Đừng nói một ai - Chương 15 + 16
15
Đặc vụ Carlson nhìn thẳng vào mắt Hoyt Parker. “Như ông biết, chúng tôi vừa
phát hiện ra hai thi thể ở gần khu Hồ Charmaine.”
Hoyt gật
đầu.
Một máy
điện thoại di động kêu. Stone xoay xở kéo người mình lên và nói “Xin lỗi” rồi ì
ạch lết vào bếp. Hoyt quay về phía Carlson và đợi.
“Chúng
tôi biết bản báo cáo chính thức về cái chết của con gái ông,” Carlson nói. “Cô
ấy và chồng, David Beck, đến chỗ cái hồ để thực hiện một nghi thức hàng năm. Họ
bơi trong bóng tối. KillRoy nằm đợi sẵn. Hắn tấn công bác sĩ Beck và bắt cóc
con gái ông. Hết.”
“Và anh
không nghĩ đó chính là chuyện đã xảy ra?”
“Không,
Hoyt - tôi gọi ông là Hoyt được không?”
Hoyt gật
đầu.
“Không,
Hoyt, chúng tôi không nghĩ thế.”
“Vậy các
anh thấy thế nào?”
“Tôi nghĩ
David Beck giết con gái ông và đổ tội cho một tên giết người hàng loạt.”
Hoyt, một
người kỳ cựu lão luyện của Sở cảnh sát thành phố New York trong hai mươi tám
năm qua, biết làm thế nào để giữ một khuôn mặt bình tĩnh, nhưng ông vẫn ngả
người ra sau như thể những lời kia đã thọc mạnh vào cằm mình. “Nói cụ thể hơn
đi.”
“Được
rồi, hãy bắt đầu từ đoạn mở đầu. Beck đưa con gái ông đến chỗ một cái hồ hẻo
lánh, phải không?”
“Phải.”
“Ông đã
đến đó chưa?”
“Rất nhiều
lần.”
“Sao?”
“Tất cả
bọn tôi là bạn bè. Kim và tôi rất thân thiết với cha mẹ David. Chúng tôi từng
đến đó suốt.”
“Vậy ông
biết nó hẻo lánh đến thế nào rồi đấy.”
“Phải.”
“Đường
đất, một dấu hiệu chỉ có thể nhìn thấy khi ông biết mình cố tìm kiếm nó. Bị che
khuất hết mức. Không có dấu hiệu nào của cuộc sống.”
“Ý của
anh là gì?”
“Làm thế
quái nào mà KillRoy dừng lại chỗ con đường đó.”
Hoyt giơ
hai tay lên không trung. “Làm thế quái nào một người đụng phải một tên giết
người hàng loạt?”
“Đúng
vậy, được rồi, nhưng những vụ khác đều có logic. Kellerton bắt cóc ai đó trên
đường phố, hắn dùng vũ lực bắt tài xế lái xe đi đâu đó rồi biến người đó thành
nạn nhân, thậm chí đột nhập vào nhà. Nhưng hãy nghĩ thử xem. Hắn thấy con đường
đất và tự dưng bằng cách nào đó quyết định tìm kiếm một nạn nhân ở đấy? Ý tôi
không phải là không thể, nhưng rất khó xảy ra.”
Hoyt nói,
“Tiếp đi.”
“Ông có
công nhận có rất nhiều chỗ hổng về mặt logic trong một giả thuyết đã được công
nhận?”
“Mọi
trường hợp đều có lỗ hổng về mặt logic.”
“Đúng
vậy, được rồi, nhưng hãy để tôi thử đề ra một giả thuyết khác. Hãy giả sử bác
sĩ Beck muốn giết con gái ông.”
“Tại
sao?”
“Vì một
thứ, hai trăm nghìn dollar tiền bảo hiểm nhân thọ.”
“Nó không
cần tiền.”
“Ai cũng
cần tiền, Hoyt. Ông biết điều đó.”
“Tôi không
tin.”
“Nghe
này. Chúng tôi vẫn đang tiếp tục đào xới ở đây. Chúng tôi chưa biết được tất
thảy những động cơ. Nhưng hãy để tôi nói ra giả thuyết của chúng tôi, được
chứ?”
Hoyt nhún
vai ngụ ý tùy anh ta.
“Chúng
tôi có bằng chứng ở đây bác sĩ Beck đánh vợ.”
