát từ vô số những ý chí cá biệt, cũng diễn ra một cách liên tục.

Hiểu thấu những quy luật của sự vận
động này chính là mục đích của sử học. Nhưng trong khi muốn hiểu thấu những quy
luật vận động liên tục của tổng số các ý chí của nhân loại thì trí tuệ của con
người thừa nhận những đơn vị võ đoán, gián đoạn. Phương pháp thứ nhất của sử
học là võ đoán lấy ra một loạt những biến cố liên tục rồi tách rời những biến
cố đó ra khỏi các biến cố khác và khảo sát trong khi không hề có và không thể
nào có một biến cố nào có khởi điểm cả, mà biến cố này bao giờ cũng xuất phát
từ biến cố nọ.

Phương pháp thứ hai là tổng cộng ý
chí của mọi người, trong khi cái ý chí cộng đồng đó không bao giờ được thể hiện
trong hoạt động của một nhân vật lịch sử duy nhất.

Khoa học lịch sử trong khi làm việc
luôn luôn chấp nhận những đơn vị ngày càng nhỏ bé để khảo sát và mong theo con đường
đó để tiến gần đến chân lý. Nhưng dù những đơn vị mà sử học chấp nhận có bé đến
đâu chăng nữa, ta vẫn cảm thấy rằng ngay việc thừa nhận một đơn vị tách rời ra
khỏi một đơn vị khác, thừa nhận rằng một hiện tượng nào đó có một khởi điểm và
ý chí của mọi người đều thể hiện trong hành vi của mọi nhân vật lịch sử duy
nhất, thì tự bản thân việc đó đã sai lầm rồi.

Bất cứ một kết luận nào của sử học,
nếu đem ra phê phán dù là phê phán không lấy gì làm gắt gao, cũng đã tan ra
thành tro bụi không để lại một chút gì, chỉ vì phê phán người ta chọn làm đối
tượng quan sát một đơn vị đoạn lớn hay nhỏ hơn; và người ta có quyền làm như
vậy vì đơn cử được lấy ra bao giờ cũng có tính chất võ đoán.

Chỉ khi nào thừa nhận một đơn vị vô
cùng bé để quan sát thừa nhận khoa học vì phần về lịch sử, tức là những ý hướng
cộng đồng của loài người, và dạt được cái nghệ thuật tích phân (rút ra cái tổng
số của những đơn vị vô cùng bé ấy) thì chúng ta mới có thể hy vọng hiểu thấu
đựơc những quy luật của lịch sử.

Trong mười lăm năm đầu thế kỷ 19, ở
châu Âu có một sự chuyển động phi thường của hàng mấy triệu con người. Những
con người đó từ bỏ những công việc thường ngày của họ kéo nhau từ đầu này sang
đầu kia châu Âu, cướp phá, tàn sát lẫn nhau, hân hoan vì đắc thắng và đau buồn
vì thất bại, và trong vòng mấy năm nhịp sống thay dổi và biến thành một cuộc
vận chuyển mãnh liệt lúc đầu tăng cường lên rồi sau lại giảm dần xuống. Trí tuệ
của con người băn khoăn đặt câu hỏi: Đâu là nguyên nhân của sự vận động đó hoặc
sự vận động đó diễn ra theo những quy luật gì?

Trong khi giải đáp câu hỏi này, các
nhà sử học trình bày cho chúng ta rõ những hành động và những lời nói của vài
ba chục con người trong một toà nhà nào đó ở thành Paris, gọi những hành động
và những lời nói đó bằng một danh từ là Cách mạng; sau đó họ kể lại một cách tỉ
mỉ tiểu sử Napoléon và của một số nhân vật đồng lòng hay đối địch với ông ta,
kể lại một vài ảnh hưởng của một vài nhân vật trong số đó đối với các nhân vật
kia, rồi nói: Đấy, chính vì vậy mà có sự vận động kia, và đó chính là nhtmg quy
luật đã chi phối nó.

