Kẻ trộm sách - Phần IV - Chương 4

NGƯỜI NGỦ

Max Vandenburg ngủ li bì
suốt ba ngày.

Trong khi anh ngủ, Liesel
quan sát anh. Bạn có thể nói rằng, đến ngày thứ ba thì việc này đã trở thành
một nỗi ám ảnh với con bé. Nó kiểm tra anh, để xem liệu anh có còn thở hay
không. Giờ đây con bé đã có thể thấy được những dấu hiệu của sự sống nơi con
người này, từ những cử động của đôi môi, hàm râu đang rậm dần, cho đến những
món tóc động đậy rất nhẹ khi đầu anh ngọ nguậy trong cơn ngủ mơ.

Thường thì, khi con bé đứng
đó và nhìn anh, nó có một suy nghĩ dằn vặt trong đầu đến khổ sở, ấy là hình như
anh vừa mới tỉnh dậy, đôi mắt của anh đã mở hé ra để nhìn nó - để quan sát nó
đang quan sát anh. Cái suy nghĩ bị bắt quả tang vừa làm con bé thấy khó chịu
vừa khiến nó thấy khoan khoái thế nào đó. Con bé sợ điều này. Chỉ khi Mẹ cất
tiếng gọi thì nó mới có thể bỏ đi, với một cảm giác vừa dễ chịu vừa thất vọng
khi nghĩ rằng có thể nó sẽ không có mặt ở đó khi người đàn ông này tỉnh dậy.

Đôi khi, vào lúc gần về cuối
cái giấc ngủ như một cuộc chạy đường dài ấy, anh cất tiếng nói.

Có những cái tên được lầm
bầm thành tiếng. Một danh sách.

Isaac. Dì Ruth. Sarh. Mẹ.
Walter. Hitler.

Gia đình, bè bạn, kẻ thù.

Tất cả đều đang ở bên dưới
tấm đắp cùng với anh, và có lúc dường như anh đang phải vật lộn với chính mình.“Nein,” anh
thì thầm. Từ này được lặp lại cả thảy bảy lần.“Không.”

Liesel, trong khi đang quan
sát, đã kịp nhận thấy những điểm tương đồng giữa người lạ này và nó. Cả hai đều
đang trong một tình trạng bối rối lo âu khi sống ở phố Thiên Đàng. Cả hai đều
có những cơn ác mộng.

Cuối cùng, anh thức dậy với
một cơn rúng động khủng khiếp của sự mất định hướng. Mồm anh há hốc ra chỉ một
giây sau khi mắt anh mở, rồi anh ngồi bật dậy, người gập lại thành một góc
vuông.

“Ối!”

Một giọng nói thoát ra khỏi
miệng anh.

Khi anh nhìn thấy khuôn mặt
của đứa bé gái đang xoay ngược lại phía trên mình, đã có một khoảnh khắc bực
bội của sự không quen thuộc và cái ôm ghì lấy để cố nhớ lại - để giải mã chính
xác xem anh đang ngồi ở đâu và khi nào. Sau vài giây, anh cũng gãi được đầu
mình (hành động này phát ra tiếng sột soạt như khi bạn nhóm một đống lửa), rồi
anh nhìn con bé. Những cử động của anh rất rời rạc, và một khi đã mở ra, thì
đôi mắt anh đặc quánh lại như một vũng lầy và có màu nâu. Một màu nâu dày đặc
và nặng nề.

Như một hành động phản xạ,
Liesel lùi lại.

Nhưng con bé đã quá chậm.

Người lạ mặt vươn tay ra,
cái bàn tay ấm nóng hơi chăn gối của anh nắm vào cẳng tay nó.

“Xin hãy làm ơn.”

Giọng nói của anh cũng bám
chặt lấy con bé, như những cái móng tay đầy chiếm đoạt. Anh ấn chúng vào da
thịt con bé.

“Bố ơi!” Con bé gọi lớn.

“Xin hãy làm ơn!” Max nói
thật khẽ.

