Em phải đến Harvard học kinh tế - Chương 11 - Phần 1
CHƯƠNG
11
THÁCH THỨC ĐỜI NGƯỜI, ĐỘT PHÁ
HARVARD
(Lời kể của Trương Hân Vũ)
Trung tuần tháng 2 năm 1998, Âu Bằng
và Đình Nhi lên máy bay bay về nước. Lúc các cháu còn trên bầu trời Đại Tây
Dương, thư báo về ngài Larry đã bay về Trường Chuyên ngữ Thành Đô nhanh hơn
chuyến bay của học sinh nhà trường. Đình Nhi vừa về đến nhà, ngay đêm đó, phóng
viên các báo đã đến phỏng vấn lấy tin. Ngày hôm sau báo “Thành Đô buổi chiều”
ngay trang đầu đã chạy hàng tít lớn đỏ thắm: “Học sinh trung học Thành Dung
(tên gọi khác của Thành Đô) thăm Mỹ và mang vinh dự trở về”, các báo khác cũng
đồng thời đua nhau đưa tin. Bất kể là giáo viên, học sinh của Trường hay là
người dân bình thường đều cho rằng những biểu hiện xuất sắc của họ ở Hoa Kỳ đã
mang lại vẻ vang cho thanh thiếu niên và cho quê hương.
Âu Bằng và Đình Nhi cũng rất tích cực
phối hợp với các đơn vị hữu quan giải quyết tốt mọi việc, nhưng rất lo lắng.
Lần thăm Hoa Kỳ này đã ngốn hết cả tháng trời! Các bạn cao trung ba và cao
trung hai đã đi hết một đoạn đường dài trên con đường thi đại học. Họ cần phải
cố gắng hết sức nhanh chóng đuổi kịp các bạn.
LARRY
HỎI: EM CÓ MUỐN NHẬN THÁCH THỨC VỀ PHÍA MÌNH KHÔNG?
Tháng 6 năm 1998, Đình Nhi đang bận
rộn với kỳ thi cao trung thì nhận được bức thư điện tử của ngài Larry, ông dùng
lối nói ngắn gọn thường ngày đi thẳng vào sự việc: “Em Đình, báo cho em một tin
tốt lành. Tôi được biết Trường Đại học Columbia và Học viện Wellesley đều có
học bổng toàn phần dành cho học sinh Trung Quốc, đương nhiên họ chỉ nhận những
học sinh Trung Quốc giỏi nhất. Không biết em có muốn nhận thách thức: trực tiếp
xin sang Hoa Kỳ học hệ chính quy hay không?”
Rõ ràng, Đình Nhi có muốn sang Hoa
Kỳ học hay không, ngài Larry còn chưa biết, là vì khi trả lời đường dây nóng
của khán giả Đài truyền hình C-SPAN của Hoa Kỳ, chỉ một mình Đình Nhi là học
sinh Trung Quốc trả lời là chưa dự định sang Hoa Kỳ học đại học. Trước khi Đình
Nhi đi thăm Hoa Kỳ, cả nhà chúng tôi đã trao đổi về vấn đề học đại học của Đình
Nhi. Chúng tôi đều nhất trí là, đến giai đoạn nghiên cứu sinh ra nước ngoài mới
thích hợp. Câu trả lời của Đình Nhi ở Đài Truyền hình C-SPAN với ý tưởng đó. Vì
thế, ngài Larry thấy cần phải thăm dò ý kiến của Đình Nhi trước.
Về bức thư của ngài Larry, Đình Nhi
vẫn chưa nhắc lại ý kiến ban đầu, còn tò mò thêm: “Theo ông, tôi có mấy phần
chắc chắn giành được học bổng toàn phần của một trường nổi tiếng Hoa Kỳ?”
Ngài Larry trả lời ngay sau đó: “Sự
thành bại của một cuộc tranh đua không phụ thuộc vào bức thư giới thiệu của tôi
mà ở chỗ em có rất nhiều ưu thế. Nhưng hai học sinh tôi giới thiệu trước đây,
sau khi được nhận vào học đều rất xuất sắc. Do vậy, sự giới thiệu của tôi, về
phương diện nhà trường có phần được tín nhiệm. Nhưng đó không phải là chắc chắn
tuyệt đối. Loại tranh đua nào cũng có những yếu tố không xác định được rõ
ràng”. Tiếp theo Larry phân tích cái lợi cái hại của Đình Nhi khi học đại học ở
Trung Quốc và Hoa Kỳ. Ông nhận thức rất rõ ràng, Đình Nhi nếu trực tiếp xin học
một trường chính quy ở Hoa Kỳ sẽ có lợi cho sự phát triển trong tương lai. Ngài
Larry vốn là một luật sư lâu năm trong nghề, thói quen nghề nghiệp khiến ông
không thể bắt buộc Đình Nhi phải chấp nhận những ý kiến đó mà chỉ hi vọng Đình
Nhi suy nghĩ nghiêm túc đối với đề nghị của ông.
