John Đi Tìm Hùng - Chương 04 - Phần 1
Chương 4
Chiến tranh là một kỉ nguyên đen tối
trong lịch sử của Mĩ và Việt Nam. Bạn chiến đấu cho bên nào không quan trọng,
cái chết và sự hủy diệt không chọn bên, không cần nguyên nhân, và cướp đi mạng
sống con người không thương tiếc. Đó là một cuộc chiến đáng lẽ ra không liên
quan gì tới nước Mĩ, nhưng nó đã xảy vì bị những lời xúi giục, dối trá vô căn
cứ. Đó là một cuộc chiến mà lẽ ra nước Mĩ đã có thể ngăn không cho xảy ra. Hãy
hình dung nếu trước đây nước Mĩ đã hỗ trợ Việt Nam giành lấy độc lập từ tay
người Pháp. Mọi chuyện đã khác đi rất nhiều.
Với tôi, chiến tranh Việt Nam, ở Mĩ
người ta vẫn gọi như vậy, là lần duy nhất trong lịch sử nước Mĩ đã thua cuộc,
bị đánh bại bởi một đối thủ nhỏ bé hơn. Tôi nhớ từng học về cuộc chiến này
trong lớp lịch sử và đã nghĩ “Chà, những người đó hẳn phải rất giỏi và thông
minh thì mới đánh bại được chúng ta”. Nhưng vinh quang đến với Việt Nam đi kèm
với một cái giá đắt. Cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người, để
lại một đất nước và những con người mang nhiều vết thương và kí ức muộn phiền.
“Vài người cuối cùng cũng đi tìm được sự tha
thứ, nhưng sẽ không ai có thể quên đi”, một người lính Việt Nam già đã nói với
tôi như vậy. Câu nói đó đã đè nặng lên tâm trí tôi từ trước chuyến đi, ngay cả
trước khi tôi tới Việt Nam. Với một vài người Việt Nam, tôi sẽ luôn bị coi là
người ngoài cuộc. Một người Mĩ, một Việt Kiều, nhưng không bao giờ là “người
Việt Nam” thực sự.
Lúc đó giữa một buổi sáng ở Hương
Sơn, Hà Tĩnh. Đó là ngày thứ ba và cũng là ngày cuối cùng của tôi ở đây. Mặt
trời trốn đằng sau những đám mây, khiến buổi sáng mát mẻ hơn một chút. “Mặc
quần áo tử tế vào nhé, đi ăn trưa với các bạn của bác”, bác Liu thông báo cho
tôi biết. Chúng tôi đi men theo một con đường mấp mô đá dọc ngôi làng. “Con
đường này được người Đức tài trợ và mới hoàn thành khoảng sáu tháng trước,
nhưng mà giờ thì nó đã như thế đó.” Bác Liu lắc đầu nói về con đường đang xuống
cấp.
Chúng tôi tới một đoạn đường nhỏ, hơi
dốc lên đồi, một ngôi nhà hiện ra trước mắt. Trước ngôi nhà là mấy cái bàn và
ghế đã được sắp sẵn. Chúng tôi tới ngồi cùng với năm người bởi một vài người
vận đồ lính trong khi những người khác đều mặc quần áo là lượt thẳng thớm. “Đây
là Trần Hùng John. Là người Mĩ gốc Việt”, bác Liu giới thiệu tôi với mọi người.
Những ánh nhìn khiến tôi hơi ái ngại. “Cậu là người Mĩ”, một người đàn ông hỏi
tôi, hít một hơi thuốc thật sâu. “Các cậu đánh nhau với chúng tôi trong chiến
tranh”, ông nói.
Cái cách ông ấy nói “các cậu” như thể
tôi cũng phải chịu trách nhiệm khiến tôi thấy khó chịu. Tôi ngồi nghe họ kể về
những câu chuyện thời chiến. Tôi thấy giận, rồi lại cảm thấy tội lỗi. Tôi thấy
như mình đúng là phải chịu một phần trách nhiệm, vì ở cái bàn này, tôi đại diện
cho nước Mĩ. Đại diện cho sự tàn phá mà nước Mĩ đã gây ra trước đây. Nước Mĩ,
quốc gia lớn mạnh gần nhất thế giới, đáng lẽ ra phải là người bảo trợ cho công
lí và những nước yếu hơn. Tôi đối mặt với thực tế.
