Máu Lạnh - Phần IV - Chương 9

Sáng hôm sau
hắn xin một cốc sữa, chất dinh dưỡng đầu tiên hắn tự nguyện nhận lấy trong mười
bốn tuần qua. Dần dần, nhờ một chế độ ăn toàn rượu nóng đánh trứng và nước cam
vắt, hắn lấy lại trọng lượng; tháng Mười, bác sĩ nhà tù, Robert Moore, cho rằng
hắn đã đủ sức khỏe để quay về với Dãy. Khi hắn tới đó. Dick cười lớn nói, “Bồ
à, hoan nghênh bồ về nhà.”

Hai
năm trôi qua.

Wilson và Spencer ra đi, để
Smith, Hickock và Andrews ở lại một mình với những bóng đèn thắp sáng và cửa sổ
bịt bùng của Dãy. Những đặc quyền tù thường được hưởng đều bị cấm hết với
chúng; không rađiô hay bài bạc, không cả giờ vận động - đúng vậy, chúng không
bao giờ được phép ra ngoài xà lim, trừ mỗi thứ Bảy được đưa đến buồng tắm để
tắm táp rồi lĩnh quần áo cho cả tuần; các dịp duy nhất khác được ra ngoài chốc
lát là những cuộc viếng thăm năm thì mười họa của luật sư hay họ hàng. Bà
Hickock một tháng đến một lần; chồng bà đã chết, bà đã mất cái trại, và như bà
nói với Dick, bây giờ bà sống nay với người họ hàng này mai với người họ hàng kia.

Perry
thấy hình như hắn đang sống “ở sâu dưới nước” - có thể vì Dãy lúc nào cũng xam
xám và yên tĩnh như đáy đại dương, không một âm thanh trừ tiếng ho, tiếng ngáy,
tiếng chân lướt thở dài, tiếng chim bồ câu sột soạt làm tổ trong các bức vách
nhà tù. Nhưng không phải là luôn luôn. Dick viết trong một bức thư gửi mẹ, “Đôi
khi mình không thể nghe được cả tiếng mình nghĩ nữa. Họ ném người vào trong
những xà lim tầng dưới, nơi họ gọi là hố, và nhiều người đấu tranh đến phát
điên phát rồ lên để được đưa ra. Chửi rủa, la hét suốt ngày đêm. Không thể chịu
nổi, cho nên ai cũng quát câm đi. Con mong mẹ gửi cho con cái tai nghe. Có điều
họ sẽ không cho phép con được có. Không cho bọn tội đồ nghỉ ngơi, chắc họ nghĩ
vậy.”

Ngôi
nhà bé nhỏ này đã sừng sững hơn một thế kỷ, những thay đổi thời tiết đã gây nên
những triệu chứng khác nhau cho cái tính cổ lão lâu đời của nó; cái rét mùa
đông ngấm đẫm bão hòa vào những thứ cố định bằng sắt và đá, mùa hè, khi nhiệt
độ thường lên tới hơn bốn mươi, các xà lim cũ kỹ thành ra những cái lò hôi hám.
“Nóng đến nỗi da con nổi rôm hết cả lên,” Dick viết trong một lá thư đề ngày
mồng 5 tháng Bảy năm 1961. “Con cố không động đậy nhiều. Con chỉ ngồi trên sàn.
Giường con đầy mồ hôi không nằm được, cái mùi của nó làm con ốm vì chỉ tắm một lần
một tuần và luôn luôn mặc có một bộ quần áo. Không có chút thông thoáng nào
hết, đèn sáng lại làm cho mọi cái càng nóng lên thêm. Rệp cứ nhảy ở trên tường.”

