Trọng tử (Tập 2) - Chương 31 - Phần 2
Một cỗ xe ngựa lộng lẫy, xa hoa tiến tới gần khiến ai nấy đều phải chú ý. Gã phu xe nhanh chóng nhảy xuống, dẫn đầu đám thị vệ nghênh ngang, hống hách bước tới, thỉnh thoảng còn lớn tiếng xua đuổi những người đang đứng xung quanh.
“Đúng là Cửu công chúa ư?”
“Trên thánh chỉ có viết, Hoàng thượng muốn đưa Cửu công chúa bái nhập Tiên môn, nhìn những thứ này cũng đủ biết đó là công chúa rồi, còn ai vào đây được nữa!”
“Thật sao?”
…
Đã là người của hoàng thất thì không ai dám động vào, đám người tự giác đứng dẹp sang một bên để nhường đường, thì thầm bàn tán. Hóa ra từ lúc xảy ra chuyện hồ yêu vào hoàng cung làm loạn, triều đình đã vô cùng chú trọng tới việc này, đối với Tiên môn cũng hết mực tôn sùng, thế nên Hoàng thượng đã dứt khoát đưa Cửu công chúa mà người yêu thương nhất đến Nam Hoa bái sư.
“Tất cả những gì nhìn thấy, nghe thấy dọc đường đi đều là giả, chẳng qua các tiên trưởng đang khảo nghiệm năng lực của các con mà thôi, nhớ kĩ chưa?”
“Con biết rồi, biết rồi!”
Dẫu sao thì lần này cũng có rất nhiều người tới ứng thí, muốn bái được sư phụ danh tiếng lẫy lừng là chuyện không dễ chút nào, các bậc phụ huynh luôn miệng căn dặn lũ trẻ, còn bọn trẻ nghe nhiều quá hóa nhàm, chỉ bĩu môi vẻ khó chịu.
Chẳng mấy chốc đã tới giờ mở cánh cổng vào Tiên môn, mặt đất bỗng rung chuyển dữ dội, cánh cổng đá biến mất, trước mặt hiện ra một khu rừng sâu thăm thẳm.
Cách đó mười dặm, có một đứa bé gái bê một chiếc bát sứt vội vã chạy đi, khuôn mặt nhỏ nhắn vã mồ hôi, lem luốc, bẩn thỉu, gần như không còn nhìn ra gương mặt nó như thế nào nữa. Thì ra, ngày đầu tiên tách khỏi lão nô bộc để đi một mình, con bé không may gặp phải một toán cướp hung hăng, may mà có sợi tua kiếm của Tần Kha cho trước đó nên mới bình an vô sự. Để không ai chú ý tới mình, nó đã nghĩ ra cách giả vờ làm một đứa trẻ ăn mày, chẳng ai rỗi hơi mà lại có ý đồ xấu với một đứa trẻ ăn mày cả. Đáng lẽ con bé sẽ không đến muộn nhưng chẳng hiểu sao mấy ngày nay nó toàn gặp xui xẻo, dọc đường đi bị lừa gạt, chòng ghẹo không biết bao nhiêu lần, rõ ràng muốn đi hướng đông nhưng người đi đường lại chỉ cho nó đi hướng tây, hại con bé phải chạy oan mất mấy quãng đường. Hôm nay là ngày Nam Hoa Tiên môn mở cổng đón nhận đệ tử mới, không thể bỏ lỡ được, nếu bỏ lỡ thì khác nào bao nhiêu ngày qua nó đã bôn ba uổng công cơ chứ!
Bỗng trên con đường trước mặt có một người đứng chắn ngang. Đó là một nam nhân, vóc người cao ráo, khoác áo choàng đen, vạt áo chùng quét đất, thân hình cân đối, bóng lưng thon dài rất đẹp. Đây chắc chắn không phải là một nông dân quen việc đồng áng, dân trong thôn sao có thể đứng một mình ở nơi hoang vu, lạnh lẽo như thế này được, bên cạnh cũng không có xe ngựa hay người hầu. Con bé tỏ ra cảnh giác, vội vàng muốn lùi lại nhưng xung quanh không hề có ai khác để có thể hỏi đường, nó đành phải bê cái bát sứt tiến lên dò xét: “Lão tiên sinh?”