Lúc ấy, Đình Nhi mới mười bảy tuổi,
quyết định thế nào cần phải được sự đồng ý của người bảo lãnh. Do đó, trên góc
độ pháp luật, Larry không bỏ qua việc để Đình Nhi hỏi ý kiến ba mẹ.
Sau khi biết được nội dung bức thư
của ngài Larry, cả ba người chúng tôi hết sức vui mừng. Chúng tôi cảm thấy,
thái độ của Larry một lần nữa chứng thực tiềm lực phát triển của Đình Nhi. Tiếp
theo, chúng tôi điềm tĩnh lại. Đi sang Hoa Kỳ học, xét cho cùng có quan hệ tới
sự thành bại của cả một đời người, không so sánh lợi hại tỉ mỉ, không thể khinh
suất quyết định. Huống hồ, nó liên quan tới rất nhiều vấn đề. Một khi đã quyết
định xuất ngoại du học, tất cả cuộc sống hiện nay của Đình Nhi cần phải điều
chỉnh sắp xếp lại. Việc này hết sức khó khăn giống như trường hợp một chiếc xe
phóng như bay sẽ phải rẽ ngoặt gấp sang một hướng khác.
Lại còn những điều kiện để làm đơn
xin học đại học ở Hoa Kỳ. Việc đầu tiên phải vượt qua, là thi TOEFL.
Ngoài yêu cầu thành tích ưu tú về
các mặt khác ra, Larry cũng rất chú trọng đến thành tích thi TOEFL. Ông đề xuất
vớu Đình Nhi thành tích phải đạt 640 điểm, vì muốn được học bổng của một trường
đại học nổi tiếng, cần phải đạt đến số điểm như thế. Đó quả là một yêu cầu rất
cao. Nếu thi TOEFL không tốt hoặc không đạt những yêu cầu khác của Trường
Columbia và Học viện Wellesley thì phải làm như thế nào. Larry cũng không quên
nói thêm về cách suy nghĩ của ông, nếu không được trường đại học hàng đầu thu
nhận vào học thì cũng không coi là không đến học ở Hoa Kỳ.
Ngài Larry rất quý trọng nhân tài,
tính vô tư đó cũng giống như Lôi Phong, tấm lòng tha thiết và kiên trì giúp đỡ
hết lòng cũng không kém gì Bá Nhạc của Trung Quốc. Có điều, Larry cũng giống
như rất nhiều người Mỹ khác, làm việc thường coi trọng hiệu suất và thành quả.
Ông là người đã đến tuổi “tri thiên mệnh”, nên cần nắm vững thời gian để làm
một số việc có giá trị cho đời. Nếu Đình Nhi không thể chứng minh được là
“thiên lý mã”, Larry cũng đành lấy làm tiếc mà gạch tên Đình Nhi trong bản danh
sách của mình.
Do vào dịp này trước đây, Đình Nhi
và chúng tôi đều cho đi học nước ngoài là việc sau khi đã học đại học chính
quy, thậm chí Đình Nhi ngoài việc bố trí học tiếng Anh ở trường, từ trước tới
nay chưa chuẩn bị được gì cho thi TOEFL, bây giờ nước đến chân mới nhảy, rất dễ
bị thất bại.
Gần bước tới thềm năm thứ ba cao
trung, thời gian quý như vàng, vội vàng xông vào cuộc chiến với thi TOEFL, làm
sao có thể thi đạt thành tích tốt?
Kiến nghị của Larry là một cơ hội và
cũng là một thử thách không đạt tiêu chuẩn thì cũng không thể đạt được gì hết.
LỰA CHỌN KHÓ KHĂN:
CÓ
SANG HOA KỲ HỌC ĐẠI HỌC HAY KHÔNG?