Những hậu quả của chiến tranh vẫn còn
lại sau nhiều thập kỉ. Những nạn nhân của chất độc màu da cam, những mảnh đất
vẫn còn những quả bom chôn sâu phía dưới, những kí ức hãi hùng chưa phai nhạt.
Có thêm nhiều người tới nhập cuộc, bên tay trái tôi là người đàn ông chỉ còn
một chân. Ông để cái nạng xuống đất, với người sang để bắt tay tôi. Ông chỉ
xuống ống quần lủng lẳng phía bên phải, nói: “Một lính Mĩ đã lấy mất một cái
chân này của tôi. Anh ta bắn hư nó luôn.” Người đàn ông kể, không có chút gì
cay đắng trong giọng nói, ông chỉ kể như vậy.
Cảm giác tội lỗi tràn ngập. Gần như
chính tôi đã kéo cò súng bắn mất cái chân ấy. “Cuộc chiến đó là lỗi của nước
Mĩ. Cháu rất xin lỗi vì những gì nước Mĩ đã gây ra. Người Mĩ cũng ghét chiến
tranh, nhưng khi đó chính phủ vẫn cứ làm”. Tôi dừng lại. Những người đàn ông
lớn tuổi chăm chú lắng nghe từng lời tôi nói.
Bỗng nhiên tôi trở thành phát ngôn
viên không chính thức của cuộc chiến đã xảy ra từ lâu, tôi xin lỗi và bảy tỏ sự
nuối tiếc vì những hành động mà tôi không hề liên quan. “Rất nhiều người Mĩ cảm
thấy tội lỗi và họ muốn đến giúp Việt Nam, nhưng họ không biết phải làm thế
nào. Bây giờ cháu đang thực hiện chuyến đi dọc Việt Nam và không mang theo
tiền, để cháu có thể hiểu hơn, rồi trong tương lai sẽ giúp người dân Việt Nam”.
Như một người cha đầy tự hào, bác Liu khẳng định lại lần nữa những điều tôi vừa
nói.
Một người đàn ông lớn tuổi ngồi đối
diện tôi, mái tóc điểm bạc và khuôn mặt nghiêm nghị, cầm chiếc cốc vươn sang,
“Chiến tranh đã qua lâu rồi, từ trước cả khi cháu sinh ra. Nó kinh khủng lắm,
chết chóc và tàn phá. Nó xẻ tan nát các gia đình, anh em chống lại nhau, cha và
con trai chống lại nhau. Cuộc chiến đã chia cắt Việt Nam. Cháu sẽ không bao giờ
hiểu được những gì bọn bác đã trải qua, nhưng đó không phải là lỗi của cháu.
Việc cháu đang làm rất dũng cảm, và bác muốn cảm ơn cháu.”
Ngạc nhiên rồi thấy nhẹ nhõm, tôi đã
chờ nghe những lời đó từ lâu. Tôi không có lỗi, tôi chỉ là sản phẩm phụ ra đời
từ cuộc chiến. Gia đình tôi cũng đã phải chịu đựng. Bà ngoại đã mất người chồng
đầu tiên và rất nhiều anh chị em, rồi bà buộc phải rời khỏi Việt Nam. “Cả hai
bố mẹ cháu đều là người Việt Nam à? Thế thì cháu là người Việt Nam, máu Việt
Nam chảy trong người cháu rồi, kể cả nếu cháu không sinh ra ở đây”, người đàn
ông lớn tuổi nói tiếp. Tôi mỉm cười, thấy gánh nặng như vừa được nhấc khỏi vai.