Những trí tuệ của con người không
những không chịu tin lời cắt nghĩa đó, mà lại còn nói thẳng ra rằng cắt nghĩa
như vậy là không đúng, bởi vì nói như vậy tức là lấy một hiện tượng trọng yếu
nhất để lên thành nguyên nhân của một hiện tượng mạnh nhất. Chính tổng số những
ý chí của những con người đã làm ra cuộc cách mạng, đã tạo ra Napoléon, vẫn chỉ
có tổng số những ý chí đó dung túng rồi sau đó tiêu diệt cả hai.

"Nhưng hễ đã có những cuộc
chinh phục thì tất phải có người chinh phục. Hễ xẩy ra những cuộc đảo lộn trong
quốc gia thì tất phải có những bậc vĩ nhân", - Sử học sẽ nói. Quả nhiên,
hễ có những kẻ chinh phục xuất hiện, thì cũng sinh ra chiến tranh, - Trí tuệ
của con người đáp lại, - Nhưng điều đó không chứng minh rằng các nhà chinh phục
là nguyên nhân của các cuộc chiến tranh, và có thể tìm các quy luật của chiến
tranh trong hoạt động cá nhân của một con người. Cứ mỗi lần tôi xem đồng hồ và
thấy chiếc kim nhích gần đến số mười, từ ngôi nhà thờ bên cạnh tôi lại nghe có
tiếng chuông nguyện bắt đầu đổ hồi, nhưng không phải thế mà tôi có quyền kết
luận rằng vị trí chiếc kim đồng hồ của tôi là nguyên nhân của hồi chuông.

Cứ mỗi lần tôi thấy một đầu máy xe
lửa chạy thì tôi lại nghe có tiếng còi huýt, tôi lại thấy nắp hơi mở ra và thấy
bánh xe chuyển động; nhưng không phải vì thế mà tôi có quyền kết luận rằng
tiếng còi huýt và sự chuyển động của bánh xe là nguyên nhân khiến chiếc đầu máy
xe hoả chạy.

Nông dân thường nói rằng vào tiết
cuối xuân có gió lạnh là vì chồi non của cây sồi nhú ra, và quả nhiên vào tiết
xuân thường có gió lạnh khi cây sồi đâm chồi non. "Nhưng mặc dầu tôi không
rõ nguyên nhân của ngọn gió lạnh thổi vào tiết cây sồi mọc mầm, tôi cũng không
thể đồng ý với người nông dân mà cho rằng sở dĩ gió lạnh thổi là vì cây sồi mọc
mầm, bởi vì sức mạnh của gió không thể chịu ảnh hưởng của những cái mầm ấy. Tôi
chỉ thấy có sự trùng nhau giữa những điều kiện vốn có trong bất cứ hiện tượng
nào của cuộc sống, và thấy rằng dù tôi có quan sát chiếc kim đồng hồ, chiếc
bánh xe và cái mầm sồi một cách tỉ mỉ đến đâu đi chăng nữa, cũng không thể biết
được nguyên nhân của hồi chuông nguyện, của sự chuyển động của đầu máy xe hoả
và của ngọn gió xuân. Muốn thế, tôi phải thay đổi hẳn vị trí quan sát và nghiên
cứu các quy luật vận động của hơi nước, của cái chuông và của ngọn gió. Sử học
cũng phải làm như vậy. Và cũng có những cố gắng làm như vậy.

Muốn nghiên cứu các quy luật của
lịch sử ta phải thay đổi hoàn toàn đối tượng quan sát, để yên các nhà vua, các
vị đại thần và đại tướng ở đấy, mà nghiên cứu những yếu tố đồng nhất vô cùng bé
lãnh đạo quần chúng. Không ai nói rõ được con người có thể hiểu các quy luật sử
được đến đâu khi đi theo con đường này; nhưng rõ ràng chỉ đi con đường này mới
mong nắm được các quy luật lịch sử và phần trí tuệ mà con người đặt vào con
đường này chưa bằng một phần triệu những sự nỗ lực mà nhà sử học đã dành cho
việc mô tả hành vi của nhà vua, các tướng lĩnh và các tổng trưởng và trình bày
những suy luận của mình về các hành vi đó.