“Bằng
chứng nào? Anh có vài bức ảnh. Con bé nói với mẹ đẻ nó bị tai nạn ôtô.”
“Thôi
nào, Hoyt.” Carlson đưa tay chỉ qua những tấm hình. “Nhìn nét mặt con gái ông
đi. Vẻ mặt đó có giống của một người phụ nữ bị tai nạn ôtô không?”
Không,
Hoyt nghĩ, không giống. “Anh tìm thấy những bức ảnh này ở đâu?”
“Tôi sẽ
nói đến chuyện đó ngay sau đây, nhưng hãy quay lại giả thuyết của tôi, được
chứ? Hãy giả định trong một khoảnh khắc bác sĩ Beck đánh con gái ông và rồi ý
nghĩ được thừa kế nảy ra trong óc anh ta.”
“Có rất
nhiều giả định.”
“Đúng
vậy, nhưng hãy nghe tôi. Hãy nghĩ về cái giả thuyết đã được chấp nhận và tất cả
những lỗ hổng trong đó. Giờ thì so sánh nó với cái này: bác sĩ Beck đưa con gái
ông tới một địa điểm hẻo lánh nơi anh ta biết sẽ không có nhân chứng. Anh ta
thuê hai gã côn đồ vồ lấy cô ấy. Anh ta biết về KillRoy. Báo chí đăng đầy. Hơn
nữa, em trai ông phụ trách vụ đó. Ông ấy có bao giờ thảo luận về hắn với ông
hay Beck?”
Hoyt ngồi
yên một lát. “Tiếp đi.”
“Hai gã
côn đồ được thuê kia bắt cóc và giết con gái ông. Một cách tự nhiên, đối tượng
tình nghi đầu tiên sẽ là người chồng - luôn vậy trong một vụ như thế, đúng
không? Nhưng hai tên côn đồ kia đóng lên má cô ấy một chữ cái K. Điều tiếp theo
chúng ta biết, tất cả bị đổ lên đầu KillRoy.”
“Nhưng
Beck đã bị tấn công. Vết thương ở đầu nó là thật.”
“Phải,
nhưng cả hai chúng ta đều biết có gì đó không hợp lý khi anh ta nằm ngoài
chuyện này. Làm thế nào Beck giải thích được việc thoát khỏi vụ bắt cóc mà hoàn
toàn không bị làm sao? Xin chào, biết gì không, ai đó bắt cóc vợ tôi, nhưng tôi
thì ổn? Không tài nào hợp lý nổi. Bị choảng vào đầu giúp câu chuyện anh ta kể
được tin tưởng.”
“Nó bị
một cú chí mạng.”
“Anh ta
phải đối phó với bọn côn đồ, Hoyt. Bọn nó có thể tính toán nhầm. Và vết thương
của anh ta thì sao nhỉ? Anh ta kể lại câu chuyện kỳ quặc nào đó rằng bò một
cách phi thường lên khỏi mặt nước và gọi 911. Tôi đã đưa cho vài bác sĩ bệnh án
cũ của Beck. Họ khẳng định những gì anh ta làm mâu thuẫn với logic về mặt y
học. Chuyện đó hầu như là không thể, căn cứ vào những vết thương của anh ta.”
Hoyt ngẫm
nghĩ về chuyện đó. Chính ông cũng thường băn khoăn tự hỏi. Làm thế nào mà Beck
còn sống và gọi giúp đỡ? “Gì nữa?” Hoyt nói.
“Có bằng
chứng rất đáng tin cậy hai tên côn đồ, không phải KillRoy, đã tấn công Beck.”
“Bằng
chứng nào?”
“Chôn
cùng với hai thi thể, chúng tôi tìm thấy một cây gậy bóng chày có dính máu.
Kiểm tra ADN toàn diện để khẳng định có liên quan cần mất một thời gian, nhưng
kết quả sơ bộ đưa ra giả thuyết rất chắc chắn máu đó là của Beck.”
Đặc vụ
Stone lại nặng nề lê vào phòng và khó nhọc ngồi xuống. Hoyt một lần nữa lại
nói, “Tiếp đi.”