Không
giống tù thường, tử tù không phải làm việc; họ thích làm gì thì làm - ngủ suốt
ngày, Perry thường thế (“Tôi làm bộ như tôi là một đứa nhóc bé tí không làm sao
mở mắt ra cho được”); hoặc như thói quen của Andrews, đọc suốt đêm. Andrews đọc
trung bình mỗi tuần mười lăm đến hai chục quyển sách; gu của hắn bao gồm cả
truyện lăng nhăng lẫn văn chương thứ
thiệt
, hắn thích thơ, đặc biệt là của Robert Frost, nhưng hắn cũng
khâm phục Whitman, Emily Dickinson yà thơ hài hước của Ogden Nash. Tuy rằng cơn
khát văn chương chữ nghĩa không thể dập tắt của hắn đã mau chóng làm rỗng không
các giá trong thư viện nhà tù, song cha cố nhà tù và những người khác có thiện
cảm với Andrews vẫn cứ cung cấp từng gói từng gói từ thư viện công cộng Kansas City đến cho hắn.

Dick
cũng khá là mọt sách; nhưng niềm thích thú của hắn chỉ bó vào hai chủ đề - tình
dục, như được trình bày ở tiểu thuyết của Harold Robbins và Irving Wallace (sau
khi mượn một quyển trong số này của Dick, Perry bèn gửi trả với một lời phê bất
bình: “Cứt đái sa đọa cho những đầu óc sa đọa cứt đái!”) và cả luật nữa. Hắn
ngốn hàng giờ vào việc giở hết từng trang sách luật, sưu tầm những công trình
nghiên cứu mà hắn hy vọng sẽ giúp đảo lật được bản án đã tuyên cho hắn. Cũng
vậy, trong việc theo đuổi mục đích đó, hắn đã nã đi một loạt đạn là những bức
thư cho các tổ chức như Liên hiệp các Quyền Tự do Dân sự Mỹ và Hiệp hội Luật
gia bang Kansas - những bức thư công kích việc xét xử hắn là một “sự ngụy trang
cho hợp thức”, kêu gọi người nhận thư giúp hắn yêu cầu mở một cuộc xét xử mới.
Perry cũng xiêu lòng mà đưa ra yêu cầu tương tự, nhưng khi Dick gợi ý Andy hãy làm
theo bằng cách nhân danh mình viết thư phản đối thì Andrews đáp, “Tôi lo cho
cái gáy của tôi, các anh lo cho cái gáy của các anh.” (Thật ra, gáy không phải
là bộ phận trên cơ thể làm cho Dick lo ngại trước mắt. “Tóc con cứ rụng ra từng
nắm tay này,” hắn tâm sự với mẹ trong một bức thư khác. “Con sợ, theo như con
nhớ không ai trong gia đình ta bị hói, cho nên ý nghĩ mình là một anh già hói
xấu xí làm cho con sợ.”)

Hai
người gác đêm của Dãy, đến làm việc vào một tối mùa thu năm 1961, có một mẩu
tin. “À,” một người trong họ cho hay, “hình như các anh có thể chờ có bạn đấy.”
Hàm ý của cái nhận xét này thật rõ ràng với cử tọa của ông ta: nó có nghĩa là
hai người lính trẻ, vốn phải hầu tòa về vụ giết công nhân đường sắt Kansas, đã nhận được lời
tuyên án cuối cùng. “Vâng,” người gác nói, xác nhận điều đó, “họ chịu án tử
hình.” Dick nói, “Chắc rồi. Cái đó rất phổ biến ở bang Kansas này. Các bồi thẩm đoàn chìa mòn này
ra y như chìa kẹo cho trẻ con ấy mà.”

Một
trong hai người lính, George Ronald York, mười tám tuổi; đồng sự của hắn, James
Douglas Latham, hơn một tuổi. Cả hai đều đặc biệt đẹp trai, có lẽ điều này giải
thích tại sao cả bầy con gái chưa tới hai mươi đổ đến dự phiên tòa xét xử
chúng. Tuy bị bắt vì một vụ giết người duy nhất, nhưng cả hai tuyên bố có tới bảy
nạn nhân trong một chuyến việt dã giết người thả dàn xuyên quốc gia.

