Máu Lạnh - Phần III - Chương 1
Phần 3: Câu
trả lời
Người trẻ tuổi tên là Floyd Wells, hắn ta thấp và gần như không có cằm.
Hắn đã toan thử nhiều nghề, làm lính, chăn nuôi, thợ cơ khí, ăn trộm, cái nghề
cuối này đã kiếm về cho hắn một bản án từ ba đến năm năm ở nhà tù Bang Kansas.
Tối thứ Ba, 17 tháng Mười một năm 1959, hắn đang nằm dài trong xà lim với một
cặp tai nghe rađiô quàng qua đầu. Hắn nghe bản tin, nhưng tiếng nói của phát
thanh viên và sự tẻ nhạt của các sự kiện trong ngày (“Thủ tướng Konrad Adenauer
đến Luân Đôn hôm nay để hội đàm với Thủ tướng Harold Macmillan... Tổng thống Eisenhower dành
bảy mươi phút nói chuyện với Tiến sĩ T. Keith Glennan về những vấn đề vũ trụ và
ngân sách thăm dò vũ trụ”) đang ru hắn thiu thiu. Cơn chập chờn lập tức biến
tan khi hắn nghe, “Các viên chức điều tra vụ thảm sát ghê gớm bốn người của gia
đình Herbert W. Clutter đã kêu gọi dân chúng cung cấp bất cứ thông tin nào có
thể giúp giải quyết được vụ án không mò ra phương hướng này. Người ta phát hiện
ra Clutter, vợ ông và hai đứa con dưới mười chín tuổi của họ bị giết trong
trang trại gần Garden City sớm Chủ nhật vừa qua. Tất cả đều bị trói, dán miệng
và bị bắn xuyên qua đầu bằng một khẩu súng ngắn nòng 12 ly. Các viên chức điều
tra thừa nhận họ không tìm ra được động cơ của vụ án, vụ được Logan Sanford,
Giám đốc Cục Điều tra Bang Kansas, nói là tàn ác nhất trong lịch sử của Kansas.
Clutter, một nhà trồng lúa mì nổi tiếng, trước đây từng được Eisenhower đề bạt
vào Sở Tín dụng Nông thôn Liên bang...”
Wells
bàng hoàng. Như sau này cuối cùng hắn mô tả phản ứng của mình, hắn “khó lòng
tin nổi”. Nhưng hắn có đủ lý do để tin như thế, vì hắn không những biết gia
đình bị giết mà còn biết rất rõ ai đã giết họ nữa.
Chuyện
bắt đầu từ trước đây đã lâu - mười một năm rồi, vào mùa thu năm 1948, khi Wells
mười chín tuổi. Hắn “kiểu như đi lang thang khắp nơi, gặp gì làm nấy”, như hắn
kể lại. “Rồi thế nào đó, tôi lại thấy mình ở đấy, miền Tây Kansas. Gần biên
giới Colorado. Tôi đang săn việc làm, hỏi tứ tung thì được biết có lẽ người ta
đang cần thuê nhân công ở Trại Lũng Sông ngoài kia - ông ta, ông Clutter ấy,
gọi cái chỗ đó của ông ta như vậy. Quả nhiên, ông ta nhận tôi. Tôi ở đó đâu
chừng một năm - đại khái là hết cả mùa đông đó - và tôi ra đi thì chỉ là vì tôi
cảm thấy bị bó chân bó cẳng, kiểu như vậy thôi. Muốn xê dịch. Không phải vì cãi
cọ gì với ông Clutter. Ông ta đối xử với tôi tốt, giống như với mọi người làm
việc cho ông ta; chẳng hạn, nếu như mình có cạn tiền chút ít trước kỳ lương thì
ông ấy cũng luôn luôn chìa ra cho mình năm mười đồng. Lương ông ấy trả hậu, và
nếu mình xứng đáng, ông ấy sẽ nhanh nhảu thưởng cho mình ngay. Sự thật là tôi
thích ông Clutter hơn bất cứ ai tôi đã gặp. Cả gia đình ấy nữa. Bà Clutter và
bốn đứa con. Khi tôi biết họ, hai đứa trẻ nhất, hai đứa bị giết ấy - Nancy và
