Tình Yêu Thời Thổ Tả - Chương 32
Chương 32
Nếu có sự kiện nào đó khiến bà khổ sở thì đó là các bữa ăn hàng ngày, một
cái án khổ sai chung thân. Bởi vì không những chúng lúc nào cũng phải được dọn
đúng giờ mà còn phải tinh tươm, còn phải đúng như sở thích của ngài mà khi làm
món ăn không phải hỏi ngài xem thích món ăn nào và nấu như thế nào. Nếu như đôi
lần bà hỏi ngài, như một trong vô số những lễ nghi vô tích sự của tập quán gia
đình này, thì ngài vẫn dán mắt vào tờ báo mà trả lời gọn lỏn: "Ăn gì cũng
xong". Ngài nói thật bụng, với điệu bộ thật đáng yêu, bởi vì ngài không
thể nào hiểu nổi một người chồng độc đoán. Nhưng khi ngồi ăn thì không thể món
ăn bất kỳ nào cũng được, mà phải đúng là cái món ngài thích và phải rất tinh
tươm: nghĩa là thịt khi ăn phải để người ăn không nhận ra là thịt; nghĩa là món
cá khi ăn phải không để người ăn nhận ra là cá, nghĩa là thịt gà khi ăn phải để
người ăn không thấy có lông. Ngay cả trong mùa không có măng tây cũng phải bằng
bất kỳ giá nào kiếm được măng tây để cho ngài có thể thích thú ngay trong cái
mùi nước giải thơm lựng của mình. Chỉ cần ngài thoáng có ý nghi ngờ là lập tức
ngài gạt món ăn trên bàn sang một bên rồi nói: "Cơm canh gì mà nhạt tèo,
dường như nó được nấu ra không phải bằng tình thương". Trong câu nói này
ngài đã buộc những người khác phải suy nghĩ lao lung. Có một lần ngài nếm rượu
táo, ngài trả lại ngay cốc rượu và nói: "Cái của nợ này có mùi cửa
sổ". Từ Phecmina Đaxa đến các cô hầu gái đều lấy làm ngạc nhiên vì không
ai biết một người nào đó đã uống thứ rượu được cất từ cửa sổ, nhưng khi nếm thử
món rượu để xem xem nó như thế nào thì bọn họ đã hiểu ra: "đúng là nó có
mùi cửa sổ thật."
Ngài là một người chồng hoàn hảo. Không bao giờ ngài cúi xuống nhặt một thứ
nào đó rơi ở dưới sàn nhà, cũng không hề đóng cửa, không hề tắt đèn. Trong bóng
tối buổi ban mai, khi quần áo ngài thiếu một chiếc cúc, Phecmina Đaxa nghe thấy
ngài nói rằng: "Người ta phải cần tới hai người vợ, một cô để ân ái và một
cô để đơm cúc quần áo khi nó bị khuyết". Tất cả các buổi sáng, ngay từ
ngụm cà phê đầu tiên uống trong ngày và ngay từ thìa canh nghi ngút khói nóng,
ngài thốt ra tiếng kêu đau đớn chẳng khiến ai giật thột, và tiếp một câu nói
cho thỏa cơn bực lòng: "Ngày mà tôi đi khỏi cái nhà này hẳn các người sẽ
biết rằng cần phải như vậy vì tôi ngấy đến tận cổ cái việc cứ ngồi vào bàn ăn
là miệng bị bỏng phồng ra". Ngài bảo rằng chẳng bao giờ các bữa cơm trưa
được nấu cho ngon lành và độc đáo như những bữa trưa trong những ngày ngài không thể ngồi ăn vì
đã uống thuốc tẩy ruột, và ngài cứ đinh ninh tin rằng đó là sự bội phản của
người vợ đến mức ngài đi đến quyết định sẽ không uống thuốc tẩy ruột nếu bà vợ
không cùng tẩy ruột với mình.