Vấn đề làm đơn xin học đại học ở Hoa
Kỳ, Đình Nhi và chúng tôi đã có một thời gian do dự không quyết định được.
Nguyên nhân chính là vì thời gian quá eo hẹp. Đình Nhi sắp vào lớp cao trung
năm thứ ba. Học năm thứ ba cao trung ở Trường Chuyên ngữ Thành Đô, theo lối nói
của những học sinh đã tốt nghiệp là thực hiện “lễ rửa tội cho một đời người”.
Tất cả những học sinh tốt nghiệp cao trung trước đây do đã trải qua một năm vật
lộn gian khổ làm cho họ có thể tự hào tuyên bố, từ nay không có một khó khăn
nào của đời người mà họ không thể vượt qua. Sự học tập căng thẳng của cao trung
ba vì thế được xem như là một chấm hoa đậm sắc của thời cao trung không thể nào
quên.
Chế độ học tập và nghỉ ngơi của nhà
trường rất chặt chẽ và liên tục, yêu cầu mỗi học sinh từ 6 giờ 30 phút sáng đều
đến thao trường rèn luyện buổi sáng. Tiếp ngay sau đó, nhiệm vụ học tập khẩn
trương mỗi ngày như cỗ xe lăn đường chạy mải miết. Ngoài ít phút nghỉ ngơi sau
bữa cơm trưa và chiều ra, học sinh học một mạch đến 10 giờ 30 phút đêm.
Sau khi kết thúc buổi tối, học sinh
còn tự giác làm “cuốc xe đêm”. Mười một năm gian khổ học tập, sắp đến trận
chiến đấu cuối cùng, ai cũng đều giúp nhau cố lên hơn nữa, bạn xem thêm sách
đến 12 giờ, tôi làm bài tập đến 1 giờ sáng rồi mới chịu đi nghỉ.
Cứ như thế, thiếu ngủ đã trở thành
vấn đề phổ biến, Đình Nhi lúc học đến năm thứ ba cao trung, nếu cộng thêm cả
thời gian ngủ gật lúc buổi trưa, bình quân mỗi ngày ngủ được 6 tiếng thì cũng
là khá lắm rồi. Nếu Đình Nhi làm đơn xin học ở Hoa Kỳ, lập tức phải đồng thời
tác chiến trên hai mặt trận. Nhiệm vụ của nhà trường, một chữ cũng không thể
thiếu, như vậy có nghĩa là, mỗi ngày 6 giờ 15 dậy, 12 giờ đêm ngủ. Mặt khác cần
phải điền thêm các biểu mẫu xin học đại học Hoa Kỳ, xếp đống lại cũng đến cả
thước, và cũng không thể thiếu một chữ. Như thế đến mấy giờ mới được đi ngủ?
Ngài Larry chỉ giới thiệu Đình Nhi
xin vào học ở trường đại học nổi tiếng nhưng những trường đại học nổi tiếng
hiện nay cũng trong tình trạng cung không đủ cầu. Đối thủ cạnh tranh là những
học sinh trung học ưu tú đã sẵn sàng từ lâu ở Hoa Kỳ. Trong thời gian thăm đất
nước này, Đình Nhi đã tận mắt thấy học sinh Hoa Kỳ chuẩn bị tham gia kỳ thi tốt
nghiệp trung học phổ thông như thế nào. Do các trường trung học ở Hoa Kỳ khi
học xong môn nào liền kiểm tra kết thúc môn học đó luôn, không giống như ở
Trung Quốc tập trung bài trong 6 năm, đến giai đoạn cuối cùng mới thi tốt
nghiệp. Từ lớp 11 (tương đương với năm thứ hai cao trung), học sinh trung học
Hoa Kỳ đã rất thoải mái. Họ chỉ cần tham gia cuộc thi “tư chất học sinh” (SAT
I) gồm hai môn tiếng Anh và Toán học là có đủ điều kiện thi vào đại học.
Cuộc đua tranh giữa Đình Nhi và học
sinh Hoa Kỳ như cuộc chạy đua giữa một vận động viên vừa chạy vừa giơ quả tạ
với một vận động viên gọn nhẹ chạy cự ly ngắn, mới nhìn đã thấy bất lợi chứ
chưa nói đến thành công.