“Phần còn
lại khá rõ ràng. Hai tên côn đồ làm mọi thứ. Chúng giết con gái ông và đổ cho
KillRoy. Rồi chúng quay lại để lấy nốt tiền thanh toán - hoặc có thể chúng
quyết định moi thêm tiền của bác sĩ Beck. Tôi không biết. Dù chuyện gì, Beck
cũng phải giũ sạch bọn kia. Anh ta sắp xếp một cuộc hẹn trong khu rừng hẻo lánh
gần hồ Charmaine. Hai tên côn đồ có thể nghĩ chúng đang đối mặt với một tay bác
sĩ yếu ớt hoặc có thể anh ta bắt được chúng lúc chúng sơ hở. Cách nào cũng thế,
Beck bắn chúng rồi chôn thi thể cùng với cây gậy bóng chày và bất cứ bằng chứng
nào sau này có thể ám anh ta. Một tội ác hoàn hảo, cho đến bây giờ. Không có gì
kết nối được anh ta với kẻ sát nhân. Hãy thử nghĩ xem. Nếu chúng ta không gặp
may mắn kinh dị, những thi thể kia sẽ không bao giờ được tìm thấy.”
Hoyt lắc
đầu. “Đúng là giả thuyết.”
“Còn
nữa.”
“Thế
nào?”
Carlson
nhìn Stone. Stone chỉ vào điện thoại di động. “Tôi vừa nhận một cú điện thoại
kỳ lạ gọi từ Nhà tù Briggs,” Stone nói. “Có vẻ như con rể ông gọi đến đó ngày
hôm nay và yêu cầu gặp KillRoy.”
Hoyt bây
giờ trông sửng sốt rõ ràng. “Vì cái quái gì nó lại làm thế?”
“Ông nói
chúng tôi nghe,” Stone đáp lại. “Nhưng hãy nhớ Beck biết chúng tôi đang nghi
ngờ anh ta. Bất thình lình, anh ta ao ước dữ dội đến gặp kẻ anh ta sắp đặt là
kẻ giết con gái ông.”
“Trùng
hợp kinh khủng,” Carlson nói thêm.
“Anh nghĩ
nó đang cố che đậy dấu vết?”
“Ông có
giải thích nào hợp lý hơn?”
Hoyt ngồi
lại và cố dàn xếp tất cả những thứ này ổn thỏa trong đầu. “Anh bỏ sót cái này.”
“Cái gì?”
Ông chỉ
những bức ảnh trên bàn. “Ai đưa cho anh cái này?”
“Bằng
cách nào đó,” Carlson nói, “tôi nghĩ con gái ông đưa.”
Mặt Hoyt
trông hốc hác.
“Cụ thể
hơn, người mang bí danh của cô ấy đưa. Một Sarah Goodhart. Tên đệm của con gái
ông và tên con đường này.”
“Tôi
không hiểu.”
“Tại hiện
trường vụ án,” Carlson nói. “Một trong hai tên côn đồ - Melvin Bartola - có một
chiếc chìa khóa nhỏ trong giày hắn.” Carlson giơ chìa khóa lên. Hoyt cầm lấy từ
anh ta, trân trối nhìn chiếc chìa khóa như thể nó nắm giữ câu trả lời huyền bí
nào đó. “Nhìn thấy chữ UCB rồi chứ?”
Hoyt gật
đầu.
“Cái này
viết tắt của United Central Bank. Cuối cùng chúng tôi truy nguyên chiếc chìa
khóa này đến được chi nhánh của nó ở số 1772 Broadway tại thành phố này. Chiếc
chìa khóa mở hộp 174, được một người tên là Sarah Goodhart đăng ký. Chúng tôi
đã ra lệnh lục soát cái hộp.”
Hoyt
ngước lên. “Những tấm ảnh này ở trong đó?”
Carlson
và Stone liếc nhìn nhau. Họ vốn đã quyết định sẽ không nói cho Hoyt tất cả mọi
điều về cái hộp - không cho đến khi tất cả các cuộc điều tra bắt đầu lại và họ
biết chắc chắn - nhưng cả hai giờ đây lại cùng gật đầu.
“Hãy thử
nghĩ xem, Hoyt. Con gái ông cất giữ những tấm ảnh này trong một cái két an toàn
ở ngân hàng. Lý do quá rõ ràng. Thêm nữa không? Chúng tôi đã thẩm vấn bác sĩ
Beck. Anh ta chưa bao giờ nhìn thấy chúng. Tại sao con gái ông lại giấu anh ta
những bức ảnh này?”
“Anh đã
nói chuyện với Beck?”