Bực mình trước thái độ làm thinh không chịu hiểu biết của chồng, bà yêu cầu
ngài tặng mình một tặng phẩm độc đáo nhân ngày sinh của bà. Đó là việc ngài
thay mình đảm đương công việc nội trợ trong một ngày thôi. Ngài vui vẻ chấp
thuận ngay, và từ sáng sớm ngài bắt tay vào công việc. Ngài dọn một bữa điểm
tâm thật thịnh soạn nhưng ngài lại quên mất rằng bà không thích ăn trứng tráng
và cà phê sữa. Sau đó ngài ra lệnh chuẩn bị bữa trưa mừng sinh nhật có mời tám
khách ăn cơm và ngài cố gắng hết sức để làm tròn bổn phận người cai quản gia
đình còn tốt hơn cả bà đến mức gần mười hai giờ trưa ngài phải đầu hàng công
việc mà không có lấy một động tác hổ thẹn. Ngay từ phút đầu tiên ngài nhận ra
rằng mình hoàn toàn không quen biết công việc đến mức không biết các dụng cụ để
ở đâu, nhất là trong nhà bếp, và những người hầu cứ để mặc cho ngài chạy đi
chạy lại tìm kiếm chúng, tìm kiếm từng cái một bởi vì các cô cũng về hùa với bà
chủ để trêu chọc ngài. Đến mười giờ trưa người ta vẫn chưa thể quyết định sắp
bữa tiệc vì nhà cửa chưa lau quét, phòng ngủ vẫn chưa dọn dẹp xong, phòng vệ
sinh vẫn chưa được cọ rửa, ngài quên không thay giấy vệ sinh, không thay ga
trải giường như ngài đã vội bảo tay đánh xe đi tìm lũ trẻ, và ngài nhầm lẫn
chức phận của các cô người hầu: sai người đầu bếp đi dọn phòng ngủ và sai bọn
hầu phòng đi nấu ăn. Đến mười một giờ trưa, sắp tới giờ khách đến dùng cơm, nhà
cửa vẫn cứ bề bộn đến mức Phecmina Đaxa không chịu nổi đành phải ra tay dọn dẹp
và chỉ huy công việc. Bà làm trong lúc cười ngặt nghẽo nhưng không phải bà cười
với thái độ của người chiến thắng và đúng hơn bà cười vì mủi lòng thương hại
đối với người chồng quá ư vụng về trong công việc nội trợ. Ngài cảm thấy đau
đớn trước thất bại của mình nhưng lại khéo chống chế bằng luận điệu quen thuộc:
"Chí ít ra, nó cũng không tồi tệ hơn như cái việc anh đi tìm hiểu em mà cứ
giả vờ đi chữa bệnh hồi ấy". Nhưng bài học lại rất bổ ích, không chỉ đối
với ngài. Trong những tháng sau đó, bằng những con đường khác nhau bọn họ, bác
sĩ Huvênan Ucbinô và Phecmina Đaxa, cùng đi tới một kết luận thông minh rằng
quả là không thể chung sống với nhau dưới một hình thức nào khác cũng như không
thể yêu nhau dưới một hình thức nào khác: trên cõi đời này không gì khó hơn là
tình yêu.
Ngay trong giai đoạn lộng lẫy nhất của cuộc đời mới, Phecmina Đaxa đã nhìn
thấy Phlôrêntinô Arixa trong nhiều dịp khác nhau và ngày càng gặp ông nhiều hơn
khi ông càng leo nhanh lên địa vị lãnh đạo Hãng Tàu thủy Caribê hơn và bà tự
rèn luyện để gặp ông mà vẫn giữ được thái độ tự nhiên đến mức nhiều lần bà quên
không chào ông. Bà nghe nói đến ông nhiều hơn, thường xuyên hơn, vì bậc thang
danh vọng mà ông đi trên nó với tinh thần thận trọng nhưng không thể giấu kín
được của ông trong Hãng Tàu Thủy Caribê là một đề tài thường xuyên được đề cập
tới. Bà thấy hình thức của ông ngày một khá hơn, thấy ông bớt rụt rè hơn, thấy
ông người đẫy đà hơn trước, thấy ông đàng hoàng thư thái hơn, thấy ông biết
cách khéo léo hạn chế bớt tốc độ hói tóc. Điều duy nhất khiến bà mãi mãi nhớ
tới thời gian và kiểu cách ăn mặc là những bộ quần áo tối màu của ông, những
chiếc áo lêvita cổ lỗ của ông, chiếc mũ duy nhất, những chiếc cà vạt của nhà
thơ mà của hàng tạp hóa trước đây của mẹ ông vẫn bán, chiếc ô buồn tẻ của ông.