Sau đó, chúng tôi nói chuyện về cuộc
sống khó khăn của người nông dân Việt Nam. Những cựu chiến binh, những người đã
trở về quê nhà, cũng công nhận cuộc sống nông bần vô cùng vất vả và nhiều thách
thức. Không phải chiến đấu nữa, nhưng họ lại phải đối mặt với nhiều gian khó
khác.
“Đi thực tế như thế này thì cháu mới
biết cuộc sống của người nông dân khổ và nghèo như thế nào. Nhưng không hẳn là
lỗi của người dân. Nông dân Việt Nam rất chăm chỉ.” Họ đều đồng ý. “Nếu cháu
thực sự muốn giúp, hãy mời những người mà có thể giúp được tới thăm. Mọi người
ai cũng biết cuộc sống của nông dân khó, nhưng họ chưa thấy tận mắt là khó cỡ
nào. Chỉ có ở nông thôn họ mới được chứng kiến. Họ mà đến thì có thể ở nhà
bác”, một người đề nghị.
Chúng tôi tiếp tục bữa ăn. Vài người
nói về chiến tranh, vài người kể về cuộc sống, nhưng không ai kể chuyện với
giọng cay đắng hay chán ghét. Không có mối hận thù nào ở đây. Sự căm ghét, cơn
giận dữ mà tôi cứ nghĩ những người đàn ông này vẫn giữ, chỉ là sự tưởng tượng
của tôi. Tôi đã tưởng nhầm cuộc chiến tranh với nước Mĩ là điều tồi tệ đầu tiên
mà những người này đã trải qua. Vài người trong số họ đã từng chiến đấu với
những cường quốc như Pháp, Nhật, và cuối cùng mới đến Mĩ. Họ hiểu bản chất của
chiến tranh. Chiến tranh rất xấu xí.
Chiều muộn hôm đó rời khỏi Hương Sơn
với một nhiệm vụ mới khám phá ra. Những người đàn ông tôi vừa gặp đã hoàn thành
nhiệm vụ với Tổ Quốc, họ đã chiến đấu anh dũng để giải phóng đất nước khỏi sự
thống trị của người da trắng. Thức ăn, đồ uống, và những câu chuyện mà họ đã
chia sẻ với tôi chính là một biểu tượng. Họ đã truyền ngọn đuốc cho tôi, cho
thế hệ của những người như tôi. Thế hệ của họ được định nghĩa bởi chiến tranh
và sự sống sót. Thế hệ của tôi vẫn còn đang chờ được định nghĩa. Còn rất nhiều
điều tôi cần phải học hỏi nhưng tôi muốn được đóng góp, muốn được làm gì đó cho
đất nước này như những người đàn ông đó đã làm trước đây.
Cuối buổi chiều, bác Liu và anh Qúy
đưa tôi lên một chiếc xe khách nhỏ đi tới thành phố Hà Tĩnh. Giờ tôi biết mình
phải làm gì. “Đi và học hỏi càng nhiều càng tốt. Học về Việt Nam và con người
Việt Nam. Có thể ngày nào đó cháu sẽ trở lại và giúp được”, bác Liu nói với
tôi.
Chiếc xe gần như không thể chịu đựng
được hơn, ba mươi hai con người bị nhồi trong một khoang chỉ có hai mươi chỗ.
Nguy hiểm, nhưng đó là cách người chủ xe kiếm tiền. Hai chân của tôi tê dại vì
phải ngồi nhấp nhổm trên đùi một người đàn ông lớn tuổi. Phần tệ nhất là những
trận nôn mửa. Những tiếng khạc nhổ, ho hắng và ói mửa thi nhau vang lên. Điện
thoại của tôi đổ chuông nhưng tôi không dám nhấc máy. Tôi không muốn thu hút sự
chú ý. Anh Qúy cho tôi ba mươi lăm ngàn đồng, vé xe khách trị giá đúng từng đó.
Nếu họ biết tôi là người nước ngoài, tôi sợ họ sẽ nâng giá.
Tôi quay trở lại được thành phố lành
lặn. Điện thoại lại reo lên.