Người nọ xoay mặt lại. Con bé bất giác lùi lại một bước. Người này còn rất trẻ, y phục không hề giống những người bình thường, cả người hầu như bị che phủ bởi chiếc áo choàng đen, hơn nửa khuôn mặt bị che khuất, chỉ để lộ cái cằm thon nhỏ, hoàn mỹ như được chạm khắc từ ngọc, nước da hơi tái, như thể đã lâu không được tiếp xúc với ánh mặt trời, toát lên vẻ tà khí, u ám. Vành mũ hạ xuống thật thấp, không thể nhìn thấy ánh mắt của hắn, nhưng con bé bị ánh mắt đó nhìn chằm chằm, cảm thấy khó chịu vô cùng, muốn nhanh chóng kết thúc cuộc trò chuyện này, vì thế, nó nhắm mắt nói: “Công tử…”
“Ta không có tiền.” Người đã cổ quái, giọng nói thoát ra còn cổ quái hơn.
Con bé liền phản ứng lại, vứt cái bát sứt xuống đất, nói: “Ta không muốn hỏi điều đó.”
Hắn dường như cũng thở phào nhẹ nhõm. “Hóa ra không phải là ngươi muốn xin tiền à?”
Nhờ sự hiểu lầm này mà con bé không còn cảm thấy sợ hắn nữa, cố nhịn cười, nói: “Công tử có biết đường lên núi Nam Hoa không?”
“Biết.” Hắn hơi ngẩng đầu, chỉ vào hai con đường phía trước mặt, toát lên khí chất của một người quý tộc, nói: “Bên trái là đường đến Nam Hoa, bên phải là đường lên Sơn Dương.”
Con bé lễ phép nói lời cảm tạ, xoay người hướng về phía đường bên phải, nam nhân đó cũng không thắc mắc một lời.
Khoảng chừng hơn nửa canh giờ sau, quả nhiên con bé đã hổn hển chạy về con đường cũ. Thì ra sau mấy lần bị người ta trêu chọc, lần này con bé rất cảnh giác, cố tình đi ngược với hướng mà hắn đã chỉ, ai ngờ hắn không hề lừa gạt nó, con đường bên phải đúng là dẫn tới Sơn Dương, đúng là nó đã tự làm khổ mình mất rồi.
Nam nhân mặc áo choàng đen vẫn đứng ở chỗ cũ, tựa như một tảng đá, không hề nhúc nhích, nếu bây giờ không phải là ban ngày thì người qua đường nhất định sẽ không nhìn thấy hắn. Hắn có vẻ nghi hoặc, nói: “Ta nhớ là ngươi hỏi đường đi Nam Hoa cơ mà?”
Thông minh quá sẽ bị phản lại, con bé xấu hổ, mặt đỏ bừng, chống chế: “Vừa rồi là ta nghe nhầm.”
Hắn cũng không hoài nghi gì, chỉ hỏi: “Ngươi đến Nam Hoa bái sư sao?”
“Đúng vậy.”
“Ta cũng tiện đường tới đó.”
Con bé cúi đầu, nói: “Thế à” rồi không nói gì thêm, bước nhanh về hướng đường bên trái.
Nam nhân không nói gì nhiều, thậm chí cũng không hỏi lai lịch, tên tuổi của con bé, cho dù con bé có đi nhanh thế nào, hắn vẫn đi bên cạnh nó, dáng vẻ nhàn nhã như đang đi ngao du sơ thủy. Con bé lén nhìn hắn vài lần, cuối cùng ánh mắt hướng xuống chiếc nhẫn thạch anh màu tím sẫm to đùng đeo trên ngón tay hắn, tâm thần nhất thời chấn động, đầu óc ngẩn ngơ. Chiếc nhẫn phát ra thứ ánh sáng chói lòa giống như một hắc động thật lớn làm mê hoặc lòng người, khiến thần trí như bị hút vào đó. Cho đến khi bàn tay trắng bệch kia rụt vào ống tay áo, con bé mới lấy lại được tinh thần. Biết chắc hắn đã phát hiện ra mình nhìn trộm, con bé ngượng ngùng chủ động gợi chuyện: “Xin hỏi quý tính đại danh của công tử là gì?”
