Máu Lạnh - Phần III - Chương 8
Bên kia gian
sảnh, trong gian phòng sặc khói thuốc lá, nơi Hickock đang qua lần hỏi cung thứ
hai, Church và Nye áp dụng một chiến lược vòng vo vu hồi. Trong cuộc thẩm vấn
mà đến lúc này gần như đã kéo dài những ba tiếng đồng hồ, không ai trong hai
người nhắc đến vụ án mạng dù chỉ một lần - sự bỏ lơ này làm cho gã tù luôn luôn
hồi hộp và cáu kỉnh. Họ nói đến đủ thứ khác: triết học tôn giáo của Hickock
(“Tôi biết địa ngục. Tôi đã từng ở đó. Có lẽ cũng có thiên đường thật. Nhiều
người giàu có nghĩ như vậy.”); tiền sử tính dục của hắn (“Tôi lúc nào cũng ứng
xử như người bình thường trăm phần trăm”); và một lần nữa, câu chuyện về cuộc lẩn
trốn việt dã mới đây của hắn (“Tại sao chúng tôi cứ đi mãi như thế, lý do duy
nhất là chúng tôi tìm việc làm. Tuy chẳng tìm được việc gì tử tế. Tôi đã đào
mương một ngày trời...”) Nhưng những điều không nói ra mới là trung tâm của sự
chú ý - cái nguyên nhân của việc Dick ngày càng thất vọng, các nhà thám tử đang
chắc chắn như vậy. Lúc này hắn đang nhắm mắt, day mí bằng những ngón tay run
rẩy. Và Church nói, “Có trục trặc gì không?”
“Nhức
đầu. Tôi hay bị những cái chó chết này.”
Nye
liền nói, “Dick, nhìn tôi đây.” Hickock nghe lời, với một cái vẻ mà nhà thám tử
hiểu ra như là cầu xin hãy nói, hãy kết tội và để cho hắn trốn thoát vào trong
chánh cung của sự phủ nhận trước sau như một không thay đổi. “Hôm qua khi chúng
ta bàn đến chuyện này, anh có thể nhớ lại lời tôi nói rằng các vụ giết người ở
nhà Clutter là một vụ án gần như hoàn hảo. Bọn giết người chỉ phạm có hai sai
lầm. Thứ nhất, chúng đã để lại nhân chứng. Thứ hai, ừm, tôi sẽ cho anh xem.”
Đứng dậy, ông lấy từ trong góc phòng ra một cái hộp và một cái cặp, cả hai vật
này ông đã mang vào phòng hỏi cung từ đầu. Ông lấy trong cặp ra một tấm ảnh
lớn. “Cái này,” ông nói, để tấm ảnh lên bàn, “là bản phóng nguyên khổ một vài
vết chân tìm thấy gần xác ông Clutter. Còn đây,” ông mở cái hộp ra, “là những
đôi ủng đã để lại những dấu đó. Đôi ủng của anh, Dick.” Hickock nhìn rồi quay
đi. Hắn ngồi hai khuỷu tay tì lên đầu gối, mặt vùi vào hai bàn tay. “Smith,”
Nye nói, “lại còn ít thận trọng hơn. Chúng tôi cũng có đôi ủng của hắn, chúng
hoàn toàn khớp với một bộ dấu chân khác. Những dấu chân có dính máu.” Church
đánh áp sát. “Đây là cái điều sắp xảy đến với anh, Hickock,” ông nói. “Anh sẽ
bị đưa lại về Kansas.
Anh sẽ bị kết án bốn vụ giết người ở cấp một. Vụ thứ nhất: vào ngày hoặc vào
khoảng ngày 15 tháng Mười một năm 1959, một người tên Richard Eugene Hickock,
một cách phi pháp, cố ý và cố tình, có tính toán trước, và trong khi dính vào
việc gây ra tội ác, đã giết và lấy đi sinh mạng của Herbert W. Clutter. Vụ thứ
hai: vào ngày hoặc vào khoảng ngày 15 tháng Mười một năm 1959, cũng Richard
Eugene Hickock, một cách phi pháp...”