thằng con trai đeo kính - hãy còn bé tẹo, năm sáu tuổi gì đó. Hai đứa kia - là
Beverly, một đứa gái nữa tôi không nhớ tên - thì đã học cấp III. Một gia đình
tốt đẹp, thật sự tốt đẹp. Tôi không bao giờ quên họ. Khi tôi
rời đó đi là vào khoảng năm 1949. Tôi lấy vợ, tôi ly dị, quân đội thuê tôi,
việc khác xảy đến, thời gian trôi đi, ông có thể nói vậy, và năm 1959 - tháng
Sáu, 1959, mười năm từ khi tôi gặp ông Clutter lần cuối - tôi bị đưa đến
Lansing. Vì phá cửa vào nhà kho thiết bị dụng cụ. Thiết bị điện. Lúc đó tôi
nghĩ trong đầu, mình muốn sở hữu mấy cái máy xén cỏ bằng điện. Không phải để
bán. Tôi đang định mở một dịch vụ cho thuê máy xén cỏ. Bằng cách đó, ngẫm mà
xem, tôi sẽ có công việc nho nhỏ thường xuyên của riêng tôi. Dĩ nhiên chẳng đi
đến đâu hết - trừ việc xơi một hạn tù ba đến năm năm. Nếu không bị vậy thì tôi
đã chẳng gặp Dick bao giờ, và có lẽ ông Clutter cũng sẽ chẳng phải ở trong mồ.
Nhưng tôi lại ở đó. Ở nhà tù đó đấy. Rồi thành ra gặp Dick.
Hắn
là đứa đầu tiên tôi ở cùng xà lim. Chúng tôi chung xà lim có đến một tháng.
Tháng Sáu và một phần tháng Bảy. Hắn đang sắp hết cái án ba đến năm năm - vào
tháng Tám, là nhờ có lời hứa danh dự không tái phạm. Hắn nói một lô về những
cái hắn định làm khi ra. Bảo là có khi hắn đi Nevada không chừng, đến một trong
những thị trấn căn cứ tên lửa ở đấy, mua lấy một bộ lính cho thành ra một sĩ
quan không quân. Như vậy hắn có thể xài được trót lọt những tấm séc giả mạo nom
ngoài cứ y như thật vậy. Hắn đã nói với tôi cái ý như vậy. (Nhưng bản thân tôi
không nghĩ đến cái đó nhiều. Hắn thông minh, tôi không phủ nhận, nhưng hắn
trông không giống. Chả giống sĩ quan không quân tí nào cả.)
Nhiều lần khác, hắn nói đến Perry, người bạn kia của hắn. Một thằng cha lai da
đỏ mà hắn từng chung xà lim. Và những vụ lớn hắn và Perry có chể chơi khi hai
đứa lại đi với nhau. Tôi chưa bao giờ gặp cha Perry ấy. Chưa bao giờ thấy mặt.
Hắn ra đã ra khỏi Lansing, được thả vì hứa đanh dự. Nhưng Dick luôn nói, nếu có
dịp vào cầu lớn thật sự thì hắn có thể trông cậy Perry Smith cùng làm với hắn.
Tôi
không nhớ chính xác ông Clutter được nhắc đến lần đầu tiên như thế nào. Chắc là
trong khi chúng tôi bàn công việc với nhau, các loại việc khác nhau mà chúng
tôi đã làm. Dick, hắn là thợ cơ khí xe hơi được đào tạo, phần lớn là hắn toàn
làm việc đó. Chỉ có một lần hắn nhận lái xe cứu thương của bệnh viện. Hắn phét
lác dữ về việc đó lắm. Về các hộ lý, về tất cả các trò hắn đã làm với các cô ấy
ở đằng sau xe. Chẳng biết sao tôi lại bảo hắn tôi làm một năm ở một đồn điền
lúa mì to lắm tại miền Tây Kansas. Cho ông Clutter. Hắn muốn biết ông Clutter
có giàu không. Có, tôi nói. Có, ông ta giàu. Tôi nói, thực tế là có lần ông
Clutter đã bảo tôi ông ấy từng tống khứ đi mười nghìn đô la trong có một tuần.