Ronnie
York, tóc vàng mắt xanh, ra đời và lớn lên ở Florida, bố hắn là một thợ lặn ngoài khơi
nổi tiếng và được trả lương hậu. Nhà York có cuộc sống gia đình đầy đủ dễ chịu,
và Ronnie, được bố mẹ và một cô em gái quá yêu chiều, là trung tâm được sủng ái
tôn sùng của cuộc sống gia đình ấy. Lai lịch của Latham thì lại ở cực đối lập,
về mọi mặt đều thê lương như của Perry Smith vậy. Ra đời ở Texas, hắn là đứa út của ông bố bà mẹ mắn
đẻ, nghèo kiết và sưng sỉa, rốt cuộc cũng bỏ nhau, để mặc lũ con tự xoay xở
lấy, tan tác mỗi đứa một nơi, lêu lổng chẳng ai đoái hoài như những cái bèo cái
bọt. Mười bảy tuổi, cần một chỗ trú, Latham vào lính; hai năm sau, tội đào ngũ
bị phát hiện, hắn bị giam ở nhà kỷ luật ở Fort
Hood, Texas. Ở đấy
hắn gặp Ronnie York, cũng đang bị giam vì tội đào ngũ. Tuy chúng rất khác nhau
- cả về hình thể, York cao to, phớt lạnh, còn Latham thấp bé với đôi mắt cáo
màu nâu làm khuôn mặt nhỏ nhắn chắc nịch trở nên linh hoạt - song chúng thấy có
chia sẻ với nhau ít nhất một ý kiến vững bền: thế giới thật đáng ghét, mọi
người trên thế giới tốt nhất là nên chết quách đi. “Đây là một thế giới thối
nát,” Latham nói. “Với nó chẳng có lời đáp nào ngoại trừ hèn hạ, ti tiện. Đó là
điều mọi người đều thấu hiểu cả: sự hèn hạ, ti tiện. Đốt sập nhà kho của người
ta đi - người ta sẽ hiểu đấy. Đánh bả con chó của lão ta đi. Giết lão đi.”
Ronnie nói với Latham là “Đúng trăm phần trăm,” và thêm, “Nói gì thì nói, cậu
giết ai là cậu đang gia ân cho nó đấy.”

Người
đầu tiên chúng chọn để gia ân cho là hai người đàn bà bang Georgia, những bà
nội trợ đáng kính chẳng may gặp phải York và Latham không lâu sau khi đôi này
trốn khỏi trại giam Fort Hood, ăn cắp một xe tải nhỏ lái đến Jacksonville, bang
Florida, thị trấn quê của York. Nơi gặp gỡ là một trạm xăng Esso ở vùng ngoại
vi tối tăm của Jacksonville;
thời gian là đêm 29 tháng Năm 1961. Ban đầu, hai tên lính bỏ trốn đến thành phố
Florida với ý định thăm gia đình York; nhưng khi đến đó, York quả quyết rằng tiếp xúc với bố mẹ hắn là
không khôn ngoan, bố hắn lắm lúc lại nổi cơn cáu kỉnh. Hai đứa bàn lui bàn tới
chuyện này, rồi New Orleans
trở thành điểm đến mới khi chúng đỗ lại trạm xăng Esso để đổ xăng. Cạnh chúng,
một chiếc xe khác đang hút xăng; trên xe có hai người đàn bà sẽ là nạn nhân,
sau một ngày mua sắm và vui chơi ở Jacksonville, hai bà đang quay về nhà ở một
thị trấn nhỏ gần biên giới Florida và Georgia. Than ôi, họ bị lạc đường. Được
họ hỏi đường, York
chỉ vẽ rất tận tình: “Các bà cứ theo tụi tôi. Cứ theo tụi tôi là ra tới đúng
đường.” Nhưng con đường chúng đưa họ vào thật ra là rất sai: một lối chật hẹp
rẽ sang bên dẫn tới đầm lầy. Tuy thế, hai người đàn bà vẫn tin cậy theo sau,
cho tới khi chiếc xe dẫn đường dừng lại và, trong ánh đèn xe, hai thanh niên
tốt bụng kia đi đến gần họ và họ thấy, mặc dù lúc đó mới thấy thì đã quá muộn,
ràng mỗi thằng đang vũ trang một cái roi chăn bò màu đen. Hai cái roi này là
tài sản của người trông coi hợp pháp của chiếc xe bị ăn cắp, một người chăn
nuôi gia súc; chính Latham nảy ý dùng hai cái roi này làm dây thắt cổ họ - điều
mà sau khi trấn lột, chúng đã làm. Hai đứa đã mua ở New Orleans một khẩu súng lục và khắc hai cái
gạch ở trên báng súng.

