Kẻ trộm sách - Phần II - Chương 1

PHẦN HAI

***

CÁI
NHÚN VAI

Gồm có:

đứa bé gái được làm từ bóng tối - niềm vui của những điếu thuốc lá -
người đi trên phố - những lá thư chết - sinh nhật của hitler - mồ hôi đứa thuần
chủng - những cánh cổng của việc ăn trộm - và quyển sách của lửa

ĐỨA BÉ GÁI
ĐƯỢC LÀM TỪ BÓNG TỐI

* VÀI THÔNG TIN MANG TÍNH THỐNG KÊ *

Quyển sách
lấy trộm đầu tiên: 13 tháng Giêng, 1939

Quyển sách
lấy trộm thứ hai: 20 tháng Tư, 1940

Khoảng cách
giữa hai quyển sách lấy trộm nói trên: 463 ngày

Nếu nói thẳng
ra, thì bạn sẽ cho rằng tất cả những gì con bé cần thực ra chỉ là một chút lửa,
cùng tiếng người la hét. Bạn sẽ nói rằng đó là tất cả những gì Liesel Meminger
cần để hiểu được quyển sách thứ hai mà nó lấy trộm, ngay cả khi quyển sách ấy
đã bốc khói nghi ngút trong tay nó. Ngay cả khi quyển sách ấy đã ninh chín
xương sườn nó.

Tuy nhiên, vấn
đề là ở chỗ:

Đây không phải
là lúc để nói huỵch toẹt ra như thế.

Đây không phải
là lúc để len lén trông chừng, quay đầu lại hay kiểm tra bếp lò - vì khi kẻ
trộm sách lấy trộm quyển sách thứ hai ấy, không chỉ có rất nhiều yếu tố góp
phần vào niềm khát khao được làm như vậy của con bé, mà hành động lấy cắp này
đã khởi nguồn cho một bước ngoặt then chốt của điều sẽ xảy đến sau này. Việc
này sẽ dẫn dắt con bé đến một nơi để tiếp tục ăn trộm các quyển sách khác. Nó
sẽ truyền cảm hứng cho Hans Hubermann để ông ta có kế hoạch giúp một tay đấm Do
Thái. Và nó sẽ lại cho tôi thấy rằng, một cơ hội sẽ dẫn dắt trực tiếp đến một cơ hội khác, cũng như một nguy cơ sẽ dẫn đến nhiều
nguy cơ khác, lửa sẽ dẫn đến nhiều đám lửa khác, và một cái chết sẽ dẫn đến
nhiều cái chết khác.

Theo một cách nào đó thì đây
chính là số phận.

Bạn biết không, người ta có
thể nói với bạn rằng nước Đức Quốc xã được xây dựng trên nền tảng là tư tưởng
bài Xê-mít, một nhà lãnh đạo hăng hái thái quá, và một đất nước của những niềm
tin mù quáng được nuôi dưỡng bằng thù hận, nhưng cái đất nước này sẽ không
thành ra như thế nếu người Đức không đặc biệt mê thích một hành động - ấy là
đốt cháy mọi thứ.

Người Đức rất thích đốt. Cửa
hàng, giáo đường Do Thái, nhà Quốc hội, nhà cửa, những vật dụng cá nhân, thây
người chết, và dĩ nhiên là những quyển sách. Họ rất thích đốt sách - điều này
mang đến cho những người yêu sách cơ hội chạm tay vào những quyển sách mà bình
thường họ không có. Một người có khuynh hướng này, như chúng ta đã biết, là một
đứa bé gái mảnh khảnh tên là Liesel Meminger. Có thể nó đã phải đợi bốn trăm
sáu mươi ba ngày, nhưng sự chờ đợi này là đáng giá. Vào cuối một buổi chiều có
rất nhiều nỗi phấn khích, nhiều điều xấu xa đẹp đẽ, một mắt cá chân đẫm máu, và
cái tát từ một bàn tay mà nó vô cùng tin cậy, Liesel Meminger đã viết nên câu
chuyện về thành công thứ hai của mình. Cái nhún vai. Đó là một quyển sách màu
xanh có chữ đỏ in nổi trên bìa, một bức tranh nhỏ vẽ chim cúc cu ngay bên dưới
nhan đề sách, cũng màu đỏ. Khi nhớ lại, Liesel không hề thấy xấu hổ vì đã ăn
trộm quyển sách ấy. Trái lại, cảm giác quặn lên trong dạ dày nó khi ấy giống
với sự tự hào hơn. Và chính cơn giận dữ và lòng thù hận đen tối của Liesel đã
làm bùng lên khao khát ăn trộm quyển sách. Thực ra, vào ngày 20 tháng Tư - sinh
nhật Quốc trưởng - lúc giật lấy quyển sách ấy từ bên dưới một đống tro tàn vẫn
còn nghi ngút khói, Liesel là một đứa bé gái được làm từ bóng tối.