Lúc đó đã là chiều muộn, xám
xịt và mờ ảo, nhưng chỉ ánh sáng có màu bẩn thỉu mới được phép ùa vào căn
phòng. Đó là tất cả những gì mà vải của những tấm màn cho phép lọt qua.

Nếu bạn là người lạc quan,
hãy cứ cho là nó có màu đồng đi.

Khi Bố bước vào, ban đầu ông
đứng ở chỗ ngưỡng cửa và nhìn những ngón tay của Max Vandenburg và khuôn mặt
tuyệt vọng của anh. Cả hai đều bám chặt lấy cánh tay của Liesel. “Ta thấy là
hai người đã gặp nhau rồi,” ông nói.

Những ngón tay của Max bắt
đầu lạnh dần.

TRAO ĐỔI NHỮNG CƠN Ác
MỘNG

Max Vandenburg hứa rằng anh
sẽ không bao giờ ngủ trong phòng của Liesel nữa. Anh đã nghĩ gì trong đầu vào
cái đêm đầu tiên ấy? Thậm chí chỉ nghĩ về điều đó thôi cũng làm cho anh thấy
hết sức dằn vặt.

Anh giải thích rằng mình đã
quá hoang mang khi đến nơi cho nên mới để một việc như vậy xảy ra. Căn hầm là
nơi duy nhất dành cho anh mà anh có thể nghĩ đến. Hãy quên sự lạnh lẽo và cô
độc đi. Anh là một người Do Thái, và nếu trên đời này có một nơi mà số phận đã
xếp đặt sẵn cho anh tồn tại, thì đó chính là căn hầm hay bất cứ cái nơi ẩn náu
nào tương tự như thế để giúp anh sống sót.

“Cháu xin lỗi,” anh thú tội
với Hans và Rosa trên những bậc cấp dẫn xuống
căn hầm. “Từ giờ trở đi cháu sẽ ở dưới này. Hai người sẽ không nghe thấy cháu
đâu. Cháu sẽ không gây ra một tiếng động nào cả.”

Hans và Rosa,
cả hai đều đã bước vào nỗi tuyệt vọng của tình huống khó khăn này, nên họ không
có ý kiến gì khác, thậm chí cũng không có ý kiến gì về cái lạnh dưới tầng hầm.
Họ trải tấm mền xuống và treo ngọn đèn dầu lên. Rosa thừa nhận rằng sẽ không có
dư dả thức ăn, và Max đã đáp lại một cách nhiệt thành rằng bà chỉ cần mang
xuống những thứ cơm thừa canh cặn, và chỉ khi không có ai muốn ăn chúng nữa mà
thôi.

“Na na,” Rosa trấn an
anh. “Cháu sẽ được cho ăn, trong khả năng của bác.”

Họ cũng mang tấm đệm từ
chiếc giường trống trong phòng của Liesel xuống, để thay thế cho những tấm che
bụi - một sự trao đổi tuyệt vời.

Dưới hầm, Hans và Max đặt
tấm đệm bên dưới gầm cầu thang và dựng một bức tường chắn bằng những tấm che
bụi ở bên cạnh. Những tấm chăn này đủ cao để che toàn bộ lối vào hình tam giác,
và bên cạnh đó thì chúng rất dễ di chuyển nếu Max rất cần có thêm không khí.

Bố xin lỗi. “Trông nó thật
là thảm hại, bác biết điều đó.”

“Còn hơn là không có gì,”
Max cố làm ông yên lòng. “Tốt hơn nhiều so với những gì cháu đáng được nhận rồi
- cảm ơn bác.”

Với vài thùng sơn được đặt
đúng vị trí, Hans thừa nhận rằng trông cái hốc ấy chỉ như một đống đồ linh tinh
được đặt cùng nhau một cách luộm thuộm vụng về nơi góc hầm, để khỏi vướng lối
đi. Chỉ có một vấn đề, ấy là người ta chỉ cần dẹp vài cái thùng sơn và dỡ mấy
tấm phủ che bụi ra là có thể ngửi thấy mùi của một tên Do Thái.

“Chúng ta hãy hi vọng là thế
này đã đủ tốt cho cháu rồi,” ông nói.