Phần
XI

Chương
- 2 -

Lực lượng kết hợp của mấy dân tộc
châu Âu đã tràn vào nước Nga. Quân đội và cư dân Nga rút lui, tránh cuộc xung
đột, rút cho đến Smolensk rồi từ Smolensk đến Borodino rầm rộ tiến nhanh về
phía Moskva, mục đích của cuộc chuyển dộng của nó. Càng đến gần đích, thế nó
tiến tới lại càng mạnh, cũng như một vật thể càng rơi xuống đến gần đất thì tốc
độ rơi lại càng lớn. Nó bỏ lại sau lưng hàng nghìn dặm đất đói nghèo và thù
địch; phía trước mặt chỉ còn mấy mươi dặm nữa là đến đích. Điều đó, mỗi người
lính trong quân đội của Napoléon đều cảm biết, và cuộc xâm lăngg cứ tự nó tiến
triển chỉ do cái sức mạnh của đà thúc đẩy cũ.

Trong quân đội Nga thì càng rút lui,
tinh thần căm thù địch lại càng bốc cháy hừng hực: Trong khi rút lui nó tập
trung lại và tăng cường lên. Ở Borodino đã xảy ra một cuộc chạm trán. Trong hai
đội quân không có bên nào tan rã, nhưng quân đội Nga ngay sau cuộc xung đột đã
rút lui, cũng một cách tất nhiên như một quả cầu tất nhiên phải lăn ngược trở
lại khi va phải một quả cầu lăn về phía nó mạnh hơn và nhanh hơn; và cũng tất
nhiên như thế, tuy đã mất hết sức lực lượng trong cuộc va chạm, quả cầu tấn
công kia cũng sẽ theo đà mà lăn một quãng nữa.

Quân Nga rút về phía sau, qua Moskva
và dừng lại ở đây. Sau đó suốt năm tuần lễ không xảy ra một trận đánh nào. Quân
Pháp không xê dịch. Giống như một con ác thú bị thương nặng mất nhiều máu đang
liếm những vết thương của mình, họ ở lại Moskva năm tuần lễ, không tiến hành
một công việc gì cả, và bỗng nhiên, chẳng có nguyên do gì mới, họ bỏ chạy trở
lại: Họ đổ ra con đường Kaluga (tuy đã thắng trận, vì sau khi đánh chiến trường
Maly Yaroxlav nằm trong tay họ), và không mở một trận nào quan trọng, họ chạy
càng nhanh về phía Smolensk rồi vượt qua Smolensk chạy về Vilna vượt sông
Berezina rồi tiếp tục chạy mãi.

Tối ngày mồng hai tháng tám, Kutuzov
cũng như toàn quân đều đã tin chắc rằng trận Borodino là một trận thắng. Trong
thư của Kutuzov gửi hoàng đế cũng nói như vậy. Kutuzov ra lệnh chuẩn bị một
trận chiến đấu nữa để tiêu diệt quân địch không phải vì ông muốn lừa dối ai mà
là vì ông biết rằng quân địch đã bại trận và bất cứ người nào tham gia trận
chiến đấu cũng đều biết như vậy.

Nhưng cũng tối hôm ấy và ngày hôm
sau bắt đầu có những tin tức dồn dập đưa về, cho biết là binh lính bị thương
vong nhiều chưa từng thấy, rằng quân đội đã tổn thất mất một nửa, và thực tế
không thề nào mở một trận mới được nữa.