Ý là đôi khi ông phải tốn tới mười nghìn đô la một tuần để cho công việc chạy.
Sau đó, Dick không ngừng hỏi han về gia đình ấy. Họ có bao nhiêu người? Bây giờ
mấy đứa con bao nhiêu tuổi? Đi đến nhà ấy chính xác thì như thế nào? Nhà cửa
được bố trí ra sao? Ông Clutter có cái két sắt nào không? Tôi không chối việc này - tôi bảo
hắn là ông ấy có két. Vì hình như tôi nhớ có một cái đại loại như cái phòng con
con, hay két sắt, hay một cái gì đó ở ngay đằng sau bàn giấy
trong gian ông Clutter dùng làm văn phòng. Điều sau đó tôi biết là Dick nói đến
chuyện giết ông Clutter. Nói hắn và Perry sẽ đi đến đấy và ăn trộm ở chỗ đấy,
và chúng sẽ giết hết mọi nhân chứng - cả gia đình nhà Clutter và bất cứ ai có
mặt quanh đó. Hắn tả đến chục lần với tôi hắn sẽ làm chuyện đó như thế nào, hắn
và Perry sẽ trói họ lại và bắn họ chết như thế nào. Tôi bảo hắn, ‘Dick, cậu mà
làm chuyện ấy thì sẽ chẳng bao giờ thoát đâu.’ Nhưng tôi không thể trung thực
mà nói rằng tôi đã cố thuyết phục hắn thôi đi. Vì tôi chẳng hề tin lấy một phút
là hắn sẽ làm thật. Tôi nghĩ hắn nói mồm thế thôi. Như hàng bao nhiêu thứ như
vậy mà ông có thể nghe ở Lansing. Ta toàn nghe cái thứ như vậy
thôi: thằng cha nào đấy sẽ làm gì khi nó ra tù - trấn lột, trộm cắp, vân vân.
Chẳng là gì cả, phần lớn chỉ là huênh hoang thôi. Không ai lấy làm thật cả.
Chính vì vậy mà khi nghe qua đài tôi thật khó lòng tin được. Dù thế nào nó vẫn
đã xảy ra. Đúng hệt như Dick nói sẽ làm như thế.”
Đó
là chuyện của Floyd Wells, tuy rằng còn phải lâu nữa hắn mới nói ra. Hắn sợ, vì
nếu những tên tù khác nghe thấy hắn hớt lẻo với người gác tù thì đời hắn, như
hắn nói, “sẽ không đáng giá bằng một con sói đồng cỏ chết”. Một tuần trôi qua. Hắn mở rađiô,
hắn theo dõi các bài tường thuật báo chí - và trong một bài hắn đọc thấy rằng,
một tờ báo ở Kansas, tờ Tin tức Hutchinson, đang treo thưởng một
nghìn đô cho bất cứ tin nào đưa tới việc bắt và xử án thủ phạm hoặc các thủ
phạm vụ án mạng nhà Clutter. Một món lý thú đó; nó gần như đã gợi hứng cho
Wells nói. Nhưng hắn vẫn quá sợ, và cái sợ của hắn không chỉ là vì những tù
nhân khác. Biết đâu các nhà chức trách lại sẽ kết tội hắn đã dính líu đến vụ
án. Muốn gì thì hắn cũng là người đã dẫn Dick đến cửa nhà Clutter; chắc chắn
người ta sẽ tuyên bố là hắn đã biết trước ý đồ của Dick. Dù người ta nhìn việc
này như thế nào thì tình cảnh của hắn cũng là quái lạ, các lý do của hắn đều là
đáng ngờ. Cho nên hắn chẳng nói gì hết, và hơn mười ngày nữa trôi đi. Tháng
Chạp thay thế tháng Mười một, và những người đang điều tra vụ án, theo như
những bài tường thuật báo chí ngày càng ngắn gọn đi (đài phát thanh đã thôi
không nhắc đến đề tài này nữa), thì vẫn còn ngơ ngác, rốt cuộc vẫn không có đầu
mối gì, giống như vào buổi sáng phát hiện ra vụ án mà thôi.