“Buộc phải vậy thôi.” Max bò
vào trong. Một lần nữa, anh lại nói câu ấy. “Cảm ơn bác.”

Cảm ơn.

Với Max Vandenburg, đó là
hai từ đáng thương nhất mà anh có thể nói ra, và hai từ ấy chỉ có thể được cạnh
tranh quyết liệt bởi câu cháu rất tiếc. Có một thôi thúc trường
trực trong anh, bắt anh phải nói cả hai câu cảm thán này ra, và chúng được bắt
nguồn từ nỗi cắn rứt.

Không biết đã bao nhiêu lần
trong những giờ đồng hồ tỉnh táo đầu tiên ấy anh muốn bước ra khỏi căn hầm rồi
rời căn nhà đó mà ra đi luôn? Hẳn phải đến hàng trăm lần.

Tuy nhiên mỗi lần như thế,
thì ý muốn ra đi ấy trong anh chỉ như một cơn đau nhói lên mà thôi.

Và điều này càng khiến anh
thấy tồi tệ hơn nữa.

Anh muốn đi ra ngoài - Lạy
Chúa, anh mới muốn đi ra ngoài làm sao (hay ít nhất là anh đã từng muốn
mình sẽ đi ra ngoài) - nhưng anh biết rằng mình sẽ không làm thế. Đó cũng chính
là cái cách mà anh đã bỏ lại gia đình mình đằng sau ở Stuttgart dưới tấm màn che được dệt bằng lòng
trung thành giả tạo.

Để mà sống.

Sống là sống.

Cái giá phải trả là cảm giác
tội lỗi, và sự xấu hổ.

Trong những ngày đầu tiên
Max sống dưới tầng hầm, Liesel không có việc gì dính líu đến anh cả. Con bé phủ
nhận sự tồn tại của anh. Mái tóc phất phơ phát ra tiếng kêu loạt xoạt của anh,
những ngón tay lạnh ngắt, trơn tuột của anh.

Sự hiện diện như tra tấn của
anh trong nhà.

Mẹ và Bố.

Giữa họ có một vẻ nghiêm
trang khó tả, và rất nhiều quyết định bất thành.

Họ đã nghĩ đến việc chuyển
anh đi chỗ khác.

“Nhưng chuyển đi đâu cơ
chứ?”

Không có câu trả lời.

Trong hoàn cảnh này, họ
chẳng có bạn bè nào để được giúp đỡ cả, và như bị tê liệt. Không còn chốn nào
Max Vandenburg có thể dung thân được nữa. Chỉ có họ. Hans và Rosa Hubermann.
Liesel chưa từng thấy họ nhìn nhau nhiều như vậy, hay nhìn nhau với một sự
nghiêm trọng đến như vậy.

Họ là người đã mang thức ăn
xuống và bố trí một thùng đựng sơn cũ cho Max tiêu tiểu vào đấy. Những thứ chứa
trong thùng đó sẽ được Hans đem vứt đi một cách cẩn thận hết mức có thể, trong
lòng ông vẫn nhen nhúm chút hi vọng là ông sẽ nhận được thuê làm thợ sơn thêm
vài lần nữa. Rosa cũng mang xuống cho anh vài
xô nước nóng để cọ rửa thân thể. Người Do Thái này đã hôi thối lắm rồi.

Bên ngoài, một dãy núi được
hình thành từ bầu không khí lạnh lẽo của tháng Mười một luôn chực chờ trước cửa
mỗi lần Liesel ra khỏi nhà.

Những cơn mưa phùn cứ đổ
xuống từng chặp.

Những xác lá khô rụng đầy
đường.

Không lâu sau, đã đến lượt
kẻ trộm sách phải xuống tầng hầm. Họ đã buộc con bé phải làm thế.

Nó bước một cách ngập ngừng
xuống những bậc cấp, biết rằng nó không cần phải nói lời nào cả. Tiếng chân nó
bước loẹt quẹt cũng đủ để làm anh thức dậy rồi.