Cho nên thi đại học ở trong nước là
không thể bỏ qua. Và như thế, không thể không đối mặt với cục diện “trước sau
đều bị địch đánh”, đó là một điều tối kỵ của các nhà quân sự từ trước đến nay,
làm đơn xin học đại học ở Hoa Kỳ hay không trở thành khó khăn lớn nhất trước mắt
Đình Nhi. Nhưng bây giờ Đình Nhi đã già dặn hơn trước rất nhiều, cháu biết
phương pháp để tìm ra quyết định đúng đắn nhất. Trong thời kỳ sơ trung, chúng
tôi thường giảng giải nhiều lần cho Đình Nhi: Lúc đứng trước sự lựa chọn quan
trọng, cần phải “tập trung suy nghĩ, tranh thủ ý kiến rộng rãi của mọi người”.
Cháu luôn luôn ghi nhớ phương pháp này. Gặp việc quan trọng cháu thường hay tổ
chức họp gia đình để cho mỗi người đều phát biểu ý kiến của mình. Đợi để khi
mọi sự lợi hại đều được xem xét kĩ, cháu mới quyết định cuối cùng. Sử dụng biện
pháp này, cháu không chỉ một lần tháo gỡ được sự việc tưởng chừng như bó tay,
giải quyết một cách ngon lành mọi ý kiến được tham khảo.
Chúng tôi đã nhiều lần họp gia đình,
tuy không nhanh chóng đạt được quyết định nhưng luồng suy nghĩ cũng dần rõ ràng
hơn.
Do nguồn tài lực của gia đình chỉ có
thể xin được học bổng toàn phần một trường đại học nổi tiếng, nếu nửa học bổng
cũng khó thực hiện được việc đi học vì học phí còn lại đối với gia đình chúng
tôi cũng không thể gánh nổi. Năm 1998, học phí ở Trường Harvard là 21.342
đô-la, cộng thêm tiền phòng ở, mua sách, bảo hiểm sức khoẻ, phụ phí hàng ngày,
tất cả lên tới 31.250 đô-la. Số tiền này còn chưa tính đến khoản sinh hoạt phí
3 tháng hè. Các trường đại học khác đại khái cũng thế. Trường Đại học Columbia
năm nay thu khoảng 33.296 đô-la, còn hơn cả Harvard, Trường Princeton thu
33.040 đô-la, Trường Cornell thấp hơn một ít cũng phải nộp 31.952 đô-la. Bất kỳ
trường nào, hàng năm cũng đều thu 1/4 học phí làm cho đại bộ phận người Trung
Quốc sống bằng lương khó thực hiện việc đi du học nước ngoài được.
Chúng tôi đều không muốn Đình Nhi
đến Hoa Kỳ làm thuê, kiếm học phí, đối mặt với áp lực sinh tồn nặng nề, bị kẹp
giữa hai tình trạng sức khỏe suy yếu và học tập căng thẳng, làm sao còn đủ sức
để nắm vững được tri thức nữa. Đặc biệt còn cần phải đảm bảo an toàn trước mọi
tai họa ẩn tàng.
Huống chi Đình Nhi rất coi trọng
việc học đại học trong nước, thi đậu một trường đại học tốt, học hết đại học
chính quy cũng rất đáng giá. Phong cách dạy và học chắc chắn của các trường đại
học trong nước cũng có thể tạo cho Đình Nhi một nền tảng vững vàng suốt đời. Để
tránh tình trạng xôi hỏng bỏng không, thi đại học trong nước là không thể bỏ.
Qua nhiều lần thảo luận dần hình
thành ý thống nhất là: trong điều kiện hiện có, một mặt cần phải có chừng mực
khêu dậy tiềm năng của Đình Nhi, dùng một phút chia thành mấy phút để sử dụng,
mặt khác ba mẹ phải cố làm thật tốt nhiệm vụ “hậu cần”.
Nếu thời gian không kịp thì làm thế
nào? Có thể phải giảm nhẹ mục tiêu thi trong nước, bỏ yêu cầu vào học Trường
Bắc Đại, lúc cần sẽ chuẩn bị thi vào trường đại học bình thường. Đó thực sự là
một quyết định buồn với Đình Nhi, mỗi khi nghĩ đến phải bỏ cơ hội học Trường
Bắc Đại, cháu buồn đến rơi nước mắt.
Mục đích của những giá phải trả đó,
tức là đột phá vào trường đại học hạng nhất thế giới, một mục đích hầu như
không thể với tới được. Cho dù thất bại, cũng là một đời không hề ân hận.