Trong
vòng mười ngày tiếp đó có những vạch mới được khía thêm cho Tullahoma bang
Tennessee, nơi chúng đã có một chiếc Dodge khỏe, có thể bỏ mui, màu đỏ, bằng
cách bắn chết người chủ, một người bán hàng lưu động; và ở ngoại ô St. Louis
bang Illinois, hai người nữa đã bị giết. Nạn nhân Kansas, tiếp theo năm người
trên, là một người đàn ông, Otto Ziegler, sáu mươi hai tuổi, lực lưỡng, dễ mến,
kiểu người không thể đi qua những ai đang hỏng xe mà lại lờ đi không dừng lại
giúp. Trong khi lượn vòng vèo dọc một xa lộ Kansas vào một sáng tươi đẹp tháng
Sáu, ông Ziegler nhác thấy một chiếc xe bỏ mui trần đang đỗ bên đường, nắp xe
dựng lên, hai thanh niên bảnh bao đang loay hoay với cỗ máy. Làm sao ông
Ziegler tốt bụng lại biết cỗ máy chẳng có hỏng hóc gì - làm sao ông biết được
rằng đây là một cái bẫy bày ra để trấn lột và giết những con người sẵn lòng từ
thiện? Câu nói cuối cùng của ông là, “Tôi giúp được gì không?” Ở cách bảy mét, York cho một viên đạn
xuyên qua sọ ông già rồi quay sang bảo Latham, “Bắn giỏi chứ hả?”

Nạn
nhân cuối cùng của chúng mới là bi thảm nhất. Đó là một cô gái, mới mười lăm
tuổi; cô làm người phục vụ ở một khách sạn nhỏ ven xa lộ tại Colorado, nơi hai
tên giở chứng điên khùng ngủ lại, và đêm đó cô để cho chúng làm tình sau đó
chúng bảo cô chúng đang trên đường đi California và mời cô đi cùng. “Đi,”
Latham giục cô, “có thể cả ba chúng ta cuối cùng sẽ là ngôi sao màn bạc hết
đấy.” Cô và cái va li các tông xếp vội vàng rốt cuộc chỉ còn là một đống giập
nát đẫm máu dưới một đáy vực gần Craig bang Colorado; nhưng sau khi cô bị bắn chết và
vứt xuống đó không đến nhiều giờ, những kẻ sát hại cô đang thực sự trình diễn
trước máy quay.

Các
miêu tả về những người ngồi trong chiếc xe đỏ do các nhân chứng cung cấp - họ
để ý thấy chúng lảng vảng trong khu vực tìm thấy xác Otto Ziegler - đã được
tống đạt đi khắp tất cả bang Trung Tây và Tây. Rào ngăn đường được dựng lên,
máy bay lên thẳng tuần tra các xa lộ; chính nhờ một rào ngăn đường ở bang Utah mà người ta đã tóm được York và Latham. Sau đó, ở Sở Chỉ huy Cảnh sát
Salt Lake City,
một công ty truyền hình sở tại được phép quay một buổi hỏi cung hai tên. Kết
quả, nếu như xem ti vi không lời thì chẳng khác gì chương trình về hai vận động
viên điền kinh được nuôi bằng sữa đang hớn hở thảo luận về bóng chày hay khúc
côn cầu - bất cứ cái gì trừ giết người và trừ cái vai trò chúng sắm trong cái
chết của bảy người, cái vai mà chúng thú thật một cách dương dương tự đắc. “Tại
sao,” người lấy cung hỏi, “tại sao các anh làm thế?” Thì York, với một nụ cười
tự tán thưởng, trả lời, “Chúng tôi ghét thế giới này.”

Cả
năm bang tranh nhau quyền khởi tố York và Latham
đều tán thành y án tử hình theo pháp luật: Florida
(ghế điện), Tennessee (ghế điện), Illinois (ghế điện), Kansas
(treo cổ) và Colorado
(hơi ngạt). Nhưng vì có bằng chứng vững vàng nhất, Kansas thắng cuộc.

Những
kẻ trên Dãy gặp các bạn đường mới của chúng vào ngày mồng 2 tháng Mười một năm
1961. Khi giải những kẻ mới đến vào xà lim của chúng, một người gác giới thiệu
như sau: “Ông York, ông Latham, tôi muốn mấy ông làm quen với ông Smith đây, và
ông Lowell Lee Andrews - chàng trai hay nhất Wolcott!”

Khi
cuộc diễu hành đã xong, Hickock nghe thấy Andrews cười khùng khục bèn nói, “Có
cái gì ngộ ngộ nơi thằng chó đẻ ấy thế?”

“Chẳng
gì cả,” Andrews đáp. “Chỉ là tớ đang nghĩ, thử đếm xem tớ là ba đứa cậu thì bốn
đứa còn tụi kia bảy đứa, thế là thành ra mười bốn đứa chết còn tụi mình năm.
Như vậy tính bình quân năm trên mười bốn...”

Bốn trên mười bốn,” Hickock chỉnh
lại cộc lốc. “Có bốn đứa giết người ở trên này và một người bị bỏ tù oan. Tôi
không phải là đứa giết người khốn kiếp. Tôi không đụng đến một sợi tóc ở trên
đầu ai bao giờ.”

Hickock
tiếp tục viết thư phản đối việc kết án hắn, và cuối cùng một bức đã có kết quả.
Người nhận, Everett Steerman, Chủ tịch ủy ban Trợ giúp: Pháp lý của Hiệp hội
Luật gia Bang Kansas
đã bị những lý sự của người gửi quấy rầy, anh ta khăng khăng rằng anh ta và bị
cáo đồng phạm đã không được hưởng một cuộc xét xử công minh. Theo lời Hickock,
“không khí thù nghịch” ở Garden City đã làm cho một bồi thẩm đoàn đầy thành
kiến được đứng ra xét xử, do đó cần phải đổi địa điểm xử án cũng như đổi bồi
thẩm đoàn, về các bồi thẩm được chọn ra thì ít nhất hai người đã rõ ràng cho
thấy là mang sẵn định kiến “có phạm tội” ngay trong buổi đầu thẩm vấn kiểm tra
tư cách (“Khi được yêu cầu tuyên bố ý kiến về hình phạt tử hình, một người đã
nói bình thường ông ta phản đối nhưng trong vụ này thì ông tán thành”), không
may là buổi thẩm vấn đã không được ghi âm vì luật ở bang Kansas không đòi hỏi
như thế, trừ phi có yêu cầu đặc biệt. Hơn nữa, nhiều bồi thẩm lại “là chỗ rất
quen biết với người chết. Cả quan tòa cũng vậy. Thẩm phán Tate là bạn thân
thiết của ông Clutter.”

Nhưng
Hickock nhằm vào hai vị luật sư của bên bị, Arthur Fleming và Harrison Smith mà
giáng đòn bẩn nặng cân nhất, “sự bất tài và không xứng đáng” của hai người này
là nguyên nhân chính cho tình thế gay go hiện tại của người đứng đơn đây, vì
thật ra hai người này đã không hề chuẩn bị hay đưa ra lời bào chữa nào, sự
thiếu cố gắng ấy có thể ngầm hiểu là có dụng ý - một hành vi cấu kết giữa bên
bị và bên khởi tố.

Đây
là những lời khẳng định nghiêm trọng, phản ánh tính trung thực của hai luật gia
được kính trọng và một vị thẩm phán địa phương có uy tín, nhưng cho dù chỉ đúng
phần nào thì quyền lợi hợp hiến của các bị cáo cũng đã bị xâm phạm. Được ông
Steerman giục giã, Hiệp hội Luật gia đã bắt tay vào một công việc chưa từng có
tiền lệ trong lịch sử pháp luật bang Kansas: họ đề bạt Russell Shultz, một luật
sư trẻ ở Wichita điều tra vụ xét xử này, và nếu có bằng chứng bảo đảm thì bác
bỏ tính hiệu lực của bản án bằng cách đưa lên Tòa án Tối cao Bang Kansas theo
nghi thức habeas corpus tức đình quyền giam giữ, không chấp thuận giam giữ bị
cáo.