Giữa căn hầm, con bé đứng đó
và chờ đợi, cảm thấy mình như đang đứng giữa một cánh đồng tối om mênh mông bát
ngát. Mặt trời trên cánh đồng ấy như đang lặn sau một cụm lúa đã gặt.

Khi Max bò ra ngoài, trên
tay anh đang cầm quyển Mein Kampf. Lúc mới đến đây, anh đã đưa trả cuốn sách
lại cho Hans Hubermann, nhưng ông bảo anh có thể giữ nó.

Dĩ nhiên là Liesel, khi đang
bưng bữa tối của anh trong tay, không thể rời mắt khỏi quyển sách đó. Đó là một
quyển sách mà con bé đã trông thấy vài lần ở chỗ BDM, nhưng những hoạt động của
chúng ở đó không bao gồm việc đọc hay sử dụng trực tiếp đến quyển sách này.
Thỉnh thoảng người ta lại nhắc đến sự vĩ đại của nó, cũng như những lời hứa hẹn
rằng chúng sẽ có cơ hội được nghiên cứu quyển sách ấy trong những năm sau này,
khi chúng được chuyển sang một bộ phận Hitler cấp độ cao hơn.

Max, khi nhận thấy sự chú ý
của con bé, cũng xem xét quyển sách.

“Có không?” Con bé thì thầm.

Có một cái gì đó rất lạ
trong giọng nói của nó, hoàn toàn ngoài dự kiến và đang loăn xoăn trong miệng
nó.

Người Do Thái ghé đầu mình
lại gần hơn chút nữa.“Bitte? Sao cơ?”

Nó đưa cho anh ta món súp
đậu và quay ngược lên tầng trên, mặt đỏ bừng vì xấu hổ và thấy mình thật ngốc
nghếch.

“Đó có phải là một quyển
sách hay không?”

Con bé luyện tập điều mình
muốn nói trong phòng vệ sinh, trước tấm gương nhỏ. Mùi nước đái vẫn vướng vất
xung quanh nó, vì Max vừa mới dùng đến cái thùng sơn trước khi con bé đi
xuống. So ein G’stank, con bé nghĩ thầm. Thật là một cái mùi kinh
khủng.

Không nước đái của ai có mùi
dễ ngửi như chính nước đái của bạn cả.

Ngày tháng tập tễnh trôi
qua.

Mỗi buổi tối, trước khi chìm
vào trong giấc ngủ, con bé lại nghe thấy giọng nói của Mẹ và Bố trong gian bếp,
bàn bạc xem điều gì đã được thực hiện, họ đang làm gì, và điều gì sẽ phải xảy
ra tiếp theo. Lúc nào cũng vậy, hình ảnh Max lại trôi lơ lửng bên cạnh nó. Luôn
là cái vẻ mặt tổn thương, đầy biết ơn của anh, và cặp mắt tối om như đầm lầy
của anh.

Chỉ duy nhất một lần, có một
tiếng nói lớn trong gian bếp.

Đó là Bố.

“Tôi biết!”

Giọng của ông nghe thật dữ dằn, nhưng ông đã kịp khiến nó quay trở về thành
một tiếng thì thầm nghẹt lại trong cổ họng một cách vội vã.

“Dù vậy thì tôi vẫn phải tiếp tục, ít nhất là vài lần một tuần. Tôi không
thể ở đây suốt được. Chúng ta cần tiền, và nếu tôi không chơi đàn ở đó nữa thì
bọn họ sẽ đâm ra nghi ngờ. Họ sẽ thắc mắc rằng tại sao tôi lại nghỉ. Tuần trước
tôi đã bảo họ là bị ốm, nhưng giờ thì chúng ta phải làm mọi việc mà chúng ta
vẫn làm.”

Đó mới là vấn đề.

Cuộc sống đã thay đổi theo chiều hướng khó ngờ nhất nhưng họ buộc phải làm
như thể chẳng có gì đã xảy ra.

Hãy tưởng tượng ra việc bạn phải nở một nụ cười sau khi bị tát vào mặt. Sau
đó hãy nghĩ đến việc bạn phải làm như thế hai mươi bốn giờ một ngày.

Đó chính là sự bận bịu mà việc che giấu một người Do Thái mang lại.