Nhưng hắn biết.
Hiện giờ, bị dằn vặt bởi một nhu cầu “phải nói với một ai”, hắn đã tâm sự với
một người tù khác. “Một người bạn đặc biệt. Một người theo đạo Cơ đốc. Loại
người rất sùng đạo. Hắn hỏi tôi, ‘Được, cậu định làm gì nào, Floyd?’ Tôi nói,
‘À, tớ chẳng rõ phải làm gì hết - cậu nghĩ tớ nên thế nào?’ Đúng, hắn hết lòng
muốn tôi trở thành người tử tế. Rằng hắn không nghĩ tôi lại có thể sống với một
cái chuyện như thế - trong đầu. Và hắn bảo tôi có thể nói mà không sợ ai -
trong này nghĩ rằng tôi là người nói. Bảo là hắn sẽ giúp cho. Thế là hôm sau
hắn báo cáo với phó quản giáo - bảo rằng tôi muốn được ‘gọi ra’. Bảo người này
là nếu ông ta gọi tôi lên văn phòng ông ta vì cớ này cớ nọ, thì có thể tôi sẽ
bảo với ông ta kẻ giết nhà Clutter là ai. Quả nhiên, ông phó quản giáo cho gọi
tôi. Tôi hoảng, nhưng tôi liền nhớ đến ông Clutter, ông không bao giờ xử tệ với
tôi, lễ Nôen ông đã cho tôi một cái ví con trong đó có với năm chục đô la. Tôi
nói với ông phó quản giáo. Rồi tôi nói cả với ông quản giáo. Và trong khi tôi
còn ngồi ở đấy, ngồi chính ở ngay trong văn phòng quản giáo, ông ta nhấc điện
thoại lên...”
Người
mà văn phòng quản giáo gọi điện đến là Logan Sanford. Sanford nghe, gác máy, ra
mấy cái lệnh rồi tự mình gọi điện cho Alvin Dewey. Tối đó, khi Dewey rời văn
phòng ở Tòa án tại Garden City, ông mang theo về nhà một chiếc phong bì.
Khi
Dewey về đến nhà, Marie đang ở trong bếp chuẩn bị bữa tối. Ông vừa ló mặt, bà
đã kể một thôi một hồi các chuyện gớm ghê xảy ra trong nhà. Con mèo Pete đã
đánh con chó Tây Ban Nha tai quạt lông xù sống ở bên kia đường, bây giờ thì
hình như một mắt của con chó bị thương nặng. Và Paul, thằng con lên chín, trèo
cây bị ngã. Nó còn sống được là nhờ có phép màu. Rồi thằng mười hai tuổi, trùng
tên với Dewey, đã vào sân đốt rác cháy đùng đùng khiến hàng xóm hết hồn. Một ai
đó - bà không rõ tên - đã gọi sở Cứu hỏa.
Trong
khi bà vợ tả lại những câu chuyện không vui đó, Dewey rót hai tách cà phê. Đang
nói, thình lình Marie ngừng lại nhìn ông đăm đăm. Mặt ông đỏ bừng, bà có thể
nói rằng ông đang phấn khích. Bà nói, “Alvin. Ôi cưng. Có tin tốt phải không?”