Rồi
thì hóa ra cuộc điều tra của Shultz lại khá là phiến diện, vì ông này chỉ phỏng
vấn Smith và Hickock mỗi một lần, sau đó luật gia này xuất hiện trước báo giới
với những lời lẽ thật hùng hồn: “Vấn đề là thế này - liệu các bị cáo tội nghiệp
rõ ràng là đã phạm tội này có quyền được bào chữa hoàn toàn hay không? Tôi
không tin là cái chết của những người chống án này lại sẽ gây tổn hại lớn lao
hoặc lâu dài đến bang Kansas.
Nhưng tôi tin rằng cái chết của quy trình pháp lý hợp thức thì sẽ khiến bang Kansas không thể nào hồi
phục nổi đâu.”

Shultz
nộp đơn kiến nghị không chấp nhận án đã ban bố, và Tòa án Tối cao Bang Kansas trao cho một luật
gia về hưu của bang, ông Walter G. Thiele khả kính, quyền chủ trì một phiên
phúc thẩm. Thế là gần hai năm sau phiên xử, toàn thể bộ sậu lại tập hợp trong
phòng xử án ở Garden City. Những người quan trọng duy nhất vắng mặt là hai bị
cáo ban đầu; thay vào chỗ họ là Thẩm phán Tate, ông già Fleming và Harrison
Smith mà sự nghiệp đang lâm nguy - không phải vì tự thân lý lẽ của bị cáo mà vì
sự tín nhiệm của Hiệp hội Luật gia dành cho họ.

Phiên
tòa phúc thẩm này có thời điểm được chuyển đến Lansing, ở đấy Thẩm phán Thiele
nghe lời chứng của Smith và Hickock, kéo dài sáu ngày mới hết; cuối cùng, mọi
điểm đều được xem xét tới nơi tới chốn. Tám bồi thẩm thề rằng họ không quen một
ai trong cái gia đình bị sát hại ấy; bốn người thừa nhận có quen biết sơ sơ ông
Clutter nhưng từng người, kể cả ông N. L. Dunnan, nhân viên điện đài sân bay
từng trả lời mâu thuẫn trong lần thẩm vấn sơ bộ, đều chứng thực rằng mình vào
bồi thẩm đoàn một cách hoàn toàn vô tư không thành kiến. Shultz nói kháy
Dunnan: “Ông có cảm thấy muốn đến phiên tòa cùng với một vị bồi thẩm mà tâm
trạng giống như tâm trạng mình không?” Dunnan nói có, ông muốn; thế là Shultz
bèn nói, “Ông có nhớ rằng ông đã được hỏi là tán thành hay phản đối án tử hình
không?” Nhân chứng gật đầu trả lời, “Tôi có bảo là trong tình huống bình thường
chắc tôi sẽ phản đối. Nhưng với tầm mức to lớn của vụ án này thì chắc tôi bỏ
phiếu tán thành.”

Gây
khó dễ với Tate thì khó hơn: Shultz sớm nhận ra mình đang nắm đuôi cọp. Trả lời
các câu hỏi liên quan đến tình cảm được cho là thân mật của mình với ông
Clutter, vị thẩm phán nói, “Ông ấy (Clutter) từng có lần kiện ở tòa này, vụ đó
tôi chủ trì, một hành động gây hại dính líu đến một chiếc máy bay rơi vào điền
thổ của ông ấy, ông ấy kiện vì bị tổn hại, đâu như vài cây ăn quả gì đấy...
Ngoài chuyện ấy ra, tôi không có dịp nào gần gũi hay liên hệ gì với ông ấy
hết. Chẳng có bất cứ việc gì.
Trong vòng một năm tôi gặp ông ấy cỡ chừng một hai lần...” Shultz lúng túng
chuyển đề tài. “Ông có biết thái độ của dân chúng ở cộng đồng này là thế nào
sau khi hai người kia bị bắt không?” anh ta hỏi.