Hickock
nói, “Perry Smith giết nhà Clutter.” Hắn ngẩng đầu, từ từ ngồi thẳng trên ghế,
như một người vật nhau đang loạng choạng đứng dậy. “Perry đấy. Tôi không ngăn
hắn lại được. Hắn đã giết tất cả.”
Đang
nhâm nhi cà phê nhân giờ nghỉ ở quán cà phê Hartman, bà Clare chánh bưu điện
phàn nàn âm lượng rađiô mở bé. “Cho nó to lên đi nào,” bà nói.
Rađiô
đang mở kênh phát thanh KIUL
của Garden
City. Bà nghe được mấy lời, “... sau khi nức nở đau đớn thú tội, Hickock nhô ra
khỏi phòng thẩm vấn và té xỉu ở hành lang. Các nhân viên KBI giữ lấy hắn khi
hắn ngã xuống sàn. Các nhân viên dẫn lời Hickock nói hắn và Smith xâm nhập nhà
Clutter mong tìm thấy một két sắt đựng ít nhất mười nghìn đô la. Nhưng không có
két nào, cho nên chúng trói gia đình lại và lần lượt bắn từng người một. Smith
không nhận cũng không chối là đã tham gia vụ án mạng.
Khi
nghe nói Hickock đã ký vào một bản thú tội, Smith nói, “Tôi muốn xem bản của bồ
tôi khai,” nhưng đề nghị này đã bị bác. Các cảnh sát từ chối cho hay Hickock
hay Smith là người thực sự đã bắn các thành viên gia đình Clutter. Họ nhấn mạnh
bản khai này chỉ là của Hickock. Nhân viên KBI đưa hai gã này quay về Kansas, họ rời Las
Vegas bằng xe hơi. Dự kiến họ sẽ về đến Garden City
vào sẩm tối thứ Tư. Trong khi đó, ông chưởng lý hạt West...”
“Lần
lượt từng người,” bà Hartman nói. “Cứ tưởng tượng xem. Tôi không tin là cái đồ
lưu manh đó mà lại ngất được.”
Những
người khác trong quán - bà Clare, bà Mabel Helm và một chủ trại trẻ tuổi lực
lưỡng vừa ghé lại mua một bìa thuốc lá nhai hiệu Con lừa - cứ lầm bà lầm bầm.
Bà Helm đắp lên mắt một mảnh khăn ăn. “Tôi chả nghe đâu,” bà nói. “Tôi không
được phép nghe, tôi chả nghe đâu.”
“...
tin về vụ phá án nhận được rất ít phản ứng ở thị trấn Holcomb, cách nhà Clutter
chừng nửa dặm... Nói chung, dân thị trấn ở cái cộng đồng hai trăm bảy chục
người này đã tỏ ra nguôi dịu...”
Người
chủ trại trẻ huýt gió. “Nguôi dịu! Có biết là đêm qua vợ tôi sau khi nghe tin
trên ti vi đã làm sao không? Khóc ầm lên như một đứa bé vậy.”
“Suỵt,”
bà Clare nói. “Tôi đây này.”
“...
và bà chánh bưu điện ở Holcomb, bà Myrtle Clare nói dân chúng ở đây rất vui là
vụ án đã được phá, nhưng một số bà con vẫn cảm thấy rằng còn có những người
khác dính líu nữa. Bà nói hiện giờ nhiều người vẫn cứ khóa chặt cửa và súng ống
kè kè...”
Bà
Hartman cười to. “Ôi Myrt ơi!”
bà nói. “Bà nói với ai vậy?”
“Một
phòng viên của tờ Điện tín.”
Những
ông có quen biết bà Clare, nhiều người trong số đó xưa nay vẫn đối xử với bà
như với đàn ông. Người chủ trại phát vào lưng bà một cái mà nói, “Chà Myrt, bà
bạn ơi. Không phải bà vẫn nghĩ là một người trong chúng tôi - một ai đó quanh
đây - có liên quan đến vụ đó chứ?”