Không đáp, ông đưa cho bà cái phong bì. Tay bà ướt; bà lau khô, ngồi vào bàn
ăn, uống cà phê, mở phong bì lấy ra những tấm ảnh chụp một người trẻ tuổi tóc
vàng và một người trẻ tuổi tóc đen da ngăm - những tấm ảnh cảnh sát chụp làm
“căn cước”. Đi kèm các tấm ảnh là hai bộ hồ sơ viết theo kiểu nửa mã hóa. Hồ sơ
của người tóc vàng viết:
HICKOCK,
RICHARD EUGENE (WM) 28. KBI 97 093; FBI 859 273A. Địa chỉ: Edgerton, Kansas.
Ngày sinh 6-6-31. Nơi sinh: K.C., Kans. Chiều cao: 1m78. Cân nặng: 85 kg. Tóc:
vàng. Mắt: lam. Tạng người: vạm vỡ. Đồng phạm: Ruddy. Nghề: thợ sơn xe. Tội
phạm: lừa đảo & chiếm đoạt tài sản, séc giả. Thả theo lời hứa danh dự:
13-8-59. Do: K.C.K Nam.
Hồ
sơ thứ hai viết:
SMITH,
PERRY EDWARD (WM) 27-59. Nơi sinh: Nevada. Chiều cao: 1m63. Cân nặng: 70 kg.
Tóc: nâu sẫm. Tội phạm: Đột nhập bất hợp pháp. Bị bắt: (để trống). Bởi: (để
trống). Quyết định: Gửi đến Nhà tù Bang Kansas từ Phillips Co., 13-3-56, 5-10
năm. Tiếp nhận: 14-3-56. Tha theo lời hứa danh dự: 6-7-1959.
Marie
xem các ảnh chụp thẳng và nghiêng của Smith: một bộ mặt ngạo nghễ, dữ dằn,
nhưng không hoàn toàn, hẳn vì nó còn có một nét tế nhị đặc biệt; môi và mũi có
vẻ thanh, và bà nghĩ đôi mắt, với cái vẻ mơ màng, ươn ướt của chúng, nom khá là
đẹp - đúng hơn là đẹp theo lối diễn viên, truyền cảm. Truyền cảm, và một cái gì
hơn thế: “hèn hạ”. Tuy không hèn hạ, không “tội ác” một cách gớm ghiếc như mắt
của Hickock, Richard Eugene. Bị đôi mắt của Hickock nhìn trừng trừng, Marie
chợt nhớ lại một sự cố thời bé - về một con linh miêu bà đã có lần trông thấy
bị mắc bẫy, và tuy bà muốn thả nó ra nhưng đôi mắt mèo, rực lên vì đau và bởi
hằn thù, đã hút mất hết tình thương của bà đi mà trút đầy kinh hoàng vào người
bà như thế nào. “Họ là ai đấy?” Marie hỏi.
Dewey
kể lại cho bà câu chuyện Floyd Wells, và cuối chuyện ông nói, “Ngộ thật. Ba
tuần qua, đây là cái góc độ chúng ta tập trung vào. Dò tìm bất cứ ai đã làm
việc ở nhà Clutter. Bây giờ hóa ra thành như thế này thì đúng mình gặp may
thật. Nhưng ít ngày nữa chúng ta sẽ sờ được đến cái tay Wells này. Thì ra hắn ở
trong tù. Lúc đó chúng ta sẽ nắm được sự thật. Trời đất, đúng thế đấy.”
“Có
thể không phải là sự thật,” Marie nói. Dewey và mười tám người phụ tá đã theo
đuổi hàng trăm đầu mối dẫn tới những chỗ trời ơi đất hỡi, bà muốn nhắc ông cẩn
thận đừng để bị thêm một lần thất vọng nữa, vì bà lo cho sức khỏe của ông. Tình
hình đầu óc ông không ổn; ông xanh xao, ông hút những sáu chục điếu thuốc một
ngày.
“Đúng.
Có thể không,” Dewey nói. “Nhưng anh có một linh cảm.”
Giọng
ông làm bà chú ý; bà lại nhìn vào những bộ mặt ở trên bàn ăn. “Nghĩ đến hắn
xem,” bà nói, đặt một ngón tay vào tấm ảnh chụp thẳng của người trẻ tuổi tóc
vàng. Nghĩ đến đôi mắt này xem. Đang xói vào anh này.” Đoạn bà đẩy các tấm ảnh
vào lại trong phong bì. “Giá anh đừng để em xem có phải tốt không.”