“Vong Nguyệt.”
“Hả?”
Nam nhân tỉ mỉ giải thích: “Vong trong từ “Tử vong”, Nguyệt trong từ “Nguyệt lượng”.”
Cái tên thật kỳ quái, con bé không dám nói ra suy nghĩ thật sự, bèn nói: “Tên của công tử nghe thật… êm tai.”
“Đa tạ ngươi đã khích lệ.” Vong Nguyệt cười nói. “Ngươi muốn bái ai làm sư phụ?”
Con bé nắm chặt sợi tua kiếm trong tay, ngại ngùng nói: “Các vị tiên trưởng của Nam Hoa phái có chịu thu nhận ta làm đệ tử hay không còn chưa biết, sao ta dám nghĩ tới những điều này? Chỉ sợ ta không kịp tới đó thôi.”
“Tới muộn mới tốt, ngươi sẽ bái được sư phụ giỏi.”
Từ đó, hai người không nói thêm lời nào nữa, cứ yên lặng mà đi. Ước chừng một canh giờ sau, nắng lên tới đỉnh đầu, bóng dáng của núi Nam Hoa đã thấp thoáng ẩn hiện sau những đám mây phía xa xa.
Đúng là tiên sơn! Con bé vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, nói: “Ta đến nơi rồi!”
Quay đầu lại nhìn, người bên cạnh đã biến mất từ lúc nào, không còn dấu vết.
Lũ trẻ đã khởi hành vào Nam Hoa lâu rồi, những chiếc xe lừa, xe ngựa trên con đường lớn phía dưới chân núi đã giảm đi một nửa. Từ trước đến nay, Nam Hoa phái lựa chọn đồ đệ hết sức nghiêm ngặt, ven đường đều bố trí các cửa ải khó khăn để thử bản lĩnh của lũ trẻ, rất nhiều đứa trẻ nhát gan mới đi được nửa đường đã không chịu nổi mà quay lại. Cha mẹ chúng đành phải đưa chúng rời đi, chạy đến Thanh Hoa cung xin cho con mình được nương nhờ đất tiên. Những bậc cha mẹ khác thì đầy vẻ tự đắc và căng thẳng, thỉnh thoảng lại có một, hai đứa trẻ khóc lóc chạy ra, khắp chân núi liền vang lên những tiếng thở dài não ruột và cả những tiếng quở trách của người lớn.
Phía xa xa, có một đứa bé gái hộc tốc chạy tới, vì nó đang cúi đầu nên không ai nhìn rõ khuôn mặt nó, y phục của nó lại hết sức tầm thường nên chẳng ai thèm chú ý. Vừa rồi, con bé đã dừng lại tại một con suối gần đó để tắm rửa, chân tay và mặt mũi đã sáng sủa trở lại, nó gắng sức chen chúc trong đám người chật như nêm, thở hổn hển, may mắn là cũng kịp thời chạy tới cổng Tiên môn. Con bé thầm nghĩ, các vị tiên tôn pháp lực hết sức cao cường, lại đang muốn thử những đứa trẻ đến bái sư nên nhất cử nhất động của con bé chắc chắn sẽ lọt cả vào tầm mắt của họ, phải thận trọng từng bước mới được.