Nhưng
dĩ nhiên đó là điều bà Clare nghĩ, và tuy trước nay bà thường không bị đơn độc
trong ý kiến của mình song lần này không có ai ủng hộ bà, vì phần lớn dân
Holcomb, đã sống suốt bảy tuần giữa những tin đồn vô bổ, trong sự mất lòng tin
và nghi ngại lẫn nhau, đã tỏ ra thất vọng khi nghe nói kẻ giết người không phải
là dân ở đây. Quả thế, phần lớn không chịu chấp nhận việc hai kẻ lạ mặt, hai
đứa ăn cắp ở đâu đâu lại là thủ phạm duy nhất. Như bà Clare nhận xét, “Có thể
mấy thằng đó có làm thật. Nhưng còn kẻ khác nữa đấy. Chờ xem. Hôm nào đấy họ sẽ
khoắng tới đây, và chừng đó họ sẽ khui ra cái đứa đứng ở đằng sau. Cái đứa nào
muốn gạt ông Clutter khỏi đường đi của nó. Cái đứa đầu não ấy.”
Bà
Hartman thở dài. Bà hy vọng bà Clare sai. Rồi bà Helm nói, “Tôi chỉ mong họ
giam chặt chúng nó lại. Biết chúng nó ở gần đây là tôi cảm thấy chả yên tâm
thoải mái tí nào.”
“Ồ
thưa bà, tôi nghĩ bà không phải lo lắng đâu,” người chủ trại trẻ tuổi nói. “Bây
giờ thì mấy đứa kia chúng nó sợ ta nhiều hơn là ta sợ chúng nó ấy chứ.”
Trên
một xa lộ bang Arizona,
một đoàn hai xe đang phóng vun vút qua vùng đất ngải đắng - các quả đồi đỉnh
phẳng như mặt bàn đầy chim ó, rắn đuôi chuông và những tảng đá đỏ dựng cao chất
ngất. Dewey lái xe trước, Perry Smith ngồi cạnh ông, Duntz ở ghế sau. Smith bị
còng tay, còng số tám buộc vào thắt lưng an toàn bằng một đoạn xích ngắn - kiểu
bố trí này hạn chế cử động của hắn quá đến mức hắn không thể hút thuốc được nếu
không có người giúp. Khi hắn muốn hút thuốc, Dewey phải châm cho hắn rồi đặt
vào giữa hai môi hắn, một nhiệm vụ mà ông cảm thấy “kinh tởm”, vì nó có vẻ như
một hành vi thân thiết - loại hành vi mà ông từng làm khi tán tỉnh vợ ông.
Nói
chung, người tù không để ý đến những người canh giữ hắn cũng như ý định thường
trực của họ là khiêu khích hắn bằng cách nhắc lại lời thú tội được ghi âm dài
cả giờ của Hickock: “Hắn nói hắn đã muốn ngăn anh lại đấy, Perry. Nhưng không
được. Nói hắn sợ anh còn bắn cả hắn nữa,” và “Vâng, thưa ông Perry. Tội vạ là ở
ông hết. Chính Hickock nói, đến một con rận chó hắn còn không có khả năng làm
hại nữa cơ.” Chẳng có cách nào làm cho Smith bị kích động cả - bề ngoài thì
vậy. Hắn tiếp tục ngắm cảnh, đọc những bài thơ dở ẹc của Burma-Shave, đếm xác
những con chồn hôi bị bắn, vắt lên hàng rào trại chăn nuôi như đồ trang điểm.
Không
tính trước tới bất cứ một câu trả lời nào đặc biệt, Dewey nói, “Hickock bảo
chúng tôi anh là một kẻ sát nhân bẩm sinh. Bảo là giết người chẳng làm anh thấy
băn khoăn gì hết. Bảo là có lần ở Las
Vegas ấy, anh đã cho đi đời một người da màu bằng một
dây xích xe đạp. Quật đến chết người ta. Cho vui thôi.”
Dewey
ngạc nhiên thấy người tù thở hổn hển. Hắn vặn vẹo trên ghế cho đến khi nhìn
thấy chiếc xe thứ hai qua khung kính sau xe, nhìn thấy bên trong nó: “Cái thằng
mất dạy!” Quay lại, hắn nhìn đăm đăm vào vạt đường xa lộ tối xuyên qua sa mạc.