Cũng
tối hôm đó, muộn hơn, một người đàn bà khác, trong một căn bếp khác, đặt chiếc
bít tất bà đang mang sang bên, gỡ cặp kính gọng dẻo ra, đưa nó lên ngang tầm
người khách, nói, “Ông Nye, tôi mong ông tìm ra nó. Vì chính nó. Chúng tôi có
hai đứa con trai, nó là thằng cả. Chúng tôi yêu nó. Nhưng... Ôi, tôi đã hiểu
ra. Tôi đã hiểu ra là nó sẽ lại cuốn gói. Bỏ đi. Chẳng một lời với bố và em.
Trừ phi nó lại mắc míu một lần nữa. Cái gì khiến nó làm như vậy? Tại sao chứ?”
Bà liếc qua gian phòng nhỏ bé sưởi bằng lò than, nhìn vào một người gầy hốc hác
nằm co ro trên chiếc ghế bập bềnh - Walter Hickock, chồng bà và bố của Richard
Eugene. Ông có đôi mắt lờ đờ đầy vẻ thất bại và hai bàn tay thô ráp; khi ông
nói, giọng ông nghe như có vẻ ít được dùng đến.
“Chẳng
có gì không ổn xảy ra với con trai tôi chứ, ông Nye,” ông Hickock nói. “Một vận
động viên xuất sắc - luôn ở trong đội bóng của trường. Bóng rổ! Bòng chày! Bóng
bầu dục! Dick luôn là cầu thủ ngôi sao. Học cũng khá giỏi nữa, luôn đạt điểm A
ở nhiều môn. Sử. Vẽ kỹ thuật. Sau khi tốt nghiệp trung học - tháng Sáu 1949 -
nó muốn vào cao đẳng. Học làm kỹ sư. Nhưng chúng tôi không đủ khả năng. Nói
trắng ra là không có tiền. Chẳng bao giờ có nổi đồng tiền. Trại chúng tôi đây,
chỉ có bốn mươi tư mẫu Anh - chúng tôi chật vật mới kiếm được cái sinh nhai.
Tôi ngờ là Dick bực, không được đi học cao đẳng mà. Việc đầu tiên nó làm là tại
đường sắt Santa Fe, ở Kansas City. Một tuần bảy mươi lăm đô. Nó cho thế là đã
đủ để lấy vợ; vậy là nó cưới Carol. Con này chưa đủ mười sáu; bản thân nó thì
chưa đủ mười chín. Tôi nghĩ chẳng bao giờ lại có được sự tốt lành trong việc
cưới vợ cưới chồng như vậy. Không, cho cả hai.”
Bà
Hickock, một người đàn bà mập mạp, với khuôn mặt tròn, dịu dàng, không bị cảnh
quần quật tối ngày làm tiều tụy đi, trách ông. “Ba thằng bé quý hóa, cháu nội
ta đấy thôi - không từ cái vụ cưới nhau ấy mà có thì từ cái gì. Mà Carol là một
đứa con gái đáng yêu. Nó chẳng có gì phải trách cả.”
Ông
Hickock nói tiếp, “Nó và con Carol thuê một căn nhà kha khá rộng, mua một cái
xe khá oách - chúng suốt đời nợ. Ngay cả khi Dick kiếm được nhiều tiền hơn nhờ
lái xe cứu thương. Sau đó Công ty Markl Buick, một công ty lớn ở Kansas City
thuê nó. Làm thợ cơ khí và thợ sơn xe. Nhưng nó và Carol sống cao quá, cứ sắm
những thứ chúng đáng lẽ chẳng kiếm đâu ra tiền sắm, thế nên Dick đâm ra làm séc
giả. Tôi vẫn nghĩ lý do để nó bắt đầu làm mấy trò quái ấy là có liên quan đến
vụ đâm xe. Chấn động cả đầu óc nó. Sau đó, nó không còn là thằng con trai ngày
trước nữa. Cờ bạc, viết séc giả. Trước đó tôi chưa thấy nó làm những chuyện như
thế bao giờ. Và cùng lúc nó bập phải đứa con gái kia. Cái đứa làm cho nó ly dị
Carol để lấy làm vợ thứ hai ấy.”