Bất luận là ai cũng muốn bái được sư phụ giỏi và nổi tiếng, con bé đã có sự chuẩn bị tâm lý vì từ lâu nó đã được nghe qua danh tiếng của bốn vị tiên tôn phái Nam Hoa. Vị tiên tôn ở Tử Trúc phong là nổi danh nhất nhưng người lại không thu nạp đồ đệ, vì thế phải bỏ vọng tưởng này trước tiên. Tất cả đồ đệ của Ngu chưởng giáo đều rất có tiền đồ nhưng sau khi thu nạp Tần Kha, ông không còn thu nạp thêm ai nữa. Thiên Cơ tôn giả là người phúc hậu, dễ trò chuyện nhất, bái nhập Thiên Cơ là dễ dàng hơn cả, đáng tiếc là giữa thời loạn thế này, chỉ biết tiên đoán thì chẳng có tác dụng gì mấy, hơn nữa nghe nói ông luôn khoan dung, bao che cho đồ đệ, như vậy cũng không phải là chuyện tốt. Nghĩ tới nghĩ lui thì chỉ còn vị đốc giáo Mẫn tiên tôn lúc nào cũng nghiêm nghị, môn hạ đệ tử của ông ta cũng rất nổi danh, nhất là Mộ Ngọc tiên trưởng. Vẫn thường có câu: “Nghiêm sư xuất cao đồ[1]”, nếu được bái ông ta làm sư phụ, chắc chắn cha mẹ con bé dưới suối vàng có thể an tâm mỉm cười.
[1] Sư phụ dạy dỗ nghiêm khắc thì sẽ dạy được đệ tử giỏi.
Vị tiên tôn này thân là đốc giáo, nắm giữ mọi hình phạt của giáo phái, nhất định là tính tình rất hà khắc, luôn chú trọng tới phẩm hạnh, sẽ chỉ thích những đệ tử khiêm tốn và chững chạc. Để có thể lọt vào mắt Mẫn tiên tôn, con bé phải cố gắng tỏ ra khiêm tốn và chững chạc hơn những đứa trẻ khác, nhất định không thể hấp tấp, liều lĩnh được.
Con bé nhìn sợi tua kiếm trong tay, cũng không dám vọng tưởng quá nhiều. Chẳng hay Tần tiên trưởng đã trở về Nam Hoa chưa? Lần đó người ra tay giúp đỡ, chắc chắn ấn tượng về mình cũng không đến nỗi tệ, nếu các vị tiên tôn không đồng ý thu nạp mình làm đồ đệ thì Tần tiên trưởng có chấp nhận thu nạp mình hay không?
Chỉnh trang lại y phục, định thần lại, con bé len ra khỏi đám đông, trước vô số ánh mắt soi mói của họ, nó bình thản bước về phía ngọn núi trước mặt.
Cách đó không xa có một bóng người mặc áo choàng đen đứng bên cạnh một tảng đá lớn, dường như mọi người xung quanh không ai nhìn thấy hắn. Chiếc mũ đen hạ xuống, khóe môi nhếch lên tạo thành một đường cong tuyệt mỹ. “Cuối cùng cũng đã trở về rồi!”
Trên ngọn núi cao nhất Nam Hoa, mấy nghìn đệ tử tay cầm pháp khí đứng bên cạnh con đường lớn dài rộng, khung cảnh tráng lệ, bầu không khí vô cùng trang nghiêm. Trong Lục Hợp điện, trên bậc thềm bằng ngọc thạch cao cao phía trên, ba vị tiên tôn ngồi ngang hàng với nhau, đó chính là chưởng giáo Ngu Độ, đốc giáo Mẫn Vân Trung và Thiên Cơ tôn giả Hành Huyền. Hai bên đại điện, mấy chục đại đệ tử đứng trang nghiêm, yên lặng, không phát ra bất cứ tiếng động nào.
Hành Huyền cầm cuốn sách Thiên Cơ, nhìn xung quanh một lượt rồi hỏi: “Sao không thấy Tần Kha ở đây nhỉ?”
Ngu Độ nói: “Hôm trước nhận được tin báo Cửu U ma cung đang làm loạn ở vùng Trần Châu khiến dân chúng lầm than, ta đã hạ lệnh cho nó tới đó xem sao rồi.”
Hành Huyền nói: “Thằng bé đó có thể thu nạp đệ tử được rồi.”
Ngu Độ cười nói: “Tần Kha khá bướng bỉnh, ngang ngạnh, nó còn muốn chuyên tâm tu hành vài năm nữa.” Đồ đệ nhập môn mới hai mươi năm, còn nhiều thời gian, chịu khó chuyên tâm tu hành là chuyện tốt, Ngu Độ không hề phản đối.
Hành Huyền thở dài, nói: “Từ lúc chưởng giáo sư huynh không nạp thêm đồ đệ, mấy năm nay chẳng có ai tranh giành đệ tử với sư thúc, thật chẳng còn gì thú vị nữa.”