“Tôi cứ nghĩ đấy là mánh của các ông cơ. Tôi đã không tin các ông. Rằng thằng
Dick đã phun ra. Thằng mất dạy! Ồ, đúng là một thằng vô liêm sỉ. Sẽ chẳng làm
hại đến cả một con rận chó. Chỉ chẹt chết chó thôi.” Hắn nhổ. “Tôi chưa giết
một thằng mọi nào bao giờ.” Duntz tán thành với hắn; đã nghiên cứu hồ sơ về
những vụ giết người chưa được phá ở Las
Vegas, ông biết Smith vô tội trong cái vụ đặc biệt
này. “Tôi chưa giết thằng mọi nào bao giờ. Nhưng nó nghĩ ra như thế. Tôi vẫn biết
giả sử chúng tôi bị bắt, giả sử Dick phun ra, bao nhiêu ruột gan cho rơi xuống
sàn nhà hát thì tôi biết là thế nào nó cũng sẽ nói đến chuyện thằng mọi.” Hắn
lại nhổ. “Vậy là thằng Dick sợ tôi hả? Buồn cười thật đấy. Buồn cười quá. Điều
nó không biết là tôi suýt nữa đã bắn nó rồi!”
Dewey
châm hai điếu thuốc, một cho mình, một cho người tù. “Nói về chuyện đó cho
chúng tôi nghe đi, Perry.” Smith nhắm mắt lại hút, và giải thích. “Tôi đang
nghĩ đây. Tôi muốn nhớ lại xem đúng ra thì nó vốn dĩ thế nào.” Hắn dừng một
lát. “Ừ, tất cả bắt đầu từ một bức thư tôi nhận được khi ở ngoài kia, tại Buhl,
Idaho. Tháng
Chín hay tháng Mười gì đó. Thư của Dick, nó nói đang có một món hời. Vào cầu
lắm. Tôi không trả lời, nhưng nó lại viết nữa, giục tôi về Kansas đi cùng với nó. Nó không nói loại cầu
gì. Chỉ nói là ‘một món hời ăn chắc’. Giờ chuyện đã đến thế này thì tôi nói
quách, tôi có một lý do khác nữa để muốn trở lại Kansas cùng thời gian đó. Một chuyện cá nhân
từ lâu một mình tôi biết - chẳng dính dáng gì đến cái khác. Nếu không như thế
thì tôi đã không trở lại đấy. Nhưng tôi đã trở lại. Và Dick đã gặp tôi tại trạm
xe buýt ở Kansas City.
Chúng tôi lái xe tới trại bố mẹ nó ở. Nhưng họ không muốn cho tôi ở đó. Tôi rất
nhạy, tôi thường biết được người ta cảm thấy thế nào.”
“Giống
ông,” ý hắn muốn chỉ Dewey, nhưng không nhìn vào ông. “Ông ghét phải đưa tôi
thuốc lá. Đó là việc của ông. Tôi không trách ông. Tôi cũng không trách gì mẹ
của Dick. Sự thật thì bà ta là người đáng mến lắm. Nhưng bà ta biết tôi là cái
gì - một thằng mới ở khám ra - nên bà ta không muốn tôi ở trong nhà bà ta. Lạy
Chúa, được ra ngoài khách sạn thì sướng quá. Dick đưa tôi đến một khách sạn Olathe. Chúng tôi mua ít
bia đem lên buồng, và lúc đó Dick mới nói phứt ra cái nó nghĩ trong đầu. Nó nói
sau khi tôi rời Lansing, nó đã ở chung xà lim
với một người từng làm việc cho một nhà trồng lúa mì giàu có ở tận miền Tây Kansas, ông Clutter.
Dick vẽ sơ đồ nhà Clutter cho tôi xem. Nó biết hết cái gì ở đâu - cửa, sảnh,
phòng ngủ. Nó bảo một trong các phòng tầng trệt được dùng làm văn phòng và
trong văn phòng có một cái két - cái két ẩn trong tường. Nó bảo ông Clutter cần
két vì ông ấy luôn luôn giữ những khoản tiền mặt lớn. Không bao giờ dưới nghìn
đô la. Kế hoạch là ăn cắp cái két, và nếu như chúng tôi bị phát hiện, chà, bất
cứ ai phát hiện ra chúng tôi thì đều phải cho đi cả. Dick phải nói đến hàng
triệu lần: ‘Không để sót nhân chứng’.”