Bà
Hickock nói, “Dick không thể không làm thế. Ông cứ nhớ lại xem con Margaret
Edna làm nó mê mệt thế nào.”
“Một
người đàn bà thích anh thì tức là anh phải mắc câu sao?” ông Hickock nói.
“Chậc, ông Nye ạ, tôi hy vọng ông hiểu nó cũng nhiều như chúng tôi. Tại sao
thằng con chúng tôi lại phải vào tù. Bị giam mười bảy tháng, mà chung quy cũng
chỉ vì nó mượn một khẩu súng săn. Của nhà người hàng xóm ở đây. Nó không có ý
ăn cắp, cái điều mà không ai nói thì tôi chẳng coi ra gì cả. Và chuyện đó tàn
hại nó. Khi ra khỏi nhà tù Lansing, nó là một người xa lạ hoàn toàn với tôi.
Mình không thể trò chuyện với nó. Tất cả thế giới này đều chống lại Dick
Hickock - nó hình dung vậy đó, Ngay cả đến cọn vợ thứ hai cũng bỏ nó - làm đơn
ly dị lúc nó còn trong tù. Sau này, nó có vẻ đã ổn định. Làm việc cho tiệm sửa
xe Bob Sands, ở mạn trên Olathe. Sống ở đây với chúng tôi, đi ngủ sớm, không
làm gì vi phạm lời hứa. Ông Nye à, tôi nói ông nghe, tôi chẳng sống được bao
lâu nữa đâu, với cái bệnh ung thư này, thằng Dick nó biết đấy - ít nhất, nó
cũng biết là tôi bệnh - chưa đến một tháng trước đây, ngay trước khi nó bỏ đi,
nó bảo tôi, ‘Bố, bố là một ông già rất tốt với con. Con sẽ chẳng làm cái gì cho
bố khổ nữa đâu.’ Nó có ý như vậy thật. Thằng này có nhiều cái tốt ở trong người
nó. Nếu như ông từng thấy nó ở trên sân bóng bầu dục, nếu như ông đã thấy nó
đùa với đám con nó thì ông sẽ chẳng nghi tôi đâu. Trời, tôi cầu Chúa có thể bảo
cho tôi hay. Vì tôi không biết chuyện gì đã xảy ra.”
Bà
vợ ông nói, “Tôi biết,” bà bắt đầu mạng lại bít tất và buộc phải ngừng tay vì
nước mắt tràn ra. “Cái thằng bạn của nó kìa. Chuyện xảy ra là thế đấy.”
Người
khách, đặc vụ KBI Harold Nye, bận ngoáy vội vào cuốn sổ tốc ký - một cuốn sổ
tay đầy những kết quả của một ngày dài bỏ ra thăm dò những lời buộc tội của
Floyd Wells. Đến nay, những sự việc xác định được đã chứng minh câu chuyện
Floyd Wells kể là thuyết phục nhất. Ngày 20 tháng Mười một, nghi phạm Richard
Eugene Hickock đã làm một chuyến mua bán bốc trời ở Kansas City trong đó hắn đã
cho lọt được không dưới “bảy tấm séc giả”. Nye đã thẩm vấn tất cả các nạn nhân
từng trình báo - nhân viên bán camera, rađiô, ti vi. Ông chủ tiệm vàng bạc,
người bán hàng ở cửa hàng may mặc - và ở mỗi chỗ, khi ông đưa cho nhân chứng
xem ảnh của Hickock và Perry Edward Smith, ông luôn luôn nhận dạng được Hickock
là tác giả của những tấm séc giả, Perry là tên tòng phạm “im lìm” của hắn. (Một
đại lý bán hàng chán nản nói, “Hắn (Hickock) hành động. Một cha nói rất ngọt, rất thuyết phục. Thằng kia - tôi nghĩ
nó có thể là người nước ngoài, người Mexico - không bao giờ mở miệng.”)