Khi những ngày chuyển sang tuần, thì giờ đây đã có một sự chấp nhận hoàn
toàn điều đã xảy ra - tất cả hậu quả của chiến tranh, một người giữ lời hứa và
một cây đàn xếp. Bên cạnh đó, chỉ trong vòng hơn nửa năm, gia đình Hubermann đã
mất đi một đứa con trai và thu về một nỗi nguy hiểm có thế viết thành sử thi
được.

Điều làm Liesel bàng hoàng nhất là thay đổi nơi mẹ nó. Dù đó là cách bà
chia thức ăn một cách đầy cân nhắc, hay sự im lặng đáng chú ý của cái mồm khét
tiếng, hay thậm chí cả vẻ dịu dàng trên gương mặt nhàu nhĩ như giấy các-tông
của bà, thì có một điều đang ngày càng trở nên rõ ràng.

* MỘT ĐẶC TÍNH CỦA ROSA HUBERMANN *

Bà ta là một người phụ nữ
đáng nể khi gặp khủng hoảng.

Ngay cả khi bà Helena
Schmidt bị viêm khớp không tiếp tục thuê bà giặt là quần áo nữa, một tháng sau
khi Max xuất hiện lần đầu tiên ở phố Thiên Đàng, thì bà chỉ ngồi xuống bàn và
kéo cái tô về phía mình. “Món súp tối nay ngon lắm đây.”

Món súp ấy thật là kinh
khủng.

Mỗi sáng khi Liesel đến
trường, hay trong những ngày nó liều lĩnh chuồn ra ngoài để chơi bóng đá, hay
hoàn thành quãng đường giao và nhận đồ giặt ủi còn lại, bà thường khẽ nói với
con bé. “Và hãy nhớ đấy, Liesel...” Bà sẽ chỉ tay vào miệng và chỉ có vậy mà
thôi. Khi Liesel gật đầu ra ý đã hiểu, bà sẽ nói, “Ngoan lắm, Đồ con
lợn
. Giờ thì đi đi.”

Đúng như những lời mà Bố đã
nói, và bây giờ là lời của Mẹ, thì con bé là một đứa bé ngoan. Nó luôn ngậm
miệng im lặng bất kể nó đi đến đâu. Bí mật của gia đình nó được chôn giấu rất
kỹ.

Con bé đi trên phố với Rudy
như thường lệ, lắng nghe những lời huyên thuyên của thằng này. Đôi khi chúng so
sánh với nhau những gì người ta bắt chúng ghi chép ở đơn vị Thiếu niên Hitler
của mình, và lần đầu tiên Rudy nhắc đến một gã thủ lĩnh trẻ rất ác tên là Franz
Deutscher. Nếu Rudy không nói về sự khắc nghiệt của cái gã Deutscher ấy, thì nó
cũng bật lại cái cuốn băng ghi âm hỏng nát thường lệ, thao thao bất tuyệt về
bàn thắng gần đây nhất mà nó ghi được trên sân vận động bóng đá phố Thiên Đàng.

“Tớ biết rồi,” Liesel quả quyết. “Tớ đã ở đó mà.”

“Thế thì sao?”

“Thế có nghĩa là tớ đã thấy
cảnh đó rồi, đồ con lợn.”

“Làm sao mà tớ biết được
chuyện ấy cơ chứ? Vì tất cả những gì tớ biết là có thể cậu đang nằm đâu đó trên
mặt đất, liếm láp đống bùn mà tớ để lại đằng sau khi tớ ghi bàn.”

Có thể chính Rudy là người
đã giữ cho con bé tỉnh táo, bằng sự ngu ngốc trong cách nói chuyện của thằng
bé, mái tóc như được nhuộm màu vàng chanh và cái tính tự phụ của nó.

Dường như thằng nhóc này
luôn cộng hưởng với một suy nghĩ đầy tự tin rằng cuộc sống vẫn chẳng là gì khác
ngoài một trò đùa - một chuỗi thành công bất tận được cấu thành từ những bàn
thắng, những trò lừa bịp và những tiết mục tán gẫu vô nghĩa.

Bên cạnh đó, con bé vẫn còn
có vợ của ngài thị trưởng, và những buổi đọc sách trong thư viện của chồng bà.
Giờ thì trong đó rất lạnh, và mỗi lần con bé ghé thăm, căn phòng ấy lại càng
lạnh hơn, nhưng Liesel vẫn không thể tránh xa nơi đó được. Nó thường chọn một
chồng sách và đọc mỗi cuốn vài đoạn ngắn, cho đến một buổi chiều nọ, con bé tìm
thấy một quyển sách mà nó không thể đặt xuống được. Quyển sách ấy có tên
Người huýt sáo. Ban đầu con bé bị thu hút bởi quyển sách này vì
thỉnh thoảng nó vẫn trông thấy một người huýt sáo trên phố Thiên Đàng -
Pfifiikus. Nó luôn nhớ ra hình ảnh con người ấy cúi gập xuống trong áo khoác
của lão, và sự xuất hiện của lão tại đống lửa được đốt lên vào ngày sinh nhật
của Quốc trưởng.

Sự kiện đầu tiên xảy ra
trong quyển sách là một vụ giết người. Bằng dao. Trên một con đường ở Vienna. Không xa
Stephansdom lắm.

* MỘT ĐOẠN TRÍCH NHỎ *

TỪ QUYỂN SÁCH NGƯỜI HUÝT SÁO

Cô nằm đó, sợ hãi, trong
một bể máu, một giai điệu lạ lẫm vang lên trong tai cô. Cô nhớ lại con dao,
trong và ngoài, và một nụ cười. Như thường lệ, người huýt sáo đã mỉm cười trước
khi hắn chạy mất, vào màn đêm tăm tối đầy chết chóc.

Liesel không chắc là những
từ ngữ của quyển sách hay là cánh cửa sổ mở đã làm con bé run rẩy. Mỗi lần nó
đến giao hay nhận đồ giặt ủi ở nhà ngài thị trưởng, con bé lại đọc ba trang
sách và lạnh run lẩy bẩy, nhưng nó không thể chịu đựng mãi được.

Tương tự như vậy, Max
Vandenburg không thể chịu đựng căn hầm thêm được nữa. Anh không hề phàn nàn -
anh không có quyền - nhưng anh có thể cảm thấy mình đang chết một cách chậm
chạp trong căn hầm buốt giá ấy. Như bạn sẽ thấy sau này, việc anh sống sót là
nhờ vào bản thân và việc đọc và viết, và một quyển sách có tên là Cái
nhún vai
.

“Liesel,” một đêm nọ Hans
nói với con bé. “Đi nào.”

Kể từ khi Max xuất hiện, đã
có một sự gián đoạn đáng kể trong quá trình tập đọc của Liesel và bố nuôi nó.
Rõ ràng ông cảm thấy rằng bây giờ là một thời điểm thích hợp để quay lại với
việc này. “Na komm,” ông bảo nó. “Bố không muốn chữ nghĩa của
con rơi rụng đi mất. Đi lấy một quyển sách của con đi. Quyển Cái nhún
vai
thì thế nào nhỉ?”

Điều khiến con bé thấy do dự
trong việc này là khi nó quay lại với quyển sách trong tay, Bố đã ra hiệu cho
nó theo ông xuống phòng học cũ của họ. Tức là căn hầm.

“Nhưng Bố à,” con bé cố gắng
thuyết phục ông. “Chúng ta không thể...”

“Sao chứ? Có một con quái
vật dưới đó hay sao?”

Lúc đó là đầu tháng Mười hai
và thời tiết đã trở lên lạnh giá vô cùng. Căn hầm mỗi lúc một kém thân thiện
theo từng bậc thang.

“Dưới đó quá lạnh, Bố ạ.”

“Điều đó chưa từng làm con
thấy phiền trước đây.”

“Đúng, nhưng nó chưa bao giờ
lạnh thế này...”

Khi họ đi xuống, Bố thì thầm
với Max. “Chúng tôi có thể mượn ngọn đèn dầu một chút được không?”