“Phải.”
“Nó còn
nói gì nữa?”
“Không
nhiều lắm vì anh ta yêu cầu một luật sư.” Carlson chờ một lời phản công. Rồi
anh ta nhoài người tới. “Anh ta không gọi bất kỳ một luật sư nào, anh ta gọi
Hester Crimstein. Điều đó nghe có vẻ gì giống với hành động của một người vô
tội với ông không?”
Hoyt đang
ghì chặt tay vào thành ghế, cố trấn tĩnh. “Anh không thể chứng minh được bất cứ
thứ gì.”
“Vẫn
chưa. Nhưng chúng tôi biết. Như thế là nửa cuộc chiến rồi.”
“Vậy anh
định sẽ làm gì?”
“Chỉ duy
nhất một điều chúng tôi có thể làm.” Carlson mỉm cười với ông. “Dùng sức ép cho
đến khi thứ gì đó gãy.”
Larry
Gandle xem xét diễn biến trong ngày qua và lẩm bẩm một mình, “Không tốt.”
Một, FBI
đưa Beck đi thẩm vấn hắn.
Hai, Beck
gọi một chuyên gia chụp ảnh tên Rebecca Schayes. Hắn hỏi cô về một vụ tai nạn
ôtô ngày xưa có liên quan đến vợ hắn. Rồi hắn ghé đến studio của cô.
Một
chuyên gia chụp ảnh, đáng ngạc nhiên.
Ba, Beck
gọi đến Nhà tù Briggs và nói hắn muốn gặp Elroy Kellerton.
Bốn, Beck
gọi đến văn phòng của Peter Flannery.
Tất cả
những việc này thật khó hiểu. Không có việc nào tốt lành cả.
Eric Wu
gác máy điện thoại và nói, “Mày sẽ không thích cái này đâu.”
“Cái gì?”
“Nguồn
tin của chúng ta với FBI cho biết họ nghi ngờ Beck giết vợ hắn ta.”
Gandle
suýt ngã bổ chửng. “Giải thích đi.”
“Đó là
tất cả những gì nguồn tin biết. Bằng cách nào đó, họ nối kết hai xác chết ở gần
hồ lại với Beck.”
Thực sự
rất khó hiểu.
“Để tao
xem lại những cái email kia,” Gandle nói.
Eric Wu
đưa chúng cho gã. Khi Gandle nghĩ xem ai có thể gửi chúng, cảm giác từ đáy bụng
gã bắt đầu cào xé và mạnh dần lên. Gã cố ghép các mảnh lại với nhau. Gã luôn
luôn tự hỏi làm thế nào Beck sống sót được trong đêm đó. Bây giờ gã tự hỏi thêm
một điều khác.
Có ai
khác nữa còn sống sót sau đêm đó?
“Mấy giờ
rồi?” Gandle hỏi.
“Mười tám
giờ ba mươi.”
“Beck vẫn
chưa mở cái địa chỉ Bat-gì đó?”
“Bat
Street. Chưa.”
“Có thêm
gì về Rebecca Schayes không?”
“Vẫn chỉ
những cái đã biết. Bạn thân của Elizabeth Parker. Chúng ở cùng nhau trong một
căn hộ trước khi Parker lấy Beck. Tao kiểm tra số liệu ghi chép các số điện
thoại đã gọi đi. Beck đã không gọi cho cô ta hàng bao năm nay rồi.”
“Vậy tại
sao bây giờ hắn lại liên lạc với cô ta?”
Wu nhún
vai. “Cô nàng Schayes hẳn phải biết gì đó.”
Griffin
Scope đã nói rất rõ ràng. Phát hiện được cái gì có thể, rồi chôn vùi nó.
Và sử
dụng Wu.
“Chúng ta
cần nói chuyện với cô ta,” Gandle nói.
16
Shauna gặp tôi tại tầng trệt tòa nhà cao tầng số 462
Park Avenue, Manhattan.
“Đi nào,”
cô bập luôn. “Tớ có cái này muốn cho cậu xem trên kia.”
Tôi nhìn
đồng hồ. Gần hai tiếng nữa lá thư Bat Street mới xuất hiện. Chúng tôi vào thang
máy. Shauna nhấn nút lên tầng hai mươi ba. Đèn báo chạy lên và thiết bị dành
cho người mù kêu bíp.
“Hester
khiến cho tớ nghĩ ngợi,” Shauna nói.