Phecmina Đaxa đã quen nhìn ông với một hình thức khác và đã kết thúc ở việc
thôi không liên hệ ông với Phlôrêntinô Arixa hồi mới lớn từng say đắm bà vẫn ngồi dưới tán lá vàng
rơi ở công viên Lôt Êvăngghêliôt. Tóm lại, lúc nào bà cũng thấy ông như vậy, và
lúc nào bà cũng vui lòng trước những tin tốt đẹp về ông mà người ta nói đến tai
bà, bởi vì dần dần những tin tức ấy đã an ủi bà trước mặc cảm về tội lỗi của
mình.
Tuy nhiên, khi bà tưởng rằng mình đã hoàn toàn xóa nhòa hình bóng ông trong
ký ức thì ông lại xuất hiện một cách bất ngờ và trở thành một bóng ma ám ảnh
trong những nỗi hoài nhớ của bà. Đó là những làn gió dịu nhẹ đầu tiên của tuổi
già khi bà bắt đầu cảm thấy rằng có một cái gì đó đã xảy ra trong cuộc đời, nó
gắn với việc bà thường vẫn nghe thấy sấm nổ trước khi trời mưa. Đó là vết
thương không thể chữa lành của tiếng sấm cô đơn, khô khốc và đúng hẹn, thường
vẫn rền vang vào lúc ba giờ chiều trong tất cả các ngày của tháng mười tại vùng
núi Vidanuêva mà ký ức về nó cùng với năm tháng qua đi càng ngày càng trở nên
tươi rói. Trong lúc những hồi ức mới chỉ ít ngày đã chìm đi trong ký ức sâu
thẳm thì những hồi ức về chuyến đi hào hùng đến tỉnh của người chị họ
Hinđêbranđa ngày một trở nên sống động hơn đến mức tưởng như chúng vừa xảy ra
ngày hôm qua. Bà nhớ tới làng Manaurê, cái làng miền núi, nhớ đường phố duy
nhất của nó, nhớ ngôi nhà đầy hoảng sợ nơi bà thức dậy với chiếc áo sơ mi ướt
đẫm nước mắt thương Pêtra Moralêt, người đàn bà chết vì tình rất nhiều năm
trước ngay trên chính chiếc giường bà nằm. Bà nhớ tới cái mùi quả ổi lúc ấy mà
chẳng bao giờ bà gặp lại, bà nhớ tới những điềm báo trước hết sức rõ nét đến
mức tiếng động đều đều nhỏ nhẹ của chúng bị nhầm lẫn với tiếng động của mưa
rơi, bà nhớ tới những buổi chiều rực rỡ màu đá tôpa của làng Xăng Hoan đến
Xêsa, khi bà đi chơi cùng bầy chị em họ vui vẻ ồn ĩ và bà cứ phải nghiến chặt
hai hàm răng lại kẻo tim bay ra khỏi ngực mỗi khi bọn họ đến gần trạm điện báo.
Bà bán tống bán táng ngôi nhà của cha mình bởi vì bà không thể chịu đựng nổi
nỗi đau thương của thời tuổi
trẻ, không chịu nổi quang cảnh công viên Lôt Êvănghêliôt cô quạnh được
nhìn từ ban công nhà mình, không chịu nổi cái mùi thơm khó hiểu của những bông
hoa dành dành trong những đêm không thể chịu nổi cái hoảng hốt trước những hình
ảnh bà mệnh phụ cổ kính đến nhà vào một buổi chiều tháng hai đã quyết định số
phận bà, và nói chung và không thể chịu đựng nổi những gì khiến ký ức bà trở về
thời kỳ gợi nhớ Phlôrêntinô Arixa. Tuy nhiên, bao giờ bà cũng có đủ bình tĩnh
để mà hiểu rằng những thứ ấy không phải là những ký ức của tình yêu, cũng chẳng
phải là nỗi niềm hối hận, mà đúng ra chúng chỉ là hình ảnh của một nỗi bực mình
từng để lại trong bà dấu ấn của những dòng nước mắt. Vì không biết điều đó, bà
đang bị đe dọa bởi chính cái cạm bẫy của lòng thương hại rằng mình đã làm mất
tương lai của Phlôrêntinô Arixa.