Dĩ nhiên, câu hỏi được đặt
ra ở đây sẽ là Tại Sao?

Con bé giận dữ về chuyện gì?

Điều gì đã xảy ra trong vòng
bốn, năm tháng trước đó để cuối cùng bùng nổ thành một cảm xúc như vậy?

Nói ngắn gọn, thì câu trả
lời bắt nguồn từ phố Thiên Đàng, đến Quốc trưởng, cho đến cái vị trí không xác
định được của mẹ ruột nó, và lại quay lại từ đầu.

Như hầu hết những nỗi khốn
khổ khác, câu chuyện khởi đầu với một niềm hạnh phúc rõ ràng.

NIỀM VUI CỦA NHỮNG ĐIẾU
THUỐC LÁ

Đến cuối năm 1939, Liesel đã
hòa nhập khá tốt với cuộc sống ở Molching. Nó vẫn có những cơn ác mộng về em
trai và nhớ mẹ ruột nó vô cùng, nhưng giờ đây nó cũng có cả cảm giác thoải mái,
dễ chịu nữa.

Nó yêu bố nuôi của mình,
Hans Hubermann, và cả mẹ nuôi nó, dù bà hay bắt nó làm việc quá sức, thường
xuyên đánh đập và xỉ vả nó. Nó yêu mến và căm ghét người bạn thân nhất của nó,
Rudy Steiner, và điều này là hoàn toàn bình thường. Và nó yêu một sự thực rằng
mặc dầu nó học hành bết bát trong lớp, thì khả năng đọc và viết của nó rõ ràng
là đang được cải thiện và sẽ nhanh chóng đạt đến mức độ đáng tôn trọng, ít nhất
là tất cả những điều này đều hình thành nên một trạng thái hài lòng, và sẽ
nhanh chóng dẫn đến khái niệm Hạnh phúc.

* NHỮNG CHÌA KHÓA MỞ RA CÁNH CỬA HẠNH PHÚC *

1. Hoàn thành quyển Sách
hướng dẫn của phu đào huyệt.

2. Thoát khỏi những cơn
giận dữ của Xơ Maria.

3. Nhận được hai quyển sách
trong ngày lễ Giáng sinh.

Ngày 17 tháng Mười hai.

Con bé nhớ rất rõ ngày hôm
ấy, vì đó là đúng một tuần trước ngày lễ Giáng sinh.

Như thường lệ, cơn ác mộng
hằng đêm làm gián đoạn giấc ngủ của nó, và nó được đánh thức dậy bởi Hans
Hubermann.

Bàn tay ông nắm lấy chiếc áo
ngủ ướt đẫm mồ hôi của con bé. “Vẫn là đoàn tàu à?” ông thì thầm.

Liesel khẳng định. “Vẫn là
đoàn tàu.”

Con bé thở hổn hển cho đến
khi đã sẵn sàng, sau đó họ bắt đầu đọc từ chương Mười một của quyển Sách
hướng dẫn của phu đào huyệt
. Đến hơn ba giờ sáng, họ đọc xong, và chỉ còn
lại chương cuối cùng của quyển sách, chương “Hãy tỏ lòng tôn kính nghĩa trang”.
Bố, với cặp mắt màu bạc lồi ra vì mệt mỏi, gấp sách và mong có được phần còn
lại của giấc ngủ. Nhưng ông đã không có được nó.

Đèn chỉ vừa tắt được khoảng
một phút thì Liesel đã nói với ông trong bóng tối.

“Bố ơi?”

“Ja” (Có - tiếng Đức)

Ông chỉ ậm ừ một tiếng, âm
thanh phát ra đâu dó từ trong cổ họng.

“Bố còn thức không vậy, Bố
ơi?”

Con bé chống khuỷu tay nhổm
dậy, “Chúng ta hãy đọc nốt quyển sách được không Bố, đi mà?”

Có tiếng thở dài, tiếng bàn
tay quẹt lạo xạo trên hàm râu quai nón, và sau đó đèn lại được bật sáng. Bố mở
sách ra và bắt đầu. “Chương Mười hai: Hãy tỏ lòng tôn kính nghĩa
trang.”

Hai bố con đọc cho đến tận
lúc trời gần sáng, khoanh tròn và viết ra những từ mà con bé không hiểu, và lần
giở những trang sách cho ngày rạng dần lên. Có vài lần Bố đã gần như ngủ thiếp
đi, cố gắng kháng cự lại đôi mắt mệt mỏi ngứa ngáy và mái đầu uể oải của ông.
Lần nào Liesel cũng bắt gặp ông làm thế, nhưng con bé chưa có đủ lòng vị tha để
cho phép ông ngủ, cũng như không nhận thấy là mình đang làm khó người khác. Nó
là một đứa bé gái có cả một ngọn núi phải trèo qua.

Sau cùng, khi bóng tối bên
ngoài đã bắt đầu tan đi một chút, họ cũng đọc xong quyển sách ấy. Đoạn cuối
cùng của quyển sách có nội dung như sau:

Chúng tôi, những thành
viên thuộc Hội liên hiệp nghĩa trang Bayern, hi vọng rằng đã làm cho bạn hiểu
và thấy vui thích với công việc, cũng như những tiêu chuẩn an toàn và nghĩa vụ
của việc đào huyệt. Chúng tôi chúc bạn một sự nghiệp thành công trong nghệ
thuật tang chế, và hi vọng rằng quyển sách này có ích với bạn theo một cách nào
đó.

Khi quyển sách đã được đóng
lại, hai bố con liếc nhìn nhau qua khóe mắt. Bố lên tiếng. “Vậy là xong rồi,
phải không?”

Liesel, nửa người quấn trong
chăn, đương săm soi quyển sách bìa đen với hàng chữ bạc trên tay nó. Con bé gật
đầu, miệng khô rang và bụng quặn lên cơn đói lúc hừng đông. Đó là một trong
những khoảnh khắc của sự mệt mỏi hoàn mỹ, của việc chinh phục được không chỉ
công việc trong tay, mà là cả màn đêm đã phủ kín con đường đi.

Bố nắm tay và duỗi thẳng
người, mắt nhắm tịt. Buổi sáng hôm ấy là một ngày mà ông trời không dám đổ mưa.
Cả hai cùng đứng lên rồi đi vào bếp, và qua ô cửa sổ đọng đầy sương giá họ có
thể nhìn thấy nhiều dải ánh sáng màu hồng trên những dãy nóc nhà phủ đầy tuyết
trên phố Thiên Đàng.

“Hãy nhìn những sắc màu kia
mà xem,” Bố nói. Thật khó để không mến yêu một con người không chỉ chú ý đến
những sắc màu, mà còn nói chúng ra thành lời nữa.

Liesel vẫn ôm khư khư quyển
sách. Con bé càng ghì nó chặt hơn khi tuyết chuyển dần sang màu cam. Nó có thể
nhìn thấy một đứa bé trai nhỏ nhắn, đang ngồi trên một nóc nhà và ngắm nhìn bầu
trời. “Tên nó là Werner,” Liesel nói. Những từ ngữ như được vô tình thốt ra.

Bố đáp, “Ừ.”

Trong suốt quãng thời gian
đó ở trường, không có thêm bài kiểm tra kỹ năng đọc nào khác, nhưng vì đã dần
lấy lại được sự tự tin, một sáng nọ, con bé cầm một quyển sách giáo khoa ai đó
để quên lên và đọc thử, để xem liệu nó có thể đọc được quyển sách ấy mà không
gặp rắc rối gì không. Liesel có thể đọc được tất cả các từ, nhưng với một tốc
độ vẫn còn chậm hơn nhiều so với đám bạn cùng lớp. Liesel nhận ra rằng, gần đạt
đến một cái gì đó thì dễ hơn nhiều so với thực sự đạt được nó. Con bé vẫn cần
thêm thời gian.

Một buổi chiều nọ, nó bị cám
dỗ bởi cái ý nghĩ lấy trộm một quyển sách từ kệ sách của lớp, nhưng nói thẳng
ra thì, triển vọng của một Watschen nơi hành lang nữa bởi tay của Xơ Maria là
một rào cản đủ mạnh để ngăn nó thực hiện ý định của mình. Trên hết trong lòng
nó không có một khao khát thực sự để lấy trộm sách của trường. Rất có thể cảm
xúc mãnh liệt của thất bại hồi tháng Mười Một của con bé đã dẫn đến thái độ hờ
hững này nhưng Liesel không chắc lắm. Con bé chỉ biết rằng nó có tồn tại.

Trong lớp, nó không nói
chuyện với ai.

Nó cũng không mắc phải nhiều
rắc rối như trước nữa.

Khi mùa đông đến, Liesel
không còn là nạn nhân của những cơn giận của Xơ Maria nữa, con bé thích thú
nhìn những đứa khác nối đuôi nhau ra ngoài hành lang và được ban thưởng phần
quà của chúng. Âm thanh vọng vào của một đứa học sinh khác đang vật vã khổ sở ở
hành lang không phải là điều gì đó đặc biệt đáng vui thích, nhưng cái thực tế
rằng đó là một đứa khác thì, nếu không muốn nói là một cảm
giác thoải mái thực sự cũng là một điều làm nó thư giãn.

Khi trường lớp bị gián đoạn
trong một thời gian ngắn để nghỉ lễ Weihnachten (Tức lễ Giáng sinh - tiếng
Đức), Liesel thậm chí còn nói được với Xơ Maria một câu “Chúc Giáng sinh an
lành” trước khi về nhà. Vì nó nhận thức được rằng về cơ bản là nhà Hubermann đã
phá sản, họ vẫn còn đang phải trả nợ và trả tiền thuê nhà nhanh hơn số tiền họ
có thể kiếm được, nên Liesel không mong được nhận một món quà dưới bất cứ hình
thức nào cả. Họa may là chút thức ăn ngon lành hơn thôi. Trước sự ngạc nhiên
của nó, vào đêm Giáng sinh sau khi ngồi trong nhà thờ vào lúc nửa đêm với Mẹ,
Bố, Hans Con và Trudy, nó về nhà và thấy có cái gì đó được gói trong giấy báo,
đặt dưới chân cây thông Noel.

“Từ Thánh Niklaus đấy,” Bố
nói, nhưng con bé không bị lừa.

Nó ôm chầm lấy cả bố và mẹ
nuôi nó, tuyết vẫn còn vương trên vai áo.

Nó mở lớp giấy báo và lôi ra
hai quyển sách - Quyển đầu tiên, Chú chó Faust, được viết bởi một
người tên là Mattheus Otleberg. Con bé sẽ đọc quyển sách ấy cả thảy mười ba
lần. Vào đêm Giáng sinh, Liesel đọc hai mươi trang đầu tiên ở bàn ăn đặt trong
bếp, trong lúc Bố và Hans Con cãi nhau về điều gì đó mà con bé không hiểu. Điều
gì đó có tên gọi là chính trị.

Sau đó, hai bố con đọc sách
trên giường, tiếp tục cái công việc đã thành thông lệ là khoanh tròn những từ
Liesel không hiểu và viết chúng ra. Chú chó Faust cũng có
những bức tranh minh họa - những đường cong và đôi tai đáng yêu, và mấy bức
biếm họa vẽ một con béc-giê Đức biết nói, mắc chứng chảy nước dãi dơ hầy.

Quyển sách thứ hai có nhan
đề Ngọn hải đăng và được viết bởi một người phụ nữ, tên là
Ingrid Rippinstein. Quyển sách này hơi dài hơn quyển kia một chút, nên Liesel
chỉ đọc nó được tổng cộng có chín lần, tốc độ đọc của con bé tăng lên rất chậm
vào cuối những lần đọc nhiều như vậy.

Vài ngày trước Giáng sinh,
con bé hỏi bố nuôi nó một câu hỏi về những quyển sách. Khi ấy cả nhà đang ăn
tối trong bếp. Nhìn thìa đầy súp đậu đang tiến vào mồm của Mẹ, con bé quyết
định chuyển hướng quan tâm của mình sang Bố. “Có một chuyện mà con thấy cần
phải hỏi.”

Ban đầu, chẳng có câu nào
đáp lại lời nó cả.

“Gì?”

Đó là Mẹ, mồm bà vẫn lúng
búng đầy súp.

“Con chỉ muốn biết làm sao
mà bố mẹ có tiền để mua những quyển sách ấy cho con.”

Bố khẽ bật cười, mồm vẫn
ngậm cái thìa. “Con thật sự muốn biết à?”

“Dĩ nhiên rồi.”

Từ trong túi mình, Bố lấy phần lá thuốc còn lại ra và bắt đầu vê một điếu,
đến lúc đó thì Liesel trở nên mất kiên nhẫn.

“Bố có chịu nói con nghe không đấy?”

Bố cười phá lên. “Nhưng bố đang nói con nghe đấy thôi,
nhóc con.” Ông hoàn tất quá trình tạo ra điếu thuốc, ném nó lên mặt bàn, rồi
lại bắt đầu vê một điếu khác. “Như thế này đây”. Đó là lúc mà Mẹ kết thúc món
súp của mình bằng một tiếng ợ đanh gọn và trả lời thay ông. “Cái đồ lợn
ấy,”
bà nói. “Mày có biết lão đã làm gì không? Lão vấn ra một đống
thuốc lá hôi hám như thế, rồi ra phiên chợ đang họp trên phố và bán chúng cho
mấy thằng ma cà bông.”

“Tám điếu thuốc dổi lấy một quyển sách.” Bố nhét một điếu thuốc vào miệng
trong niềm hân hoan. Ông đốt nó lên và đắm chìm trong làn khói. “Hãy cảm ơn
Thượng đố vì những điếu thuốc này đi chứ, mẹ nó?”

Mẹ chỉ đưa mắt nhìn ông, cái nhìn kinh tởm đặc trưng, tiếp theo là từ được
sử dụng nhiều nhất trong vốn từ vựng của bà “Đồ lợn”.

Liesel len lén nháy mắt với Bố và ăn nốt chỗ súp còn lại của mình. Như
thường lệ, một trong những quyển sách của con bé đang ở bên cạnh nó. Nó không
thể chối bỏ rằng nó cảm thấy còn hơn cả hài lòng trước câu trả lời này. Không
có nhiều người trên đời này có thể nói rằng nền giáo dục mà họ có được chi trả
là nhờ thuốc lá.

Mặt khác, Mẹ nói rằng nếu Hans Hubermann có tí đầu óc nào, thì ông ta sẽ
đổi chúng để lấy một cái váy mới mà bà đang rất cần, hay vài đôi giày khả dĩ
hơn một chút. “Nhưng không...” Bà bỏ lửng câu nói khi đứng chỗ bồn rửa. “Để mua
thứ gì đó cho tôi thì ông thà hút hết chỗ thuốc ấy còn hơn, có phải không? Hút
luôn cả thuốc của nhà hàng xóm nữa.”

Dù vậy, vài ngày sau đó, Hans Hubermann về nhà với một hộp trứng trên tay.
“Xin lỗi Mẹ nó nhé.” Ông đặt cái hộp lên bàn và nói. “Họ hết giày mất rồi.”

Mẹ không than phiền gì cả.

Thậm chí bà còn ngân nga hát một mình khi nấu món trứng đó, cho đến khi
chúng gần như cháy khét. Dường như có một niềm vui to lớn trong những điếu
thuốc lá, và đó là một quãng thời gian hạnh phúc trong gia đình Hubermann.

Niêm hạnh phúc này chấm dứt vài tuần sau đó.

NGƯỜI ĐI TRÊN PHỐ

Nỗi bất hạnh bắt đầu với đám đồ giặt ủi, và ngày càng trở nên tồi tệ hơn
một cách nhanh chóng.

Khi Liesel cùng Rosa Hubermann đi giao đồ giặt ủi quanh Molching, một trong
những khách hàng của bà, Ernst Vogel, báo cho họ biết rằng ông ta không thể
tiếp tục chi trả cho việc giặt ủi quần áo được nữa. “Tình hình là vậy,” ông ta
nói như để thanh minh, “tôi có thể nói gì bây giờ? Hoàn canh ngày càng phức
tạp. Cuộc chiến tranh khiến mọi việc trở nên khó khăn hơn.” Ông nhìn con bé.
“Tôi tin là bà nhận được một khoản trợ cấp cho việc giữ con bé này trong nhà,
phải thế không?”

Trước sự bàng hoàng của Liesel, Mẹ không nói được câu nào.

Bên cạnh bà là một cái túi rỗng không.

Đi thôi, Liesel.

Điều này không phải được nói ra thành tiếng. Nó là một cú kéo mạnh bởi một
bàn tay thô kệch.

Vogel gọi với theo từ bậc tam cấp cửa nhà ông ta. Ông cao chừng một thước
tám và mái tóc bết bền bệt của ông lòa xòa trước trán một cách hời hợt không
sức sống. “Tôi xin lỗi, bà Hubermann!”

Liesel vẫy tay chào ông ta.

Ông vẫy tay chào lại.

Mẹ quở nó.

“Đừng có chào cái lỗ
đít
ấy,” bà nói. “Giờ thì nhanh chân lên.”

Đêm hôm đó, khi Liesel tắm,
Mẹ kỳ cọ cho nó rất mạnh tay, luôn miệng lầm bầm về cái đồ lợn Vogel nọ, và
nhại lại lời ông ta nói cứ mỗi hai phút một lần. “Tôi tin là bà nhận được một
khoản trợ cấp cho việc giữ con bé...” Bà vừa kỳ cọ cho Liesel, vừa mắng nhiếc
cái ngực trần trụi của nó. “Mày không đáng giá nhiều chừng ấy đâu, đồ con lợn.
Mày không làm tao giàu lên tí nào đâu, biết chưa hả.”

Liesel ngồi chết lặng ở đó,
nhận hết những câu nói của bà mẹ nuôi.

Chưa đầy một tuần sau sự
kiện đặc biệt ấy, Rosa kéo nó vào bếp. “Được
rồi, Liesel.” Bà bắt nó ngồi xuống chỗ bàn. “Vì mày dành phân nửa thời gian của
mày để chơi đá bóng ngoài đường, thì mày có thể có ích hơn ngoài đó. Để thay
đổi.”

Liesel nhìn chằm chằm vào
đôi bàn tay mình. “Có chuyện gì vậy, Mẹ?”

“Từ giờ trở đi mày sẽ đi
giao và nhận đồ giặt ủi cho tao. Những kẻ giàu có ấy sẽ ít cắt việc chúng ta
hơn nếu mày là người đứng trước mặt bọn chúng nó. Nếu chúng hỏi mày là tao đâu
rồi, hãy bảo chúng nó là tao bị ốm. Và hãy tỏ ra buồn rầu khi mày nói với chúng
nó như thế. Mày đủ ốm yếu xanh xao để có được sự thương cảm của bọn chúng nó.”

“Nhưng ông Vogel đâu có
thương hại con.”

“À..” Bà lộ rõ vẻ bối rối.
“Những người khác sẽ làm như thế. Vậy nên đừng có cãi lời tao.”

“Vâng thưa Mẹ.”

Trong một khoảnh khắc, có vẻ
như mẹ nuôi nó sẽ an ủi nó, hay vỗ vào vai nó.

Nhưng bà ấy không làm những
điều như vậy.

Thay vào đó, Rosa đứng dậy, chọn lấy một cái thìa gô và dứ dứ nó dưới
mũi Liesel. Theo bà thì điều này là cần thiết. Khi mày đi làm cái công việc
này, mày phải mang đồ đến từng nơi một và mang đồ thẳng về nhà, cùng với tiền,
ngay cả khi món tiền đó gần như chẳng đáng gì cả. Không được phép ghé chỗ Bố
nếu thằng cha ấy có thực sự làm việc lấy một lần trong đời. Không được lêu lổng
với thằng lợn Rudy Steiner ấy. Đi thẳng về nhà.”

“Vâng thưa Mẹ.”

“Và khi mày cầm túi đồ, mày
phải cầm nó đúng cách. Mày không được vung vẩy nó, đánh rơi nó, làm nhàu nó hay
khoác nó qua vai.”

“Vâng thưa Mẹ.”

“Vâng, thưa Mẹ.” Rosa
Hubermann là một người nhại tiếng bậc thầy, và là một người rất tha thiết với
việc này. “Đồ con lợn, tốt hơn là mày đừng có làm thế. Tao sẽ phát hiện
ra ngay nếu mày làm thế, mày biết như vậy mà phải không?”

“Vâng thưa Mẹ.”