“Về cái
gì?”
“Bà ấy
nói bọn FBI rất tuyệt vọng. Rằng bọn chúng sẽ làm bất cứ thứ gì để tóm được
cậu.”
“Thế thì
sao?”
Thang máy
kêu ầm ĩ khi đến nơi.
“Đợi
chút, cậu sẽ thấy.”
Cửa thang
máy mở ra một tầng gồm một phòng lớn chia làm tổ hợp các phòng nhỏ. Kiểu ở
thành phố hiện nay. Xé toạc trần ra và nhìn từ trên xuống, bạn sẽ cực kỳ vất vả
để chỉ ra được sự khác biệt giữa tầng này và một mê cung chuột.
Shauna
bước đi giữa vô số những bức ngăn phòng có phủ vải. Tôi bám gót theo sau. Được
nửa đường, cô rẽ trái, rồi phải và rồi lại trái.
“Có lẽ tớ
nên rải vụn bánh mỳ,” tôi nói.
Giọng cô
nhàn nhạt. “Ý kiến được đấy.”
“Cảm ơn,
tớ ở đây suốt tuần được.”
Cô không
cười.
“Mà chỗ
này là chỗ nào thế?”
“Một công
ty tên là DigiCom. Đại diện của tớ làm việc với họ đôi lần.”
“Làm cái
gì?”
“Cậu sẽ
thấy.”
Chúng tôi
rẽ ngoặt lần cuối cùng vào một căn phòng nhỏ, kín bừa bộn đồ đạc, nơi cư ngụ
của một anh chàng có cái đầu dài và những ngón tay thon thả của nghệ sĩ chơi
dương cầm.
“Đây là
Farrell Lynch. Farrell, đây là David Beck.”
Tôi bắt
bàn tay thon thả đó rất nhanh. Farrell nói, “Xin chào.”
Tôi gật
đầu.
“Được
rồi,” Shauna nói. “Kích hoạt đi.”
Farrell
Lynch quay ghế để anh ta đối diện với máy tính. Shauna và tôi nhìn qua vai anh.
Anh ta bắt đầu gõ bằng những ngón tay thon thả kia.
“Đã kích
hoạt,” anh ta nói.
“Cho chạy
đi.”
Anh ta
nhấn phím quay lại. Màn hình tối đen và rồi Humphrey Bogart xuất hiện. Anh đội
một cái mũ phớt mềm và mạc áo choàng. Tôi nhận ra cảnh này ngay lập tức. Sương
mù, máy bay ở phía sau. Trường đoạn cuối trong Casablanca.
Tôi nhìn
Shauna.
“Đợi,” cô
nói.
Máy quay
hướng về phía Bogie. Anh đang nói với Ingrid Bergman rằng cô sẽ lên máy bay kia
với Laszlo và rằng những vấn đề rắc rối của ba con người nhỏ bé chẳng đáng là
cái gì cả trong thế giới này. Và rồi, khi ống kính máy quay hướng lại về Ingrid
Bergman...
... đó
không phải là Ingrid Bergman.
Tôi chớp
mắt. Ở đó, bên dưới cái mũ nổi tiếng kia, đang nhìn chằm chằm vào Bogie và ngập
trong ánh sáng màu xám, là Shauna.
“Em không
thể đi với anh, Rick,” Shauna trên máy tính nói đầy vẻ bi kịch, “vì em yêu Ava
Gardner đến điên dại.”
Tôi quay
sang Shauna. Mắt tôi đầy thắc mắc. Cô gật đầu phải. Tôi nói thêm.
“Cậu nghĩ...”
tôi lắp bắp. “Cậu nghĩ tớ bị thủ thuật nhiếp ảnh lừa?”
Farrell
nhân đó nói. “Ảnh kỹ thuật số,” anh ta chỉnh lại. “Thao tác đơn giản hơn rất
nhiều.” Anh ta quay ghế về phía tôi. “Thấy rồi đấy, những hình ảnh trên máy
tính không phải là phim. Chúng thật ra chỉ là những điểm ảnh trên các file.
Không khác việc tạo văn bản là mấy. Anh biết để thay đổi một văn bản đang được
gõ dễ như thế nào rồi chứ? Thay đổi nội dung, hay font chữ, hay khoảng cách?”
Tôi gật
đầu.