Bà bám chắc lấy người chồng. Và việc này xảy ra đúng vào lúc ngài cần đến
bà hơn cả, bởi vì ngài già hơn bà mười tuổi đang lúc một mình loạng choạng mò
mẫm trong đám sương mù của tuổi già và hơn nữa ngài lại là một người đàn ông và
già yếu hơn bà. Cuối cùng họ đã hiểu nhau rất sâu sắc chứ không như trước đây
khi cuộc sống vợ chồng của họ chưa được ba mươi năm. Khi ấy họ như một người bị
phân làm hai, phải khó chịu với nhau bởi sự thường xuyên phải dò đoán ý nghĩ
của nhau mà không chịu nói thẳng nó ra cho nhau biết hoặc bởi sự tình cờ nực
cười này: Trước công chúng người này thọc vào chuyện mà người kia sẽ nói đến.
Giờ đây họ chung sống rất hòa thuận bên nhau, cùng chịu đựng những hiểu lầm
hàng ngày, những bực mình tức thời và thoáng qua, những chuyện lẩm cẩm mà cả
hai cùng gây ra cho nhau, cả những ý nghĩ tinh nghịch rực rỡ của sự đồng lõa
giữa hai vợ chồng. Đây là thời kỳ họ yêu nhau say đắm nhất, không vội vã cũng
chẳng thái quá và cả hai người đều là những người có lương tâm tốt đẹp và biết
ơn những chiến thắng vẻ vang của họ đối với thế lực chống đối mình. Tuy nhiên,
cuộc đời vẫn đặt họ trước những thử thách chết người khác, đúng thế, những
không quan trọng nữa: bọn họ đã ở một bến bờ khác rồi.
Để chào đón thế kỷ mới, đã có một chương trình sôi nổi cho các hoạt động
công cộng trong đó nổi bật lên một sự kiện đáng nhớ nhất, đó là chuyến du lịch
đầu tiên trên bóng thám không, kết quả của sáng kiến không mệt mỏi của bác sĩ
Huvênan Ucbinô. Một nửa thành phố đã tề tựu tại bãi biển Acsênan để chào mừng
quả bóng bay khổng lồ làm bằng vải mỏng sơn màu cờ tổ quốc cất cánh. Quả bóng
này sẽ mang chuyến thư hàng không đầu tiên đến Xăng Hoan đê la Xiênaga, cách
thành phố khoảng ba chục dặm tính theo đường chim bay về phía Tây-Bắc. Bác sĩ
Huvênan Ucbinô và bà vợ của ngài, những người từng nếm trải cảm giác rùng mình
khi được ngồi trên quả bóng bay tại Triển lãm quốc tế ở thủ đô Pari, là những
người trèo lên khoang bụng của quả bóng bay trước tiên cùng với viên kĩ sư lái
và sáu vị khách mời sang trọng khác. Họ mang theo một bức thư của quan tỉnh
trưởng gửi các chở huyện Xăng Hoan đê la Xiênaga trong đó ngài nói rằng đây là
chuyến thư hàng không đầu tiên trong lịch sử tỉnh nhà. Một phóng viên tờ Nhật
báo Thương mại đã phỏng vấn bác sĩ Huvênan Ucbinô, yêu cầu ngài cho biết ý kiến
của mình khi tham gia chuyến bay mạo hiểm này và bác sĩ đã không phải suy nghĩ
nhiều khi nói ý kiến mình và cái ý kiến khiến ngài phải chịu bao lời báng bổ.
- Theo tôi, - ngài nói, - thế kỷ XIX đã thay đổi có lợi cho toàn thiên hạ,
trừ chúng tôi ra.
Lọt thỏm giữa đám đông náo nhiệt đang hát quốc ca trong lúc quả bóng thám
không bay lên cao, Phlôrêntinô Arixa cảm thấy mình đồng tình với một người nào
đó đã bình luận trong khung cảnh huyên náo rằng chuyến bay này là một cú mạo
hiểm không thích hợp đối với phụ nữ, nhất là phụ nữ ở lứa tuổi của Phecmina
Đaxa. Nhưng chuyến bay này không quá ư mạo hiểm như người ta tưởng trong khi
quả bóng bay lên cao. Hoặc ít ra nó cũng không nguy hiểm như người ta từng gièm
pha. Quả bóng thám không đã tới nơi an toàn không hề gặp một trắc trở nào trong
lộ trình của nó trên bầu trời xanh thẳm không một bóng mây. Nó bay thấp, bay
rất êm ả trong gió nhẹ và xuôi chiều. Trước tiên nó bay qua vùng núi non lởm
chởm, những đỉnh núi tuyết phủ rồi sau đó bay trên một trùng khơi mênh mông của
Xiênaga Grăngđê[55].
[55]:
Đầm lầy bao la.
Từ trên trời cao, như Thượng đế bọn họ nhìn những đống đổ nát của thành phố
Cactahêna cổ kính và anh hùng của những người Anhđiêng, thành phố đẹp nhất trần
gian, bị bỏ hoang bởi dân cư của nó trong cơn hoảng hốt trước nạn dịch tả đã ly
tán hết, sau khi họ đã kháng chiến anh dũng chống lại các cuộc vây quét của
người Anh và các vụ cướp bóc của bọn cướp biển trong suốt ba thế kỷ. Bọn họ
nhìn những tường thành còn nguyên vẹn, cây cỏ mọc trên các đường phố, những
pháo đài bị loài hoa bướm trùm kín, những tòa dinh thự bằng đá hoa cương và
những bàn thờ vàng của các vị Phó Vương đã ruỗng mục vì bệnh dịch ngay trong bộ
xương của họ.
Họ bay trên những căn nhà dựng trên mặt nước ở làng Trôhat đê Cataca, được
sơn quét bằng những màu dậy sắc, có những chuồng nuôi kỳ đà và những bụi hoa
cây bóng nước và cây axtrômêlia trên các vườn bên hồ. Hàng trăm đứa trẻ tồng
ngồng nhẩy ào xuống nước, ồn ĩ bơi lội theo tiếng gào của mọi người. Chúng nhảy
xuống nước từ các cửa sổ, từ các mái nhà, từ trên các con thuyền mà chúng bơi
lái rất nhanh nhẹn và hoạt bát. Chúng bơi lội như những chú cá trích để lượm
lấy những gói quần áo, những chai thuốc ho, những gói bánh và thức ăn, đó là
những thứ hàng của lòng từ thiện mà người đàn bà đẹp đội mũ lông từ trên khoang
bụng của quả bóng bay ném xuống cho chúng.
Họ bay trên những mặt biển ngút ngàn đồng chuối mà sự thanh lặng của nó bay
lên đến tận chỗ họ như thế một làn hơi lạnh lẽo của người chết. Phecmina Đaxa
nhớ lại chính mình hồi mới ba hoặc bốn tuổi đang đi dạo chơi dưới bóng râm của
đồng chuối, tay cứ vịn vào tay mẹ, người lúc ấy rất trẻ gần như một cô gái giữa
đám các bà ăn vận vải mỏng như váy áo của bà hiện tại, che những chiếc ô trắng
muốt và đội những chiếc mũ may bằng vải sa mượt mà. Viên kĩ sư lái bóng thám
không, đang dùng ống nhòm của mình quan sát nhân gian, nói: "Giống như
những người chết". Ông ta đưa chiếc ống nhòm cho bác sĩ Huvênen Ucbinô và
ngài nhìn những chiếc xe bò nằm giữa những cánh đồng, nhìn những cột thu lôi
dọc đường sắt, nhìn những kênh mương nước băng giá và ở chỗ nào mà ngài đưa mắt
tới ngài đều thấy những xác người nằm rải rác. Có ai đó đã từng bảo rằng bệnh
thổ tả thành nạn dịch đã tàn phá nhiều làng ở xung quanh Xiênaga Grăngđê. Bác
sĩ Huvênan Ucbinô, trong khi nói vẫn không rời mắt khỏi ống nhòm:
- Vậy có thể đó là một phương thức đặc biệt của bệnh thổ tả, - ngài nói, -
bởi vì mỗi người chết đều có một phát đạn nhân đạo vào ngay giữa gáy.
Sau đó ít lâu, bọn họ bay trên biển ngầu bọt và hạ cánh an toàn xuống một
bãi bằng nóng hầm hập, với sàn đất diêm sinh nứt nẻ rát như lửa cháy. Tại đây
đã có mặt các quan chức đang đứng dưới bóng râm những chiếc ô thường dùng, vật
tránh nắng duy nhất, đã có mặt học sinh các trường tiểu học đang vẫy cờ theo
nhịp bài quốc ca, đã có mặt những hoa hậu trong các vũ hội cacnavan tay cầm hoa
giấy, đầu đội mũ các-tông thếp vàng với bộ vú căng mọng như trái đu đủ của làng
Gayra trù mật, làng giàu có nhất trong vùng duyên hải Caribê thời ấy. Điều duy
nhất mà Phecmina Đaxa mong muốn là một lần nữa được nhìn lại làng quê mình để
cùng với những ký ức xa xưa nhất đương diện với nó, nhưng người ta không cho
phép bất kỳ ai đi thăm các làng ấy vì sợ những nguy hiểm của bệnh dịch. Bác sĩ
Huvênan Ucbinô trao bức thư lịch sử mà sau đó nó lẫn vào đống giấy tờ khác và
không bao giờ người ta biết được gì về bức thư này. Cả đoàn khách suýt nữa ngất
xỉu trong không khí ngái ngủ của các bài diễn từ và đáp từ. Cuối cùng bọn họ
được đưa lên lừa để đi đến bến tàu thủy ở làng Viêhô[56] là nơi đầm lầy ăn
thông với biển cả, vì viên kĩ sư lái không thể nào khiến cho quả bóng thám
không lại cất cánh được. Phecmina Đaxa tin chắc rằng hồi còn rất nhỏ cùng với
mẹ mình bà đã đi qua đây trên một chiếc xe hai bò kéo. Khi đã lớn lên rồi, bà
kể lại sự kiện ấy với cha mình và ông cụ chết mà vẫn đinh ninh rằng bà không
thể nào nhớ được chuyện ấy.
[56]:
Làng cổ.
- Cha nhớ rất rõ chuyến đi ấy và điều con kể lại rất chính xác, - ông cụ
nói với con gái, - nhưng chuyện ấy xảy ra ít nhất năm năm trước khi con ra đời.
Các thành viên của đoàn thám hiểm trên bóng thám không đã trở về cảng thành
phố sau ba ngày đi tàu thủy, người phờ phạc vì một đêm bão tố giữa biển khơi và
họ được đón tiếp trọng thể như đón tiếp các anh hùng. Dĩ nhiên, Phlôrêntinô
Arixa lọt thỏm trong đám đông và ông là người nhận ra trên gương mặt của
Phecmina Đaxa những dấu ấn của nỗi hoảng sợ. Tuy nhiên, ngay buổi chiều ấy ông
lại thấy bà có mặt trong cuộc biểu diễn đi xe đạp, cũng do chồng bà bảo trợ, và
ông đã không thấy một dấu hiệu nhỏ của sự mệt mỏi trên gương mặt bà. Bà đi một
chiếc xe đạp đẩy chân giống như một bộ đồ làm xiếc, với bánh trước rất to, cao
và yên xe lại ở về phía đó và bánh sau lại nhỏ bé dường như chỉ làm chỗ tựa
thôi. Trong lúc biểu diễn bà mặc một chiếc quần ống rộng thùng thình có các tua
dải màu sắc sặc sỡ từng gây nên những lời bàn tán ầm ĩ của các bà lớn tuổi và
đồng thời gây nên trạng thái thảng thốt của các công tử nhưng không ai làm ngơ
trước tài nghệ của bà.