Dewey
nói, “Hắn nghĩ có thể có bao nhiêu nhân chứng? Tôi muốn nói hắn tính tìm thấy
bao nhiêu người ở trong nhà Clutter?”
“Đó
là điều lúc đó tôi muốn biết. Nhưng nó không nắm chắc. Ít nhất bốn người. Có
thể sáu. Và có thể gia đình lại mời khách nữa. Nó nghĩ chúng tôi nên chuẩn bị
đối phó với mười hai người.”
Dewey
ừ hữ, Duntz huýt sáo và Smith mỉm cười nhợt nhạt nói thêm. “Tôi cũng nghĩ thế.
Hình như thế thì hơi khó chơi. Mười hai người. Nhưng Dick bảo đây là một cú ăn
chắc. Nó nói, “Chúng ta sẽ vào đó và hất tung tóe tóc lên tường một phen!” Với
tâm trạng tôi lúc đó, tôi cứ để cho mình buông theo. Nhưng tôi cũng - thật thà
mà nói - tin cậy Dick; nó làm tôi phục nó về đầu óc rất thực tế, kiểu đàn ông
cứng rắn và tôi thì cũng cần tiền như nó. Tôi muốn có tiền rồi đi Mexico. Nhưng
tôi hy vọng có thể làm mà không phải dùng đến bạo lực. Tôi thấy nếu như chúng
tôi đeo mặt nạ vào thì chắc là được. Chúng tôi cãi nhau về chuyện này. Trên
đường tới đó, tới Holcomb, tôi đã muốn đứng lại mua ít bít tất dài bằng lụa đen
để chụp lên mặt. Nhưng Dick cảm thấy đeo mặt nạ vẫn cứ có thể bị nhận ra. Vì
mắt nó kém. Rốt cuộc thì chúng tôi cũng vào thương xá Emporia...”
Duntz
nói, “Perry, từ từ. Anh nhảy bỏ quãng rồi. Hãy lùi lại Olathe. Các anh rời đó đi lúc nào?”
“Một
giờ. Một rưỡi. Chúng tôi rời đi đúng ngay sau bữa trưa và lái tới thương xá Emporia. Chúng tôi mua ở
đấy ít găng tay cao su và một cuộn thừng. Dao và súng, đạn - Dick đã đem tất cả
từ nhà nó theo. Nhưng nó lại không muốn đi tìm bít tất dài đen. Thành ra gần
như tranh cãi. Ở đâu đó cạnh thương xá Emporia, chúng tôi đi qua một bệnh viện
Cơ đốc giáo, tôi thuyết phục nó đỗ lại vào trong đó thử mua của các bà nữ tu
vài đôi bít tất dài đen. Tôi biết đám nữ tu sĩ đi thứ đó. Nhưng nó chỉ vào cho
có thôi. Nó đi ra rồi bảo họ không bán. Tôi chắc chắc nó không hỏi và nó cũng
thú thật là không hỏi; nó bảo cái ý đó thối lắm - các nữ tu sĩ có thể bảo nó
điên. Thế là chúng tôi không dừng lại nữa cho tới Quẹo Lớn. Chúng tôi mua băng
dính ở đó. Ăn tối ở đó, một bữa tú ụ. Khiến tôi buồn ngủ. Khi tôi thức dậy thì
vừa tới Garden City. Trông y như một thị trấn chết cứng rồi ấy. Chúng tôi mua
xăng ở một trạm xăng...”
Dewey
hỏi liệu hắn có nhớ là trạm nào không.
“Chắc
là một trạm Philips 66.”
“Lúc
đó mấy giờ?”