“Anh đang ở đâu? Em đang ở Hà Tĩnh”,
Thanh nói trong tiếng xe cộ và tiếng mưa.
“Cái gì? Tại sao chị ở Hà Tĩnh”. Tôi
hỏi với giọng khó chịu.
“Em muốn gặp anh trước khi anh đi,
đây có thể là lần cuối chúng mình được gặp nhau.”
Tôi biết điều đó là một ý kiến tồi tệ
và điều Thanh vừa nói không thật đáng tin. Nhưng đằng sau những lời không thật
lòng đó lại là một cô gái đáng thương đang cần được giúp đỡ. Vẫn luôn có điều
gì đó khiến tôi cảm thương những cô gái có hoàn cảnh đặc biệt. Có thể tôi sẽ
giúp được họ, có khi còn là cứu họ. Tôi đồng ý gặp Thanh. Thanh đón tôi bên
đường, khi trời đã ngớt mưa và nhường lối cho bầu trời buổi tối quang đãng.
Chúng tôi tới một nhà hàng nhỏ.
“Em yêu anh. Em muốn được ở bên anh.”
Thanh cầm lấy tay tôi và nói dịu dàng.
Tôi vẫn ác cảm với cô gái này, người
đã nghĩ rằng tôi ngốc đến nỗi “ mắc bẫy” và trở thành “một người yêu” trong
danh sách “người yêu” của cô.
“Họ không có ý nghĩa gì với em cả. Em
yêu anh. Em biết điều đó trong tim mình. Anh không giống với ai em gặp trước
đây cả. Để em đi cùng anh và em sẽ mãi mãi ở bên anh”, Thanh nài xin một cách
tuyệt vọng.
Tôi không biết liệu Thanh có đang
diễn kịch không. Tôi không biết cô ấy đã quyến rũ được bao nhiêu người đàn ông
rồi và đã bao lần cô dùng chiêu trò này? Tôi nhìn vào đôi mắt cô gái, cố tìm
kiếm sự lừa dối. Nhưng tôi không thể thấy gì hết. Những cảm xúc của cô gái có
vẻ như là thật. Nỗi bực mình được thay bằng sự cảm thương. Tôi thấy thương cô
ấy. Nhưng tôi không yêu cô ấy. Tôi tìm cách trả lời, cố gắng không khiến cô
thêm đau khổ.
“Tối nay anh ở đâu?” đột nhiên Thanh
hỏi. Tôi nhìn lên đồng hồ, đã 9 giờ tối.
“Đừng lo. Chị nên về nhà đi trước khi
mẹ chị lo cho chị”. Tôi nói.
“Mẹ em tưởng là em đến nhà bạn ở. Hãy
ở chỗ em tối nay. Anh làm gì còn chỗ nào để đi. Chỉ tối nay thôi rồi ngày mai
anh sẽ không bao giờ gặp em nữa.”
“Ok.”
Thanh thuê một căn phòng có hai
giường ngủ trong một nhà nghỉ xập xệ. “Hai người không ở đây được. Chỗ tôi
không làm cái dịch vụ đó”, chủ nhà nghỉ nói và có lẽ nghĩ rằng Thanh là gái mại
dâm và tôi là khách chơi bời. Tôi hiểu ý lời nói của người chú này là: Tôi sẽ
bắt các người trả thêm tiền. Thanh nói gì đó với người chủ, sử dụng kĩ năng
ngôn ngữ của mình, cô đã thuyết phục được người ta.
Tối hôm đó Thanh cố gắng quyến rũ
tôi. Cô bước ra từ phòng tắm, trên người không có gì hơn bộ đồ lót. Tôi đang
viết dở và ngẩng lên thì đã thấy cô gái tiến tới phía giường của tôi. Thanh có
một cơ thể thanh mảnh, những đường cong có được nhiều năm trời luyện múa. Cô ấy
có đủ sức hấp dẫn đối với bất cứ người đàn ông bình thường nào. Nhưng tôi không
yêu Thanh. Tôi sẽ không trở thành một người ngoại quốc trong danh sách “người
yêu” của cô ấy. Thanh áp sát tôi với mục đích rõ ràng và nhanh chóng cướp được
một cái hôn nhẹ, nhưng chỉ vậy mà thôi. Tôi không thể trở thành kẻ lợi dụng cô
ấy. Thanh muốn một người nước ngoài, nhưng tôi là người Việt Nam. Không cần
phải nói nhiều, tôi không thể giúp được Thanh. Nhưng cô ấy cũng không cần sự
giúp đỡ của tôi. Tôi biết, thẳm sâu bên trong, Thanh là một người tốt. Nếu
không như thế, cô ấy đã không giúp tôi đến thăm các gia đình người dân tộc
thiểu số và ủng hộ bằng tiền của mình. Nhưng những người tốt đôi khi cũng có
vấn đề. Cô ấy chỉ tin tưởng một cách sai lầm rằng cô ấy cần một người đàn ông
khiến cô ấy hạnh phúc. Ngày hôm sau, tôi đi lấy nốt số đồ đạc ở nhà Hoàng trước
khi lên đường. Thanh cố gắng hi vọng tôi sẽ đổi ý. Nhưng đoạn đường chung của
cô ấy và tôi đã kết thúc.
“Cảm ơn vì tất cả những sự giúp đỡ
của chị. Em chúc chị mọi điều tốt lành. Chị rất mạnh mẽ và thông minh, chị
không cần một người đàn ông như em đâu”, tôi nói với Thanh.
“Tớ sẽ làm việc riêng của tớ. Cứ tiếp
tục theo đuổi giấc mơ của cậu. Chúc cậu mọi điều tốt đẹp. Tớ rất vui vì chúng
ta là bạn”, Thanh nói với tôi. Có lẽ đó là lần cuối cùng tôi gặp cô ấy.
Điểm dừng tiếp theo của tôi là Quảng
Bình, tôi lại có dịp gặp các cựu chiến binh khác. Tôi gặp hai người. Họ sống
trong một ngôi nhà hai tầng. Người chồng trông rất phúc hậu với mái tóc điểm
bạc, cỡ khoảng lục tuần. Bác ấy có một thân hình rất cân đối, đôi cánh tay dài
với những cơ bắp săn chắc. Người vợ có vóc dáng nhỏ bé, mái tóc xoăn, nhìn trẻ
hơn một chút và cánh tay phải bị thương rất dễ nhận ra. Chắc hẳn là do chiến
tranh, nhưng tôi không nói.
Đã nghỉ hưu, cặp vợ chồng này vẫn
tiếp tục làm việc, họ bán sữa đậu nành và các món ăn ngọt trong một khu chợ
nhỏ. Mỗi buổi sáng, cứ tầm 4 giờ là họ lại dậy chuẩn bị. Tới 5 giờ rưỡi, người
chồng sẽ lái xe đưa vợ ra chợ, giúp dựng hàng rồi mới về. Cả ngày bạn sẽ ngửi
thấy mùi sữa đậu tươi được ủ trong khi người chồng bận bịu với công việc nhà.
Con gái của hai người, chị Thảo, làm
việc cho đài truyền hình ở Quảng Bình. Chị đã nghe về câu chuyện của tôi và rất
muốn làm một chương trình. Giữa sáng thì tôi tới Đồng Hới, sau hai ngày ngủ nhờ
trên sàn những ngôi nhà có chuột to bằng cỡ con mèo con. Một cơn mưa lớn chào
đón tôi. Giờ thì tôi hiểu vì sao miền Trung Việt Nam lại được biết đến với
những trận lụt. Tôi lạch bạch lội trong các vũng nước, mưa được vài phút thì
nước đã dâng cao tới đầu gối ở một số đoạn đường. Nhưng cơn mưa rào tới nhanh
và càng tạnh nhanh.
Chị Thảo đón tôi và đưa tới một quán
cà phê. Chị nghĩ rằng chuyến đi của tôi là để chứng minh cho thế giới thấy lòng
tốt của người Việt Nam. Trên mạng đầy rẫy những bài báo và bút kí than vãn về
sự tồi tệ của Việt Nam. Một số là kết quả của sự tìm hiểu không kĩ và không
dành đủ thời gian để hiểu về văn hóa ở đây, một số cũng phàn nàn về con người.
Nhiều người không hiểu văn hóa đứng xếp hàng, họ đẩy và chen lấn để đi qua,
người lái xe không đi chậm lại hoặc dừng lại cho người qua đường và thái độ của
nhiều người thì thật sốc. Bản thân tôi cũng sốc thì mới đến đây, nhưng ở đâu
cũng có cái tốt và cái xấu, ta cần chấp nhận cả hai cùng một lúc.
“Thật ra em đi bộ cũng không nhiều
lắm. Mục đích của chuyến đi là để em hiểu hơn về Việt Nam và trải nghiệm cuộc
sống của người dân. Có thể em sẽ giúp được nhiều người trong tương lai.” Tôi
giải thích với chị.
“Câu chuyện đó còn hay hơn đấy”, chị
trả lời, trong đầu như đang vạch ra sẵn cuộc phỏng vấn.
“Em không biết là mình có muốn làm
một phỏng vấn trên ti vi không nữa. Có quá nhiều người biết về hành trình của
em rồi.” Tôi bày tỏ sự lo lắng của mình.
“Cái này chỉ là cho tỉnh Quảng Bình
thôi, chị nghĩ mọi người ở đây sẽ rất thích nghe những câu chuyện như của em.
Rất thú vị và rất truyền cảm hứng.”
“Tuyệt. Em có thể tới ở nhà cha mẹ
của chị trong khi chị lên chương trình nhé.”
Chị đưa tôi tới nhà cha mẹ của chị,
nơi tôi gặp cha chị, một người rất đặc biệt ở cái tuổi “thất thập cổ lai hi”.
Tôi tưởng tượng ngày còn trẻ, trông ông có lẽ khá đáng sợ, cao ít nhất 1 mét 80
và săn chắc. Nhưng ông rất hiền và ăn nói vô cùng nhỏ nhẹ. Ông đón chúng tôi
với nụ cười và hồn hậu mời tôi vào nhà. Chị Thảo phải quay lại chỗ làm nhưng
đảm bảo với tôi rằng cha chị sẽ chăm sóc tôi tốt.
Người đàn ông lớn tuổi và tôi ngồi,
nói chuyện một hồi lâu. Trong đời, tôi chưa bao giờ gặp ông nội hay ông ngoại,
nhưng khi tiếp xúc với cha chị Thảo, tôi hi vọng ông của tôi sẽ giống như vậy.
Không phải kiểu đàn ông lớn tuổi nghiêm khắc, luôn yêu cầu người khác phải tôn
trọng và nể sợ mình. Ông là người mà bạn có thể chia sẻ mọi điều cùng và sau đó
sẽ cảm thấy được vỗ về và an ủi. Ông ngồi đó và lắng nghe chăm chú câu chuyện
của tôi, không hỏi cũng không ngắt lời, lắng nghe một cách tôn trọng. Ông liên
tục rót cho tôi những cốc sữa đậu nành tươi mát lạnh, tôi uống lấy uống để. Cốc
sữa ngọt vừa phải và không vướng cặn, hoàn hảo cho loại đồ uống ưa thích của
tôi.
“Nếu bác bận gì thì bác cứ làm đi,
cháu không muốn phiền bác”, tôi nói, cảm thấy hơi ái ngại vì đã nói quá nhiều.
“Ừ thực ra bác phải làm ít việc”, bác nói. “Cháu lấy xe của bác mà đi loanh
quanh. Bác mới mang thêm đồ ra cho bác gái rồi, nhưng trở lại lúc 5 giờ chiều
để bác đi đón bác gái nhé.’
“Cháu biết đi xe máy chưa?” bác hỏi
tôi.
“Vâng, cháu là lái lụa.” Tôi nói đùa.