Lần ấy và bao lần khác nữa trong nhiều năm sau này bà là hình ảnh rực rỡ
bỗng nhiên xuất hiện trước Phlôrêntinô Arixa, khi ông mong muốn cho sự kiện
ngẫu nhiên xảy ra, rồi chúng lại đột nhiên biến mất đã khắc sâu trong trái tim
ông một con đường mòn khao khát. Nhưng những hình ảnh rực rỡ ấy đã đánh dấu sự
diễn tiến của cuộc đời ông vì ông biết rõ tính tàn bạo của thời gian không chỉ
trên chính da thịt mình mà ngay cả trong những thay đổi không thể tránh được mà
ông nhận thấy trên con người Phecmina Đaxa mỗi lần gặp lại bà.
Có một đêm ông bước vào tiệm ăn của đôn Sanchô, một tiệm ăn thời thuộc địa
Tây Ban Nha, và ông ngồi ở một xó biệt lập hơn cả, như vẫn thường làm thế khi
ông một mình ngồi vào bàn ăn giữa buổi của mình. Bỗng ông nhìn thấy Phecmina
Đaxa trong tấm gương lớn ở cuối phòng, ngồi bên cạnh chồng và hai cặp vợ chồng
khác và ở một góc độ trong đó ông nhìn rõ toàn bộ vẻ lộng lẫy của bà. Trong tư
thế hết sức thoải mái bà đang hướng đạo cuộc nói chuyện với một vẻ duyên dáng
và một nụ cười bừng
nở rạng rỡ như pháo hoa và vẻ đẹp của bà càng rực rỡ hơn dưới làn nước mắt của
ông.
Với hơi thở dồn dập ông thích thú chiêm ngưỡng Phecmina Đaxa. Ông nhìn bà
ăn, nhìn bà nhấm nháp rượu, nhìn bà đùa bỡn với Đôn Sanchô người thuộc thế hệ
của dòng họ ấy. Từ cái bàn ăn đơn chiếc này ông sống với bà trong khoảnh khắc
của đời mình và trong hơn một giờ ông cứ quanh quẩn dạo chơi trong thế giới tâm
hồn mình. Sau đó ông uống thêm bốn tách cà phê để có thời gian ngồi ở đây, cho
đến khi ông nhìn thấy bà đi ra lẫn trong nhóm bạn bè. Họ đi rất gần đến mức ông
nhận ra hơi hướng của Phecmina Đaxa giữa làn nước hoa thơm nức của những người
cùng đi.
Từ đêm ấy trở đi, và hầu như cả một năm sau đó, ông duy trì cuộc săn đuổi
ráo riết chủ nhân tiệm ăn, ông đòi trả cho chủ nhân cái mà ông ta thích, hoặc
là tiền hoặc là ân nghĩa, hoặc là bất cứ một thứ gì mà ông ta mong muốn nhất
trong đời để ông ta bán cho mình chiếc gương. Nhưng việc làm ấy không dễ dàng
một chút nào bởi vì Đôn Sanchô, cụ già Sanchô, lại tin vào câu chuyện huyền
thoại nói rằng cái khung gương quý giá được những người thợ mộc thành Viên làm
là chị em sinh đôi với khung gương của Maria Antôniêta và rằng cái khung gương
ấy đã biến mất không để lại dấu ấn nào: trừ hai hạt ngọc duy nhất còn lại. Khi
chủ nhân đồng ý nhượng lại rồi, Phlôrêntinô Arixa liền đem chiếc gương treo
ngay trong nhà mình không vì giá trị đặc biệt của cái khung gương mà vì cái khoảng không bên
trong của tấm gương vốn là nơi người yêu của ông đã ngồi trong hai giờ đồng hồ.