Lời nói này của Hành Huyền khiến Mẫn Vân Trung bất giác nhếch khóe miệng, sau đó nhìn sang chiếc ghế trống bên cạnh, cau mày nói: “Thuật pháp có cao đến đâu mà không có người kế thừa thì cũng uổng phí, Âm Phàm lại có việc phải ra ngoài rồi sao?”
Ngu Độ nói: “Đệ ấy đến Thanh Hoa cung rồi, chỉ sợ không kịp về trong ngày hôm nay.”
Từ khi tiếng tăm lẫy lừng của Lạc Âm Phàm vang khắp lục giới, thuật pháp của Tử Trúc phong đã được công nhận là thuật pháp cao siêu nhất Tiên môn, Mẫn Vân Trung và Ngu Độ có phần lo lắng thuật pháp đó sẽ không có người kế thừa, nhưng Lạc Âm Phàm chưa từng đề cập tới vấn đề đó nên không ai tiện lên tiếng trước. Kỳ thực không chỉ riêng Mẫn Vân Trung và Ngu Độ mà trên dưới Nam Hoa đều đã nhận ra mấy năm nay Trọng Hoa tôn giả ngoại trừ tham dự chính sự thì rất ít khi mở miệng nói chuyện, hoặc là bế quan[2] tu luyện, hoặc là ra ngoài tối ngày, hành tung không ai biết rõ, số ngày chàng ở trên Tử Trúc phong càng lúc càng ít dần. Chàng lại lạnh lùng như trước kia, nhưng ít ra lúc trước chàng còn có chút tình cảm, bây giờ thì hoàn toàn tuyệt tình, lạnh băng đến rợn người, giống như một vị thần cao cao tại thượng, vô tâm, vô tình, không ai dám đến gần.
[2] Bế quan: đóng cửa để tu luyện.
Mẫn Vân Trung nói: “Ngươi là sư huynh, nên khuyên nhủ nó vài lời, không thể để mặc nó tiếp tục như thế mãi được.”
Ngu Độ cười khổ, nói: “Sư thúc cũng hiểu mà, sao ta lại không muốn khuyên Âm Phàm chứ?”
Mẫn Vân Trung không nói tiếp nữa, Hành Huyền ở bên cạnh vuốt chòm râu bạc, nhìn vào cuốn sách Thiên Cơ trong tay tựa hồ muốn nói gì đó nhưng lại thôi. Mộ Ngọc tiến đến gần, bẩm báo: “Bọn trẻ đều đã lên đến đây rồi ạ!”
“Cho bọn trẻ vào đi!” Ngu Độ chấm dứt câu chuyện đang dang dở, nói: “Hôm nay, trong số các tân đệ tử, có một đứa trẻ vô cùng đặc biệt, tư chất cũng cực kỳ tốt, chỉ là tính tình có chút bướng bỉnh, cần phải được dạy dỗ nhiều hơn nữa.”
Ở bên ngoài, con bé cũng đang bước từng bước vô cùng cẩn thận, con rắn khổng lồ phía sau vừa biến mất, trước mặt liền xuất hiện một vách núi chặn đường, đó là một ngọn núi cao vạn trượng vô cùng hiểm trở, đột ngột trồi lên từ lòng đất khiến người ta cảm thấy vô cùng sợ hãi. Ngẩng mặt nhìn theo vô số những nhánh cây leo đang rủ xuống vách đá, tiên sơn hùng vĩ, tráng lệ, nguy nga hiện ra ngay trước mắt.
Đã mất bao công sức đi đến tận đây, tuy trong lòng biết rõ những cửa ải trên đường đến Tiên môn vô cùng khó khăn, hiểm trở nhưng khi trực tiếp đối diện với nó, con bé mới cảm thấy kinh hãi tột cùng. Vách núi cao như vậy, làm sao đủ sức để leo lên tới đỉnh đây? Chỉ cần phân tâm một chút thôi là sẽ ngã xuống, lúc đó chỉ có tan xương nát thịt!