Không thể nào tác chiến trong khi
chưa thu thập được tin tức, chưa thu nhặt được thương binh, chưa bổ sung đạn
được, chưa đem hết số quân sĩ tử trận, chưa chỉ định những sĩ quan chỉ huy mới
thay cho những sĩ quan đã thương vong, trong khi binh sĩ chưa được ăn, ngủ cho
lại sức. Nhưng đồng thời ngay sau trận đánh, vừa mới sáng hôm sau, quân đội
Pháp (do cái sức mạnh thúc đẩy kia bây giờ dường như đã tăng lên theo tỷ lệ ngược
với số bình phương của khoảng cách) đã tự nó tấn công vào quân đội Nga. Kutuzov
đang muốn tấn công vào ngày hôm sau và toàn quân cũng đều muốn như vậy Nhưng
không phải cứ muốn là có thể tấn công được, cần phải có khả năng tấn công, mà
bây giờ thì chưa có cái khả năng đó.

Không thể nào không rút lui thêm một
chặng. Rồi lại một chặng nữa, và cuối cùng, vào ngày mồng một tháng chín, - Khi
quân đội đã rút về gần Moskva. - Mặc dầu trong hàng ngũ lòng căm thù đã lên rất
mạnh, hoàn cảnh vẫn bắt buộc phải rút quá Moskva. Và quân đội đã rút lui thêm
một chặng nữa, chặng cuối cùng, và để cho Moskva rơi vào tay quân địch.

Những người quen nghĩ rằng các tướng
lĩnh ngồi vạch ra kế hoạch các cuộc chiến tranh và các trận đánh cũng y như bất
cứ người nào trong chúng ta, khi ngồi trong thư phòng trước một tấm bản dồ, suy
nghĩ xem trong trận này trận kia mình sẽ điều binh khiển tướng như thế nào, ắt
phải thắc mắc không hiểu tại sao trong khi rút lui, Kutuzov lại không hành động
như thế này, như thế nọ, tại sao ông ta lại không chiếm lĩnh vị trí trước khi
đến Fili, tại sao ông ta lại không rút ngay ra con đường Kaluga sau khi bỏ
Moskva v.v… Những người quen nghĩ như vậy thường quên mất hoặc không biết đến
những điều kiện tất yếu bao giờ cũng chi phối hoạt động của bất cứ nhà cầm
quyền nào.

Hoạt động của một vị tổng tư lệnh
không hề có chút gì giống như cái hoạt động mà ta vẫn tưởng tượng ra trong khi
ngồi thoải mái trong thư phòng, nghiên cứu một chiến dịch nào đó trên tấm bản
đồ, với một số quân nhất định bên này bao nhiêu bên kia bao nhiêu, và ở một địa
phương nhất định, và bắt đấu xuất phát từ một thời điểm nhất định nào đó. Một
vị tổng tư lệnh không bao giờ ở trong cái hoàn cảnh khởi điểm của một biến cố
như chúng ta thường hình dung khi xét một sự kiện. Một vị tổng thống tư lệnh
bao giờ cũng ở vào giữa một loạt những biến cố đang tiến triển thành thử không
bao giờ, không có phút nào ông ta có thể ngẫm nghĩ về ý nghĩa của biến cố đang
tiến triển. Biến cố đó vẫn từng lúc một lộ rõ ý nghĩa của nó, và ở mỗi giai
đoạn trong cái quá trình bộc lộ nhất quán, liên tục đó, vị tổng tư lệnh đều
đang ở vào trung tâm của một hoạt động phức tạp, đầy những thủ đoạn, những âm
mưu, những nỗi lo lắng, những mối lệ thuộc, những uy quyền, những dự định,
những lời khuyên răn, những câu hăm doạ, những sự lừa phỉnh, ông ta luôn luôn
buộc phải trả lời vô số những câu hỏi đề ra cho ông ta, những câu hỏi nhiều khi
mâu thuẫn nhau.

Các nhà lý luận quân sự thông thái
nói với chúng ta một cách rất nghiêm trang rằng lẽ ra Kutuzov phải chuyển quân
ra con đường Kaluga từ lâu trước khi Fili, và thậm chí còn nói rằng có người đề
ra ý kiến với ông ta. Nhưng trước mắt vị tổng tư lệnh nhất là trong giờ phút
gay go, không phải chỉ có một ý kiến, mà bao giờ cũng có hàng chục ý kiến trong
một lúc. Và mỗi ý kiến như vậy, vốn căn cứ trên chiến lược và chiến thuật lại
dẫn đến mâu thuẫn lẫn nhau. Có thể tưởng đâu công việc của vị tổng tư lệnh
chẳng qua là chọn lấy một trong những ý kiến đó. Nhưng dù chỉ có thế thôi, thì
ông ta cũng không thể làm được. Sự việc và thời gian không đợi ai hết. Chẳng
hạn có người đề nghị với ông ta là đến ngày hai mươi tám cho chuyển quân ra
đường Kaluga; nhưng khốn nỗi ngay lúc đó lại có một viên sĩ quan phụ tá của
Miloradovite phi ngựa đến hỏi xem nên giao chiến ngay với quân Pháp hay là nên rút
lui. Thế là ngay lúc ấy ngay phút ấy ông ta phải ra lệnh. Mà lệnh rút lui lại
làm cho quân ta phải rời xa các chỗ ngoặt đưa đến con đường Kaluga.

Rồỉ tiếp theo viên sĩ quan phụ tá
lại có viên quản lý quân nhu đến hỏi xem phảì chở lương đi đâu, rồi một viên
thủ trưởng bệnh xá hỏi phải chở thương binh đi đâu; cũng ngay lúc ấy lại có thư
của nhà vua từ Petersburg gửi đến, một mực không chấp nhận ý định bỏ Moskva,
còn kẻ tranh quyền với vị tổng tư lệnh, kẻ đang cố tìm cách ngầm hại ông ta
(những kẻ như vậy thì lúc nào cũng có, và không phải chỉ một, mà khá nhiều) thì
để ra nột kế hoạch mới, ngược hẳn với kế hoạch tiến ra đường Kaluga. Trong khi
đó thì bản thân vị tổng tư lệnh đang cần ngủ và cần bồi dưỡng cho lại sức, thế
nhưng lại có một viên tướng già không được khen thưởng đến khiếu nại; rồi dân
sở tại đến van xin ông che chở cho, rồi một viên sĩ quan được phái đi xem xét
địa thế trở về báo cáo những điều trái hẳn với viên sĩ quan được phái đi lần
trước, rồi người trinh sát, tên tù binh và viên tướng phụ trách việc kiểm tra
trận địa. - Mỗi người đã quên không hiểu hoặc quên những hoàn cảnh thực tế tất
yếu đó của bất cứ vị tổng tư lệnh nào, có thể trình bày cho ta biết vị trí các
đạo quân ở Fili và bảo răng ngày một tháng chín vị tổng tư lệnh có thể hoàn toàn
tự do giải quyết vấn đề bỏ hay giữ Moskva trong khi vấn đề này không thể đặt ra
được vì quân đội Nga đang ở cách Moskva năm dặm. Vậy thì vấn đề này được giải
quyết vào lúc nào? Nó được giải quyết ở Drissa, cũng như ở Smolensk, và rõ hơn
cả là ngày hai mươi bốn ở Sevardino cũng như ngày hai mươi sáu ở Borodino, cũng
như ở bất cứ ngày nào, giờ nào, phút nào trong khi rút từ Borodino đến Fili.

Phần
XI

Chương
- 3 -

Quân đội Nga rút từ Borodino đến
đóng ở Fili. Yermolov vừa cưỡi ngựa đi xem địa thế về, đến gặp vị tổng soái
nói:

- Không thể nào chiến đấu trên địa
thế này được.

Kutuzov ngạc nhiên nhìn ông ta và
bảo ông ta nhắc lại câu vừa nói. Nghe xong, Kutuzov chìa tay ra bảo:

- Anh đưa tay đây tôi xem nào, -
Kutuzov nói đoạn cầm lấy tay Yermolov để bắt mạch, rồi tiếp: - Anh ốm rồi đấy
anh bạn ạ. Bận sau nói gì phải suy nghĩ nhé.

Trên đồi Poklonny, cách cửa ô
Dorogomilov sáu dặm, Kutuzov xuống xe và đến ngồi trên một chiếc ghế dài bên vệ
đường. Một đám tướng tá rất đông xúm lại quanh ông. Bá tước Raxtopsin mới ở Moskva
đến cũng nhập bọn với họ. Cả đám người sang trọng ấy phân ra làm mấy nhóm, đang
bàn tán về những lợi hại của địa thế, về vị trí các đạo quân, về các kế hoạch
được đề ra, về tình hình Moskva, về các vấn đề quân sự nói chung. Mọi người đều
cảm thấy rằng đây là một phiên họp hội đồng quân sự, tuy không ai nói rõ như
vậy, và tuy họ được triệu tập đến đây cũng không phải để họp hội đồng quân sự.
Nhưng câu chuyện vẫn xoay quanh các vấn đề chung. Nếu có ai cho biết hay hỏi
han những tin tức cá biệt, thì cũng chỉ nói thì thầm rất khẽ, rồi lại chuyển
ngay sang các vấn đề chung chung; trong đám người đó không hề thấy có ai nói
đùa hay cười cợt gì cả, dù chỉ là cười mỉm thôi cũng vậy. Rõ ràng là mọi người
đều hết sức cố gắng có một thái độ xứng đáng với tình hình. Và trong khi nói
chuyện với nhau, tất cả nhóm đều cố gắng nghe và thỉnh thoảng lại bảo nhắc lại
một câu họ vừa nói, nhưng bản thân ông ta thì không góp chuyện và không phát
biểu ý kiến gì cả. Thường thường, sau khi nghe câu chuyện trao đổi trong một nhóm
nào đấy ông ngoảnh mặt đi có vẻ thất vọng, dường như họ không nói đến những
điều mà ông muốn biết. Nhóm thì bàn tán về địa thế đã chọn, phê phán chính cái
địa thế đó thì ít, mà phê phán trí thông minh của những người đã chọn nó thì
nhiều, một nhóm khác thì lại chứng minh rằng sai lầm là sai lầm từ trước kia;
lẽ ra phải khai chiến cách đây ba hôm mới phải; một nhóm thứ ba thì bàn về trận
đánh ở Xlanmanca mà một người Pháp mặc quân phục Tây Ban Nhan là Croxa vừa kể
lại (cùng với một hoàng thân Đức phục vụ trong quân đội Nga, người Pháp này
đang phân tích cuộc vây hãm thành Xaragossa có ý muốn đề nghị dùng chiến thuật
ấy để phòng thủ Moskva). Trong nhóm thứ tư, bá tước Raxtopsin đang nói rằng ông
ta sẵn sàng hy sinh tính mệnh dưới thành Moskva cùng với đội dân vệ, nhưng dù
sao ông ta cũng không thể không phàn nàn rằng người ta đã không cho ông biết rõ
tình hình, vì giá ông được biết từ trước, thì đâu đến nỗi như thế này. Nhóm thứ
năm thì đang phô trương những tư tưởng chiến lược uyên thâm của mình, cho biết
quân đội phải chuyển về hướng nào. Nhóm thứ sáu thì bàn toàn chuyện nhả. Gương
mặt của Kutuzov mỗi lúc một thêm lo âu và phiền muộn. Qua tất cả những câu
chuyện bàn tán qua lại ấy, Kutuzov chỉ thấy có một điều là không hề có một khả
năng vật chất nào để phòng thủ Moskva, mà cái nghĩa trọn vẹn nhất của chữ này,
nghĩa là đến cái mức mà giả sử có một vị tổng tư lệnh điên rồ nào ra lệnh xung
trận, thì sẽ xảy ra một tình trạng hỗn loạn ghê gớm rốt cục trận đánh sẽ vẫn
không diễn ra. Trận đánh sẽ không diễn ra bởi vì tất cả chỉ huy cao cấp không
những đều cho rằng địa thế này không thể nào giữ được, mà trong khi nói chuyện
họ lại chỉ bàn đến những việc sẽ xảy ra sau khi rút quân ra trận địa, trong khi
chính họ cho rằng trận địa ấy không sao giữ nổi? Các sĩ quan chỉ huy cấp dưới,
và ngay cả quân lính nữa (họ cũng biện luận), đều cho rằng vị trí này không thể
giữ được, cho nên họ không thể chiến đấu trong khi đang tin chắc là sẽ thất
bại. Nếu Benrigxen nằng nặc đòi giữ vị trí này và có những người còn bàn về
chuyện ấy, thì vấn đề tự bản thân nó cũng chẳng còn có ý nghĩa nào nữa, mà chỉ
là một cái cớ để gây gổ và kèn cựa nhau thôi.

Những điều đó Kutuzov hiểu cả.

Benrigxen, người đã chọn vị trí này,
hăng hái phô trương lòng ái quốc Nga la tư của mình (mỗi lần nghe cái giọng ái
quốc này Kutuzov không thể không cau mặt) và khăng khăng đòi giữ Moskva.
Kutuzov thấy rõ như ban ngày cái thầm ý của Benrigxen nếu việc phòng thủ thất
bại, thì sẽ đổ tội cho Kutuzov, là người đã đưa quân rút về đến tận dãy núi
Vorobiov mà không mở một trận nào; nếu thắng lợi thì sẽ nhận công trạng về
mình; còn nếu bị bác đi thì sẽ trút bỏ được trách nhiệm vể tội bỏ Moskva. Nhưng
bấy giờ vị tướng già không bận tâm nghĩ đến những mánh khoé ấy. Ông còn mải
nghĩ đến một vấn đề duy nhất và đáng sợ. Mà vấn đề đó thì ông chẳng nghe ai đưa
ra một lời giải đáp nào cả. Bây giờ đối với ông chỉ có một vấn đề là: có phải
chính ông ta đã để cho Napoléon tiến tận đến Moskva, và ta đã làm việc đó từ
lúc nào? Việc đó được định đoạt từ lúc nào?

Phải chăng từ hôm qua, khi ta ra
lệnh cho Plotov rút lui, hay là từ chối ngày hôm kia, khi ta ngủ gật và ra cho
Benrigxen tuỳ tiện xử trí? Hay là từ trước nữa?. Nhưng cái việc khủng khiếp ấy
định đoạt từ bao giờ, từ bao giờ? Thế nào cũng phải bỏ Moskva. Quân đội phải
rút lui, ta phải ra lệnh rút lui". Ông có cảm tưởng là cái lệnh kinh khủng
này cũng chẳng khác nào từ bỏ chức vụ chỉ huy quân đội. Thế nhưng, không những
ông thích quyền hânh và đã quen với quyền hành (hồi ông phục vụ ở Thổ Nhĩ Kỳ,
danh vọng của công tước Prozorovxki làm cho ông bực tức), ông lại còn tin tin
chắc rằng mình là con người tiến định để cứu nước Nga. và chỉ vì vậy mà ông ta
đã được cử làm tổng tư lệnh theo ý nguyện của nhân dân và trái với ý nguyện của
Sa hoàng. Ông tin chắc rằng trong hoàn cảnh khó khăn này chỉ có một mình ông có
thể cầm đầu quân đội, rằng trong thiên hạ chỉ có một mình ông có thể không run
sợ khi phải đương đầu với tướng Napoléon bách chiến bách thắng kia; và ông thấy
kinh hãi khi nghĩ đến cái lệnh mà ông buộc lòng phải ban ra. Nhưng phải quyết
định một cái gì chứ, phải chấm dứt những cái chuyện bàn tán ở xung quanh đi:
những câu chuyện đó đã bắt đầu quá tự do.

Ông gọi các vị tướng thâm niên nhất
lại, nói:

- Trí óc của tôi, dù khôn dù dại,
cũng chỉ biết mong chờ vào mình nữa mà thôi!

Ông vừa nói vừa đứng dậy ra xe đi về
Fili.

Báo cáo nội dung xấu