“Tôi tin là biết,” vị thẩm phán nói với sự quả quyết đầy miệt thị. “Ý kiến của tôi là thái độ đối với họ là thái độ đối với bất cứ ai chịu trách nhiệm về một cáo buộc hình sự - rằng họ phải được xét xử theo pháp luật; rằng nếu có tội thì họ phải bị kết án; rằng họ phải được xét xử công minh như bất cứ ai. Không có thành kiến gì với họ bởi vì họ đã bị khép tội.”

“Ý ông là,” Shutlz ranh mãnh nói, “ông không thấy có lý do nào để tòa tán thành việc thay đổi nơi xử án theo chính đề nghị của tòa?” Môi Tate bặm xuống, mắt quắc lên. “Ông Shultz,” ông nói, cái tên nghe cứ như một tiếng xì kéo dài, “tòa không thể tự nó thay đổi nơi xét xử. Cái đó là trái với luật pháp bang Kansas, tôi không thể thay đổi nếu như không có một yêu cầu hợp thức.”

Nhưng tại sao các luật sư bào chữa cho bị cáo lại không đưa ra yêu cầu đó? Giờ thì Shultz đeo đuổi câu hỏi này với chính các luật sư của bị cáo, hỏi vì, theo quan điểm của ông luật sư từ hạt Wichita đến, mục đích chính của phiên tòa phúc thẩm này là làm bẽ mặt các luật sư của bị cáo và chứng minh họ đã không hề có sự bảo vệ nào dù tối thiểu cho thân chủ của họ. Fleming và Smith chịu đòn một cách đường hoàng, nhất là Fleming, thắt cái cà vạt màu đỏ gắt gay và nở nụ cười muôn thuở, ông nghe Shultz công kích với vẻ nhẫn chịu của kẻ hào hoa phong nhã. Giải thích tại sao mình không xin thay đổi nơi xử, ông nói: “Tôi cảm thấy từ khi Đức Cha Cowan, Cha chánh xứ Nhà thờ Giám lý, một con người có phẩm chất tại đây, một con người với địa vị cao quý, cũng như nhiều vị giáo sĩ khác ở đây, đã tự bày rõ là phản đối án tử hình, rằng ít nhất chất gây men đã có ở trong khu vực này, và so với các nơi khác của bang thì xem ra dân chúng ở đây thiên về khoan dung trong vấn đề hình phạt. Vậy nên tôi tin vào tuyên bố của anh trai bà Clutter được đăng trên báo, cho hay rằng ông không cảm thấy nên cho các bị cáo án tử hình.”

Shultz có nhiều chiêu công kích, nhưng nằm bên dưới tất cả là cái ngụ ý rằng Fleming và Smith đã cố tình bỏ lơ nghĩa vụ của họ do sức ép của cộng đồng. Cả hai người - Shultz kiên trì lặp lại ý kiến này - đã phản bội thân chủ của mình qua việc không bàn bạc đầy đủ với họ (ông Fleming đáp lại, “Tôi đã làm hết sức mình trong vụ án này, bỏ vào nhiều thời gian hơn phần lớn các vụ khác”), qua việc từ chối phỏng vấn sơ bộ bị cáo (Smith trả lời, “Nhưng thưa ngài, vào lúc từ chối đó cả Fleming lẫn tôi đều chưa được chỉ định tham gia bào chữa”); qua việc có những nhận xét với báo chí bất lợi cho bị cáo (Shultz nói với Smith: “Ông có biết là một phóng viên, Ron Kull ở tờ Topeka Daily Capital, vào hôm thứ hai của phiên tòa đã dẫn lời ông rằng ông không nghi ngờ gì về tội của Hickock mà chỉ bận tâm tới việc giành án tù chung thân thay vì án tử hình không?” Smith đáp lời Shultz: “Không. Nếu người ta dẫn lời tôi như vậy thì là dẫn không đúng đâu”); và qua việc đã không chuẩn bị một cuộc bào chữa thích đáng.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3