DĨNH - NGƯỜI CON GÁI TRUNG HOA Ở MỘT
TRƯỜNG NỔI TIẾNG HOA KỲ
Cuối tháng 6, ngài Larry gửi đến một
thư điện tử, báo cho Đình Nhi một tin mới: Dĩnh, một học sinh năm thứ hai Học
viện Wellesley sẽ về Thành Đô thực tập hè. Larry hi vọng Dĩnh có thể giúp Đình
Nhi về ngôn ngữ và các mặt khác. Không lâu sau, Đình Nhi nhận được điện thoại
của một cô gái, phát âm tiếng phổ thông rất chuẩn. Đó chính là cô Dĩnh vừa từ
Hoa Kỳ đến Thành Đô và rất muốn gặp Đình Nhi.
Chúng tôi nói với Đình Nhi mời Dĩnh
đến nhà chơi, hi vọng cô gái xa bố mẹ này có thể cảm thấy ấm áp như ở nhà.
Mấy hôm sau, vào một buổi cuối tuần
Dĩnh đến. Tuổi lớn hơn Đình Nhi một ít, người hơi cao, nét mặt thanh tú, gợi
cho ta cảm giác đó là một cô gái dịu dàng trong sáng. Dĩnh từ lớp 5 tiểu học đã
theo bố mẹ di cư sang Hoa Kỳ, sau đó nhập quốc tịch Hoa Kỳ. Dù lấy tiêu chuẩn
Trung Quốc hay tiêu chuẩn Hoa Kỳ, Dĩnh cũng là một cô gái xuất chúng. Cô đến
Hoa Kỳ lúc mười một tuổi, trong thời gian 9 năm ngắn ngủi, từ “tiếng Anh ABC”
rất nhanh chóng bỏ xa tuyệt đại đa số trẻ em Hoa Kỳ, dù mỗi lần chiêu sinh chỉ
lấy 500 học sinh. Nếu không nói tiếng Anh, chỉ nhìn bề ngoài không ai cho là
Dĩnh lớn lên ở Hoa Kỳ. Cô ngồi, mỉm cười như cô bé ngoan hàng xóm sang chơi.
Không ít người Trung Quốc sau khi đi ra nước ngoài vì lâu ngày không nói tiếng
Trung Quốc, không chỉ giọng nói thay đổi mà khi nói thường xuất hiện hiện tượng
hụt hơi, không phát âm được. Nhưng Dĩnh trái lại, nói tiếng phổ thông rất lưu
loát, tự nhiên. Cô nói với chúng tôi là ở Hoa Kỳ thường xem báo chí Trung Quốc
nên Trung văn còn nhớ rất tốt.
Có thể thấy được bố mẹ Dĩnh dù đã di
cư sang Hoa Kỳ nhưng vẫn hoài niệm về quê hương, hơn nữa còn rất sáng suốt khi
Dĩnh đã tiếp nhận nền văn hóa Hoa Kỳ, nhưng vẫn giữ được tình yêu với văn hóa
Trung Hoa. Trên thực tế, những đứa trẻ đã quen thuộc đồng thời hai ngôn ngữ và
văn hóa so với một số em người Hoa “còn Mỹ hơn cả người My”, càng có đất phát
triển tốt hơn nhiều.
Theo thói quen nghề nghiệp, tôi rất
hứng thú quan sát thấy Dĩnh có ánh mắt không giống với trẻ em gái bình thường
của Trung Quốc.
Phần lớn trẻ em gái Trung Quốc lúc
nói chuyện với người khác, đặc biệt với người mới quen, rất ít có thói quen
nhìn thẳng không chớp mắt vào người đang tiếp chuyện, những Dĩnh khi nói chuyện
thường chăm chú nhìn thẳng vào người đối thoại, không đảo ánh mắt. Đó là thói
quen thường thấy ở người phương Tây, hơn nữa ánh mắt ấy vừa thẳng thắn lại vừa
chân thành, gây cho người đối thoại hiểu được nhau.
Dĩnh và Đình Nhi mới gặp mà như đã
quen biết từ lâu, nhanh chóng trở thành bạn. Cứ đến cuối tuần, Đình Nhi từ
trường trở về nhà đều gọi điện thoại cho Dĩnh hẹn thời gian, mời đến nhà chơi.
Có lúc Dĩnh cũng gọi điện thoại đến, hỏi rất thẳng thắn: “Tôi đến nhà bạn, có
được không?”