“Khoảng
nửa đêm, Dick bảo còn cách Holcomb hơn bảy dặm. Suốt đoạn đường còn lại, nó cứ
nói một mình, nói chắc là ở đây, chắc là ở kia - theo những chỉ dẫn mà nó còn
nhớ được. Tôi khó nhận ra khi chúng tôi đi ngang qua Holcomb, nó chỉ là một khu
định cư bé tí thôi mà. Chúng tôi băng qua một đường xe lửa. Thình lình Dick
nói, “Đây rồi, nhất định là đây rồi.” Đó là lối vào một con đường riêng, cây
trồng hai bên. Chúng tôi giảm tốc độ và tắt hết đèn xe. Không cần đèn. Vì có
trăng, trên trời chẳng có một thứ gì hết - không một sợi mây, chẳng gì cả. Chỉ
trăng tròn vành vạnh. Y như giữa ban ngày, và khi chúng tôi bắt đầu đi vào con
đường thì Dick nói, ‘Nhìn xem cái dinh cơ bề thế kìa! Các nhà kho! Ngôi nhà!
Đừng bảo tớ là thằng cha đó không có gì chất ở trong nhà đấy nhá.’ Nhưng tôi
không thích cái phi vụ này, cái không khí này, kiểu như là nó quá nguy nga vậy. Chúng tôi đỗ xe
ở dưới một bóng cây. Trong khi chúng tôi đang ngồi ở đó thì một ánh đèn pin bật
lên - không phải ở trong tòa nhà chính mà là một cái nhà có lẽ ở cách đó một
trăm mét về tay trái. Dick nói đó là nhà của người làm thuê, nó biết nhờ các sơ
đồ. Nhưng nó nói cái nhà chết tiệt này lại gần nhà Clutter hơn nó tưởng. Rồi
ánh sáng ấy tắt. Ông Dewey ạ, nhân chứng mà ông nhắc đến. Có phải cái người ông
muốn nói đấy không - người làm thuê ấy?”
“Không.
Ông ta không nghe thấy gì hết. Nhưng vợ ông ấy đang phải trông trẻ ốm. Bà ấy
bảo nhà kia cứ lịch kịch cả đêm.”
“Trẻ
ốm. À, tôi nghĩ ra rồi. Trong khi chúng tôi còn ngồi ở đó, nó lại xảy ra lần
nữa - một ánh đèn lóe lên rồi tắt. Và cái đó làm tôi thật khó chịu. Tôi bảo
Dick đừng tính cả tôi nữa. Nếu nó quyết cứ làm tới thì nó làm lấy một mình. Nó
mở máy xe, chúng tôi đang rời đi thì tôi nghĩ, lạy Chúa, tôi luôn luôn tin ở
linh cảm của mình; nó cứu mạng tôi nhiều lần rồi. Nhưng đi ra được nửa đường
Dick dừng xe lại. Nó đang đau như hoạn. Tôi có thể thấy nó đang nghĩ gì, Đây,
mình đã dựng nên cú vào cầu lớn đến thế này, đây ta đã đi ngần ấy bước này, thế
mà thằng ma cô này lại cáy muốn chuồn. Nó nói, “Mày nghĩ tao không có gan làm
chuyện đó một mình. Nhưng thề có Chúa, tao sẽ cho mày xem thằng nào gan thằng
nào không.” Có một ít rượu mạnh ở trong xe. Chúng tôi mỗi đứa uống một ngụm và
tôi bảo nó, “OK, Dick. Tớ đi với cậu.” Thế là quay lại. Đỗ xe ở chỗ lúc nãy.
Dưới bóng một cái cây. Dick đi găng tay vào, tôi thì đã đi xong rồi. Nó mang
con dao và cái đèn pin. Tôi cầm khẩu súng. Ngôi nhà nom có vẻ ghê gớm trong ánh
trăng. Nom trống không, tôi nhớ mình đã hy vọng đừng có ai ở trong đó cả...”
Dewey
hỏi, “Nhưng anh có thấy một con chó?”
“Không.”
“Gia
đình ấy có một chó già sợ súng. Chúng tôi không hiểu tại sao nó lại không sủa.
Trừ phi nó trông thấy một khẩu súng mà chạy biệt.”
“À,
tôi không thấy một cái gì hay ai sất. Cho nên tôi mới không tin như thế. Về một
người chứng kiến.”
“Không
phải chứng kiến. Nhân
chứng. Một người mà lời khai gộp được anh và Hickock vào với vụ án này.”
“Ô,
u hu. U hu. Hắn ta. Thế mà Dick cứ bảo rằng nó quá sợ rồi đấy. Ha ha!”