“Vậy thì,
một người chỉ cần có kiến thức sơ đẳng về xử lý ảnh kỹ thuật số cũng có thể rất
dễ dàng tạo tác một chuyển động hàng loạt của các hình ảnh trên máy tính. Chúng
không phải là hình ảnh, cũng không phải là phim hay băng. Những dòng chuyển
động video trên máy tính đơn giản là một đống các điểm ảnh. Bất cứ ai cũng có
thể tạo ra chúng. Đơn giản chỉ cắt và dán rồi chạy một chương trình tổng hợp.”
Tôi nhìn
Shauna. “Nhưng trong đoạn video đó cô ấy trông già hơn,” tôi khăng khăng.
“Khác.”
Shauna
nói, “Farrell?”
Anh ta
nhấn phím khác. Bogie trở lại. Lần này, khi chiếu đến đoạn Ingrid Bergman,
Shauna trông như bảy mươi tuổi.”
“Phần mềm
xử lý tuổi,” Farrell giải thích. “Nó phần lớn chỉ được sử dụng để làm già đi
hình ảnh những đứa trẻ bị mất tích, nhưng ngày nay người ta có bán một phiên
bản dùng tại nhà có thể mua tại bất kỳ cửa hàng phần mềm nào. Tôi cũng có thể
thay đổi bất cứ phần nào trên hình ảnh của Shauna - kiểu tóc, màu mắt, kích cỡ
mũi. Tôi có thể làm môi cô ấy mỏng đi hoặc dày hơn, cho cô ấy có hình xăm, hay
bất cứ thứ gì.”
“Cám ơn,
Farrell,” Shauna nói.
Cô ra
hiệu bằng mắt bảo anh đi chỗ khác mà một người mù cũng có thể nhận thấy. “Xin
lỗi,” Farrell nói rồi biến mất.
Tôi không
nghĩ được.
Khi
Farrell đã đi khuất, Shauna nói, “Tớ nhớ lại lần chụp ảnh tháng trước. Một bức
ảnh rửa ra đẹp mỹ mãn - nhà tài trợ thích lắm - trừ một điểm là khuyên tai của
tớ hơi trễ quá. Bọn tớ mang bức ảnh đó lại đây. Farrell thực hiện một phát
cắt-và-dán và voilà, thế là, khuyên tai của tớ trở lại
đúng chỗ.”
Tôi lắc
đầu.
“Nghĩ thử
xem, Beck. FBI nghĩ cậu giết Elizabeth nhưng bọn họ không có cách nào chứng
minh được. Hester giảng giải là bọn họ đã trở nên tuyệt vọng đến mức nào. Tớ
bắt đầu nghĩ: có thể bọn họ chơi trò thử đầu óc với cậu. Còn trò thử nào hay
hơn trò gửi cho cậu những cái email này?”
“Nhưng
thời điểm hôn...?”
“Nó thì
sao?”
“Làm thế
nào bọn họ biết thời điểm hôn?”
“Tớ biết.
Linda biết. Tớ cá Rebecca cũng biết, có thể cả bố mẹ Elizabeth nữa. Bọn họ hoàn
toàn có thể tìm ra được.”
Tôi thấy
nước mắt trào lên. Tôi cố thu lấy giọng và rền rĩ thốt ra, “Một vố lừa ư?”
“Tớ không
biết, Beck. Tớ thực sự không biết. Nhưng việc này hãy lý trí một chút. Nếu
Elizabeth còn sống, cô ấy đã ở đâu trong suốt tám năm qua? Tại sao trong bao
thời điểm lại chọn đúng lúc này để từ huyệt mộ quay về - cùng lúc, thật trùng
hợp, FBI bắt đầu nghi ngờ cậu giết cô ấy? Mà thôi đi nào, chẳng lẽ cậu thực sự
tin cô ấy vẫn còn sống? Tớ biết cậu muốn thế. Mẹ kiếp, tớ cũng muốn thế. Nhưng
hãy cố nhìn nhận việc này một cách lý trí. Khi cậu thực sự nghĩ đến chuyện này,
giả thuyết nào hợp lý hơn?”
Tôi loạng
choạng và ngồi sụp xuống một cái ghế. Tim tôi bắt đầu vỡ vụn. Tôi cảm thấy hy
vọng bắt đầu teo lại.
Một vố
lừa. Tất cả những chuyện này không là gì cả ngoài một vố lừa ư?