TRƯỜNG
IVY LEAGUE VÀ HỌC VIỆN MINICOLLEGES
Dĩnh giới thiệu với Đình Nhi một
loạt các trường đại học ở Hoa Kỳ, là các trường thuộc loại nhất. Xem điều kiện
của các trường danh tiếng ấy, cảm tưởng mỗi ngôi trường đều làm thót tim.
Sau khi Dĩnh gần gũi, tìm hiểu thực
lực của Đình Nhi thấy Đình Nhi có năng lực tiếp xúc với các trường đại học đó.
Trên đại để, các trường đại học Dĩnh
giới thiệu có thể chia thành hai loại: một loại là trường Ivy League nổi tiếng,
Harvard đứng đầu, loại thứ hai là một loạt các trường, học viện khoa học tự
nhiên và nhân văn nổi tiếng, ở Hoa Kỳ gọi là “Supper Minicolleges” (Các trường
đại học mi ni siêu cấp).
Ivy League của Hoa Kỳ gọi là nhóm
các trường nổi tiếng về học thuật uy tín và có tiếng rất sớm ở miền Đông Bắc
Hoa Kỳ, gồm có 8 trường: Đại học Harvard, Đại học Columbia, Đại học Yale, Đại
học Princeton, Đại học Pennsylvania, Học viện Dartmouth, Đại học Cornell, Đại
học Brown. Trong các trường này có rất nhiều trường cổ xưa, được xây dựng từ
thời Hoa Kỳ còn là thuộc địa của Anh quốc, trên những bức tường gạch đỏ, cây
thường xuân (tiếng Anh là Ivy) leo bò dày đặc vì thế “Ivy” trở thành biệt hiệu
của những trường đó.
Trên bảng xếp hạng các trường đại
học Hoa Kỳ tất cả 8 trường đại học này vẫn luôn luôn được xếp vào loại trường
đại học ngôi sao hàng đầu.
Học viện Literal Arts College là học
viện chỉ có hai môn khoa học nhân văn và tự nhiên, còn người Mỹ dùng từ Supper
Minicolleges để chỉ một số trường, học viện về khoa học nhân văn và khoa học tự
nhiên có quy mô nhỏ, rất nổi tiếng và có lịch sử lâu đời ở vùng Đông Bắc Hoa Kỳ
như Học viện Wellesley, Học viện Almount Reseater.
Mini – có nghĩa là rất nhỏ, trong đó
Học viện Mount Holyoke chỉ có 2.054 người, tất cả đều là nữ sinh. Học viện
Wellesley có 2.300 học sinh, đều là nữ sinh. Học viện Almount Reseater gồm cả
nam và nữ sinh viên, quy mô nhỏ hơn, chỉ có 1.600 sinh viên.
Supper – siêu cấp, là chỉ thứ bậc
tương đối cao. Dù quy mô không lớn lắm, cũng không lập viện nghiên cứu sinh,
nhưng do trong thời gian một, hai trăm năm họ đã xây dựng được tiếng tăm về học
thuật lững lẫy, lực lượng giáo sư hùng hậu, sự nghiệp giảng dạy của họ đã đào
tạo những nhân vật được ngưỡng mộ về học thuật, nhận được giải thưởng Nobel.
Sinh viên của các trường này, sau khi tốt nghiệp đa số đều thi vào hệ nghiên
cứu sinh, hoặc tìm được những việc làm rất tốt. Vì thế từ trước tới nay, họ là
mục tiêu cạnh tranh của những học sinh giỏi nhất Hoa Kỳ.
Dĩnh đề nghị Đình Nhi xin thi vào
mấy trường loại Supperminicolleges. Trong các trường đại học Dĩnh giới thiệu
cho Đình Nhi, đầu tiên là Học viện Wellesley, nơi cô đang theo học. Trường này
từ trước tới nay được người dân Hoa Kỳ công nhận là tốt nhất, là Học viện nữ sinh
mang màu sắc quý tộc. Phu nhân tổng thống Kennedy, bà Jackie Kennedy cũng tốt
nghiệp trường này. Năm đó bà Tống Mỹ Linh vợ Tưởng Giới Thạch do yêu cầu tranh
thủ ngoại viện rộng rãi trong các tầng lớp xã hội Hoa Kỳ cho cuộc chiến tranh
kháng Nhật ở Trung Quốc đã có liên quan rất nhiều đến việc bà đã tốt nghiệp và
được sự giáo dục ở Học viện này. Học viện Wellesley, đã đào tạo rất nhiều người
nổi tiếng, gần đây là vị nữ Quốc vụ khanh đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, bà
Albright.
Ngoài nổi tiếng như vậy, trường này
còn có nhiều điểm hấp dẫn khác: nhà trường đối với học sinh học nghề thực hiện
yêu cầu về tiêu chuẩn rất khắt khe, làm cho các học sinh nói chung đều đạt được
trình độ tương đối cao. Kế hoạch giao lưu học thuật của trường làm cho học sinh
có cơ hội được vào học các trường đại học tốt nhất Hoa Kỳ để thu thập được
những chỗ mạnh hoặc thành công của người khác. Trong các trường đại học giao
lưu với Học viện Wellesley, có cả trường đại học Thanh Hoa của Hoa Kỳ MIT – đó
là Học viện cơ giới, khoa học tự nhiên và khoa học xây dựng.
Vấn đề này đối với một người chưa
thỏa mãn với môn văn học nói chung như Đình Nhi, có sức hấp dẫn rất lớn. Đình
Nhi hi vọng trong quá trình tìm tòi học hỏi của mình có được một trình độ nhất
định về khoa học xây dựng. Học viện William Mounts là một trong những học viện
nổi tiếng lâu đời nhất của Hoa Kỳ. Giáo sư của trường, tỷ lệ nhận học vị tiến
sĩ đều cao hơn các trường đại học nổi tiếng khác như Harvard, Yale, Princeton
và là một trong các trường nhất nhì về nhân văn và khoa học tự nhiên của Hoa
Kỳ. Tỷ lệ giáo sư và học sinh của trường này là 1/10 làm cho sinh viên ngoài
giờ lên lớp cũng có lượng thời gian lớn được thảo luận các vấn đề học thuật với
các giáo sư. Trong sinh viên của trường, có tới 1/3 số sinh viên được ra nước
ngoài hoặc đến một nơi khác thực hiện kế hoạch nghiên cứu tự mình lựa chọn, cơ
hội cho sinh viên mở mang tầm nhìn, có thể nói “nếu muốn là thực hiện
được”.
Học viện Dartmouth là một trường đại
học cấp “ngôi sao” giỏi nhất Hoa Kỳ, được xếp hạng thứ 8. Tiếng tăm về học
thuật của trường được liệt vào “cấp 5 sao” cao nhất. Ông Hiệu trưởng cũ của
trường này đã xây dựng cho nhà trường truyền thống phóng tầm nhìn ra thế giới.
Đối với việc bồi dưỡng nhân tài, tạo điều kiện cho họ được bay nhảy trên vũ đài
quốc tế là rất có lợi. Với tư tưởng chủ đạo đó, rất nhiều môn học của trường
đều có cơ hội ra nước ngoài nghiên cứu. Học triết học có thể sang Edinburgh của
Scotland, kịch nghệ có thể sang London nước Anh, học sinh vật đến Trung Mỹ và
quốc đảo Caribê, nghiên cứu Á châu đến Trung Hoa và Nhật Bản. Làm như vậy việc
tìm hiểu thế giới được hòa lẫn vào trong quá trình học tập.
Trường Đại học Columbia cũng là mục
tiêu chủ yếu mà Larry kiến nghị học. Trong rất nhiều trường đại học hùng mạnh
của Hoa Kỳ, tiếng tăm về học thuật và xếp hạng của trường, đều đạt bậc cao
nhất. Trong các hiệu trưởng của trường đã xuất hiện Tổng thống Dwight D.
Eisenhower. Trong số giáo sư và học sinh tốt nghiệp của trường, số người được
nhận giải Nobel xếp hàng đầu trong các trường đại học Hoa Kỳ, hơn 56 người. Do
địa vị ưu việt của nó nên yêu cầu nguồn học sinh lấy vào rất cao, đối với học
sinh nước ngoài, chỉ riêng điểm thi TOEFL thấp nhất cũng phải đạt 600 điểm trở
lên, còn nếu muốn có học bổng, yêu cầu cao đối với các môn càng không thể tưởng
tượng được.
… Nhưng trong các trường đại học đó,
không có trường nào hấp dẫn đối với Đình Nhi hơn được Đại học Harvard.