Duntz
không bị đánh lạc hướng, anh nhắc lại, “Hickock có con dao. Anh thì súng. Các
anh vào nhà bằng cách nào?”
“Cửa
không khóa. Một cái cửa bên. Nó dẫn chúng tôi vào văn phòng ông Clutter. Chúng
tôi chờ trong bóng tối. Nghe ngóng. Nhưng chỉ có tiếng gió. Có cơn gió nhẹ thổi
bên ngoài. Nó làm cây cối lay động, ta nghe được tiếng lá xào xạc. Cửa sổ duy
nhất được che bằng cửa chớp đóng mở bằng dây kéo, nhưng ánh trăng lọt vào. Tôi
hạ chớp cửa xuống, và Dick bật đèn pin lên. Chúng tôi thấy cái bàn giấy. Cái
két được cho là ở trong tường ngay đằng sau bàn giấy, nhưng chúng tôi tìm không
thấy. Tường thì lát ván gỗ, có những bản đồ đóng khung và sách, trên một cái
giá tôi để ý thấy một cái ống nhòm rất oách. Tôi quyết định sẽ lấy nó khi chúng
tôi rời khỏi đấy.”
“Có
lấy không?” Dewey hỏi vì không ai báo mất ống nhòm.
Smith
gật đầu. “Chúng tôi đã bán nó ở Mexico.”
“Rồi.
Nói tiếp đi.”
“À,
khi chúng tôi tìm không ra cái két, Dick bèn tắt đèn pin và chúng tôi đi trong
tối ra khỏi văn phòng qua một phòng khách nhỏ, một phòng khách to. Dick nói
thầm bảo tôi không đi khẽ hơn được à. Nhưng nó đi cũng ầm như thế. Mỗi bước đi
là một bước lo. Chúng tôi đến một gian sảnh và một cái cửa rồi, nhớ lại bản sơ
đồ, Dick nói đấy là phòng ngủ. Nó bấm đèn và mở cửa. Một người đàn ông nói,
‘Cưng hả?’ Ông ta đang ngái ngủ, và ông ta chớp mắt nói, ‘Em đấy phải không
cưng?’ Dick hỏi, ‘Ông là ông Clutter?’ Giờ thì ông ta tỉnh hẳn rồi, bèn ngồi
dậy nói. ‘Ai đấy? Anh muốn gì?’ Dick bảo, rất lịch sự, tựa như chúng tôi là hai
anh đi rao hàng tận nhà. ‘Chúng tôi muốn nói chuyện với ông. Trong phòng làm
việc của ông, xin mời.’ Và ông Clutter, chân không, mặc mỗi bộ pijama liền đi
với chúng tôi sang phòng làm việc, chúng tôi bật đèn ở đó lên.
Cho
đến lúc đó, ông vẫn chưa nhìn được rõ chúng tôi lắm. Tôi nghĩ khi nhìn thấy thì
ắt là ông choáng lắm. Dick nói, ‘Bây giờ, thưa ngài, chúng tôi chỉ muốn ngài
chỉ cho chúng tôi cái két ngài giữ ở đâu.’ Nhưng ông Clutter nói, ‘Két nào?’
Ông ta nói không có két nào sất. Ông ta có cái kiểu bộ mặt như thế. Tôi biết
ngay bất cứ cái gì ông ta nói đều là sự thật mười mươi cả. Nhưng Dick quát ông
ta, ‘Đừng nói dối, đồ chó đẻ! Tôi biết tỏng là ông có một cái két.’ Cảm tưởng
của tôi là chưa ai nói với ông Clutter như thế bao giờ. Nhưng ông nhìn thẳng vào
mặt Dick và bảo nó, rất nhẹ nhàng - nói, chà, ông ta rất tiếc nhưng thật tình
là ông không có két nào cả. Dick đập đập con dao vào ngực ông ta nói. ‘Chỉ cho
bọn tôi chỗ cái két không thì sẽ bị rầu hơn đấy.’ Nhưng ông Clutter... ồ, ông
có thể thấy ông ta sợ như thế nào, nhưng giọng ông vẫn nhỏ nhẹ ôn tồn, ông vẫn
cứ chối là không có két.