Nói ba từ này, cũng như làm
theo những gì mà nó được bảo phải làm, thường là cách tốt nhất để sống sót, và
kể từ hôm đó, Liesel đi trên những con phố của Molching, từ đầu phố - nơi những
người nghèo khổ sống, cho đến nơi những người giàu có hơn, nhận và giao đồ giặt
ủi. Ban đầu thì đây là một công việc đơn độc, điều mà nó chưa bao giờ phàn nàn
gì cả. Rốt cuộc thì, ngay lần đầu tiên nó mang cái bao đồ đi qua phố, nó đã rẽ
sang phố Munich, nhìn trước ngó sau, rồi con bé vung túi đồ một phát thật mạnh,
thật tít - một cuộc cách mạng triệt để - rồi sau đó nó bèn kiểm tra đám đồ đạc
chứa bên trong. May sao, không có chỗ nhàu nào cả. Không có vết nhăn nhúm nào
cả. Chỉ có một nụ cười, và lời hứa sẽ không bao giờ vung vẩy túi lần nữa.

Nói chung, Liesel thích công
việc này. Nó không được chia tiền, nhưng nó được ra khỏi nhà, và bản thân việc
đi trên những con phố mà không có Mẹ bên cạnh đã là một điều mang lại cảm giác
lâng lâng như trên thiên đàng rồi. Không ai chỉ ngón tay vào mặt nó hay rủa xả
nó. Không ai nhìn chằm chằm vào hai mẹ con, khi Mẹ mắng mỏ nó vì đã cầm túi sai
quy cách. Không gì hết ngoài sự thanh thản.

Con bé cũng bắt đầu thích
thú với những người mà nó gặp:

- Nhà Plaffehurvers luôn
kiểm tra thật kỹ quần áo và nói, “Ja, ja, sehr gut, sehr gutr.”(13)
Liesel hình dung rằng bất cứ việc gì họ cũng phải làm đến hai lần.

[13]: Được rồi, được rồi, tốt lắm, tốt lắm. (tiếng
Đức)

- Helena Schmidt dịu dàng,
đưa tiền với một cái tay cong queo vì chứng viêm khớp.

- Nhà Weigartners, chủ của
con mèo hay rụng lông luôn ra mở cửa cùng họ. Goebbels bé nhỏ, đó là cái tên mà
họ đặt cho con mèo - theo tên nhân vật được xem là cánh tay mặt của Hitler.

- Và bà Hermann, vợ của ngài
Thị trưởng, bà đứng đó với mái tóc thưa như tơ và chết cóng trên bậc cửa lạnh
buốt nhà mình. Luôn im lặng. Luôn chỉ có một mình. Không một từ nào, dù chỉ một
lần.

Đôi lúc, Rudy đi cùng với
nó.

“Cậu có bao nhiêu tiền đằng
đó vậy?” thằng bé hỏi Liesel một buổi chiều nọ. Khi ấy trời đã nhập nhoạng tối
và hai đứa đang đi trên phố Thiên Đàng, đoạn vừa qua khỏi cửa hiệu tạp hóa.
“Cậu đã nghe người ta nói về mụ Diller rồi phải không? Người ta nói mụ có giấu
kẹo que ở đâu đó, và giá rất phải chăng...”

“Đừng có mơ tới chuyện đó.”
Liesel, như thường lệ, đang nắm chặt lấy mớ tiền của nó. “Với cậu thì mọi
chuyện không đến nỗi tồi tệ lắm đâu - cậu đâu có phải đối mặt với mẹ tớ.”

Rudy nhún vai. “Cũng đáng để
thử lắm chứ.”

Vào giữa tháng Giêng, bài
tập ở trường chuyển hướng chú ý của nó sang môn viết chữ. Sau khi học những
điều căn bản, mỗi học sinh sẽ phải viết hai lá thư, một lá gửi cho một người
bạn và một lá gửi cho ai đó học lớp khác.

Thư của Rudy gửi cho Liesel
như sau:

Gửi đồ con lợn

Cậu vẫn vô dụng trong môn
bóng đá như lần trước chúng ta chơi cùng nhau chứ? Tớ hi vọng là thế. Điều đó
có nghĩa là tớ có thể chạy vượt qua cậu lần nữa như Jesse Owens ở kỳ Thế vận
hội...

Khi Xơ Maria phát hiện ra lá
thư này, bà ta hỏi thằng bé một câu, rất hòa nhã.

Báo cáo nội dung xấu