Mặt con bé cắt không còn giọt máu, nó nhìn ngó một lát, cuối cùng cũng khống chế được sự sợ hãi, cắn răng bám vào nhành dây leo chắc chắn nhất rồi cố gắng trèo lên. Vách núi này quả thật vô cùng kỳ quái, càng trèo cao, càng cảm thấy dễ leo hơn. Hơn nữa, con bé phát hiện ra, sự sợ hãi trong lòng nó đã vơi dần đi, sức lực càng lúc càng tăng, tốc độ cũng nhanh hơn, đến lúc cuối, dường như dây leo cũng có sức sống, cứ thế cuốn con bé lên trên.
Quả nhiên đây chỉ là sự bố trí của các tiên trưởng! Con bé đang mừng rỡ thì lập tức phát hiện dây leo mắc bên hông nó bỗng đứt lìa! Cơ thể lơ lửng giữa không trung, cứ thế rơi thẳng xuống vách núi. Nhất định là sẽ ngã tan xương nát thịt mất! Tại sao lại xảy ra chuyện này được? Con bé sợ hãi hét lên một tiếng.
Theo quy định từ trước tới nay, những đứa trẻ qua được các vòng thử thách của Tiên môn đều được giữ lại, sau đó vài ngày, Tiên môn sẽ phái người báo tin cho người thân của bọn trẻ, nói tường tận đứa con của họ đã bái ai làm sư phụ và chúng sẽ được giáo dưỡng như thế nào. Ngu Độ thấy bọn nhỏ đã tới, bèn dỡ bỏ thuật pháp, đâu nghĩ vẫn còn có một đứa bé ở phía sau.
Lưng con bé chạm đất nhưng kỳ lạ là nó không đau đớn như nó tưởng tượng. Con bé ngạc nhiên vô cùng, đứng lên quan sát một hồi, ở đây làm gì có vách núi cao nào, chẳng qua đó chỉ là một tảng đá lớn mà thôi.
Biển mây mờ mịt ở phía sau đã biến mất, xung quanh hiện ra bóng dáng của cỏ cây hoa lá, phong cảnh hữu tình, hóa ra đây đã là bên trong núi rồi. Con bé vội vàng ngẩng mặt nhìn, quả nhiên không thấy tiên sơn đâu nữa. Lúc trước đi nhầm đường nên con bé đã tới trễ rồi sao?
Mơ hồ đoán được nguyên nhân, con bé chán nản đến nỗi quỳ sụp xuống. Nó thường nghe nói nếu thành tâm thì chắc chắn sẽ được linh ứng, chỉ cầu mong ông trời rủ lòng thương, để chưởng giáo tiên tôn thấy nó đang ở đây. Con bé không thể cứ như vậy mà quay về được, hơn nữa nó cũng không còn chỗ để quay về, a bá nhất định sẽ rất buồn, cha mẹ đang nằm dưới đất cũng sẽ thất vọng! Nếu như phải đợi thêm năm năm nữa, khi đó nó không còn đủ tuổi để ứng thí, các vị tiên trưởng nhất định sẽ không thu nạp nó. Không thể hoàn thành di mệnh của cha mẹ, chẳng phải là con bé đã bất hiếu rồi sao?
Đã qua giờ Ngọ, xung quanh vẫn không có bất cứ động tĩnh nào, con bé càng sốt ruột, không còn nghĩ ra cách nào khác, nó nôn nóng đến độ khóc òa lên.
Giữa núi rừng vắng vẻ, chỉ có tiếng chim hót lảnh lót đâu đây. Bất chợt con bé có cảm giác vô cùng thân thuộc, trái tim không ngừng run rẩy, không thể nói rõ cảm giác này là gì, từ lúc chào đời tới nay nó chưa từng có cảm giác như vậy, vừa vui mừng lại vừa sợ hãi.
Là ai vậy? Con bé dần nín khóc, chậm rãi ngẩng đầu lên.
Cách chỗ con bé hai trượng về phía trước, dưới gốc cây tùng cổ thụ uốn lượn, một vị thần tiên trẻ tuổi đứng bất động, không hề nhúc nhích, cơ hồ đã đứng ở đó từ rất lâu rồi.