Sau
đó, Nye lái xe đến làng ngoại ô Olathe, ở đây ông phỏng vấn người chủ cuối cùng
của Hickock, ông chủ tiệm sửa xe Bod Sands. “Vâng, anh ta có dạo làm ở đây,”
ông Sands nói. “Từ tháng Tám cho tới - à phải, tôi không còn thấy anh ta nữa
sau ngày 19 tháng Mười một, hoặc có thể là ngày 20. Anh ta bỏ đi chẳng bảo tôi
gì sất. Cứ thế chuồn thôi - tôi không biết đi đâu, bố anh ta cũng chẳng biết.
Ngạc nhiên ư? À, có chứ. Có, tôi ngạc nhiên. Chúng tôi làm việc thân mật lắm.
Dick là loại người có cái kiểu riêng của mình, ông biết đấy. Anh ta có thể rất
đáng mến. Một dạo anh ta quen đến chơi nhà tôi. Sự thật là trước khi anh ta bỏ
đi, chúng tôi có mời ít người tới, một liên hoan nho nhỏ, và Dick đã mang bạn
tới, người này là một anh chàng ở Nevada đang đến thăm anh ta, tên là Perry
Smith. Anh ta chơi ghi ta hay lắm. Anh ta chơi ghi ta và hát mấy bài, rồi anh
ta và Dick giúp vui cho mọi người bằng một màn cử tạ. Perry Smith, người bé
nhỏ, không cao hơn mét rưỡi là mấy, thế nhưng có thể nhấc nổi cả một con ngựa.
Không, họ nom không có vẻ căng thẳng gì, cả hai. Tôi dám nói họ rất vui vẻ chơi
đùa là đằng khác ấy chứ. Ngày giờ chính xác à? Chắc chắn tôi nhớ chứ. Ngày 13.
Thứ Sáu, 13 tháng Mười một.” Từ đấy Nye cho xe lên phía Bắc, dọc những con
đường nông thôn thô sơ. Khi đến gần trại của Hickock, ông đỗ lại ở nhiều trại
hàng xóm, bề ngoài là hỏi đường, thực ra là thăm dò về kẻ tình nghi. Vợ một chủ
trại nói, “Dick Hickock! Đừng nói với tôi về Dick Hickock! Nếu mà tôi gặp phải
con quỷ ấy! Ăn cắp? Ăn cắp cả đến mắt người chết nữa đấy! Nhưng mẹ hắn ta, bà
Eunice, lại là người tốt. Tốt bụng vô cùng ấy. Bố hắn ta cũng vậy. Cả hai người
đều thật thà, lương thiện. Dick sẽ còn vào tù nhiều đến mức ông cũng chẳng tính
ra nổi đâu, có điều quanh đây người ta không muốn tố cáo. Vì kính trọng bố mẹ
đẻ ra hắn.”
Bóng
chiều buông xuống khi Nye gõ cửa căn nhà trại bốn buồng đã bị thời gian làm cho
xám xịt của Walter Hickock. Tựa như nó đã từng chờ đợi một cuộc viếng thăm thế
này. Ông Hickock mời nhà thám tử vào trong bếp và bà Hickock mời ông cà phê. Có
lẽ nếu họ biết được mục đích thật sự của người khách đến đây thì sự chiêu đãi
kia sẽ bớt lịch sự đi và thêm dè dặt. Nhưng họ không biết, và trong hàng mấy
giờ ba người ngồi trò chuyện, cái tên Clutter lẫn chữ án mạng đều không được
nhắc tới. Ông bố bà mẹ chấp nhận cái điều Nye đưa ra là ông lùng tìm con trai
họ vì hắn đã vi phạm lời hứa không tái phạm và có gian lận về tài chính.