Với một cử động, những tấm
che và thùng sơn được dịch chuyển Và cây đèn được đưa ra, chuyền từ tay người
này sang tay người kia. Nhìn ngọn lửa, Hans lắc đầu rồi nói.“Es ist ja
Wahnsinn, net?
Chuyện này thật là điên rồ, phải không?” Trước khi bàn
tay ở bên trong kịp sắp xếp lại những tấm che, ông đã bắt lấy nó. “Làm ơn đi ra
ngoài đi, Max.”

Những tấm che được dời sang
một bên một cách chậm chạp, rồi thân thể và gương mặt hốc hác của Max
Vandenburg xuất hiện. Trong ánh sáng ẩm ướt, anh đứng đó với sự ngượng ngập đến
lạ kỳ. Anh run rẩy.

Hans chạm vào cánh tay anh,
để kéo anh lại gần hơn.

“Lạy các đấng Jesus, Maria
và Joseph. Anh không thể ở dưới này được nữa. Anh sẽ chết cóng mất.” Ông quay
đầu lại. “Liesel. Hãy đổ đầy nước vào bồn tắm. Đừng quá nóng. Hãy giữ cho nước
luôn âm ấm như thế khi nó bắt đầu nguội dần.”

Liesel chạy lên.

“Lạy các đấng Jesus, Maria
và Joseph.”

Con bé lại nghe thấy câu đó
khi nó đến được chỗ hành lang.

Khi anh đã ở trong cái buồng
tắm nhỏ xíu ấy, Liesel đứng lắng nghe ở chỗ cánh cửa buồng vệ sinh, hình dung
ra làn nước ấm bốc hơi khi nó hun nóng thân thể lạnh như một tảng băng của anh.
Mẹ và Bố đang ở đoạn cao trào của cuộc tranh cãi trong gian phòng vừa là phòng
khách vừa là phòng ngủ, những giọng nói im lặng của họ như bị mắc kẹt nơi bức
tường hành lang.

“Anh ấy sẽ chết dưới đó, tôi
thề với bà đấy.”

“Nhưng ngộ nhỡ có ai nhìn
vào thì sao?”

“Không, không, anh ấy sẽ chỉ
lên đây vào ban đêm thôi. Ban ngày thì chúng ta sẽ mở toang mọi thứ ra. Không
có gì phải che giấu cả. Và chúng ta sẽ dùng căn phòng này thay vì nhà bếp. Tốt
nhất là tránh xa cửa trước ra.”

Im lặng.

Sau đó là tiếng Mẹ. “Được rồi... Phải, ông nói đúng.”

“Nếu chúng ta đặt cược vào một người Do Thái,” không lâu sau là giọng của
bố, “Thì tôi thích đặt cược vào một người còn sống hơn,” và kể từ giây phút đó
trở đi, một thông lệ mới đã ra đời.

Mỗi đêm, lửa sẽ được nhóm lên trong phòng của Mẹ và Bố, và Max sẽ xuất hiện
trong im lặng. Anh sẽ ngồi ở góc phòng, bị chuột rút co quắp lại và lúng túng,
chủ yếu là vì lòng tốt của những con người này, tâm trạng đau khổ dằn vặt vì
mình đã sống sót và, quan trọng hơn hết, là hơi ấm kỳ diệu tỏa ra từ ngọn lửa.

Khi những tấm màn đã được khép chặt lại, anh ngủ trên sàn nhà với một cái
đệm kê dưới đầu, trong lúc đống lửa lụi tàn dần và biến thành tro bụi.

Đến sáng thì anh sẽ quay lại căn hầm.

Một con người không có tiếng nói.

Như một con chuột Do Thái quay về cái hang của mình.

Giáng sinh đến rồi đi với mùi của một sự nguy hiểm tột độ. Đúng như đã đoán
trước, Hans Con không về nhà (điều này vừa là một điều may mắn đồng thời là một
nỗi thất vọng, báo trước điềm xấu), nhưng Trudy vẫn về như thường lệ, và mọi
việc cứ diễn ra một cách trôi chảy.

Báo cáo nội dung xấu