Vào
trong đấy được đâu chừng một lát thì tôi thấy cái điện thoại. Cái ở trong văn
phòng. Tôi giật đứt dây đi. Và tôi hỏi ông Clutter có còn cái điện thoại nào
trong nhà không. Ông ta bảo có một cái ở trong bếp. Thế là tôi cầm đèn pin vào
trong bếp - từ văn phòng đến đó cũng xa đấy. Khi tìm thấy điện thoại, tôi nhấc
ống nghe ra và cắt dây bằng một cái kìm. Rồi quay lại, tôi nghe thấy một tiếng
động. Một tiếng kẹt ở trên đầu. Tôi dừng lại ở chân cầu thang lên tầng hai. Tối
om, mà tôi lại không dám dùng đèn pin. Nhưng tôi biết là có người ở đó. Trên
cầu thang, bóng hiện lên nền cửa sổ. Một hình người. Rồi nó đi khuất.”
Dewey
nghĩ đó chắc là Nancy.
Trên cơ sở chiếc đồng hồ vàng nhét vào trong mũi giày để trong tủ con của cô,
ông vẫn lập luận rằng Nancy đã thức giấc, nghe thấy có người ở trong nhà, nghĩ
có thể là kẻ trộm, bèn giấu chiếc đồng hồ, món tài sản quý giá nhất của cô đi.
“Tôi
đoán có thể đây là một người nào đó có súng. Nhưng Dick chẳng thiết nghe tôi.
Nó đang bận đóng vai thằng lưu manh dữ dằn. Đẩy ông ta đi khắp. Bây giờ nó đã
điệu ông ta về phòng ngủ. Nó đếm tiền trong ví ông ta. Có khoảng ba chục đô la.
Nó vất cái ví lên giường rồi bảo ông Clutter, ‘Ông phải có nhiều tiền hơn thế
này ở trong nhà chứ. Giàu như ông cơ mà. Sống trong dinh cơ rộng như thế này cơ
mà.’ Ông Clutter nói đó là tất cả tiền mặt ông có, giải thích rằng ông luôn
luôn chỉ dùng séc thanh toán các món. Ông bảo sẽ viết một khoản tiền vào séc
cho chúng tôi. Dick nổi cáu lên ngay - ‘Ông nghĩ chúng tôi là những thằng ngu
hay sao hả?’ - và tôi nghĩ chắc Dick sẵn sàng đập ông ta rồi nên tôi bèn nói,
‘Dick, nghe tớ. Có ai đó thức ở trên gác đấy.’ Ông Clutter bảo chúng tôi người
ở trên gác chỉ có vợ ông ta, cậu con trai và cô con gái. Dick muốn biết liệu vợ
ông ta có tiền không và ông ta nói nếu có thì cũng ít lắm, vài đô la, rồi ông
ta đề nghị chúng tôi - đúng là kiểu như suy sụp - xin đừng làm phiền bà ta vì
bà ta là người tàn phế bị ốm nặng lâu nay rồi. Nhưng Dick cứ đòi lên gác. Nó
bắt ông Clutter dẫn đi.
Đến
chân cầu thang ông Clutter bật đèn thắp sáng gian sảnh bên trên và trong khi
chúng tôi lên gác ông ta nói, ‘Tôi không hiểu tại sao các anh lại muốn làm như
thế. Tôi chưa bao giờ làm hại gì các anh. Tôi chưa bao giờ biết các anh.’ Dick
bèn bảo ông, ‘Câm! Khi chúng tao cần mày nói, chúng tao sẽ bảo.’ Không có ai ở
trong gian sảnh trên gác, tất cả các cửa đều đóng. Ông Clutter chỉ hai phòng mà
ông nghĩ là con trai với con gái ông ngủ rồi mở cửa buồng vợ ra. Ông bật đèn
bên cạnh giường lên và bảo bà, ‘Không sao cả, cưng. Đừng sợ. Những người này,
họ muốn ít tiền.’ Bà vợ là một phụ nữ yếu ớt, mảnh khảnh mặc bộ váy ngủ dài màu
trắng. Ngay khi mở mắt, bà liền khóc. Bà ta bảo: