Oan nghiệt - Chương 17 phần 2
Annie đứng bên
lề đường nhìn những ngôi nhà: cô nghĩ, sống ở ngoại ô thế này thú vị đấy chứ.
Đây không phải là nơi cho người ta đến tham quan ở Salford, nhưng nếu nói thật
lòng thì cô phải xác nhận trước đây cô chưa hề đến Salford, và không biết phải
đi xem ở chỗ nào. Những ngôi nhà hai căn đứng tách nhau nằm dọc theo hai bên
đường yên tĩnh, trước mỗi nhà có bãi cỏ vừa phải nằm tách ra khỏi dãy hàng rào
bằng cây thủy lạp. Những chiếc xe hơi đậu ngoài đường không xa hoa lộng lẫy,
nhưng không sét gỉ và không như những chiếc Fiesta đã cũ mười năm tả tơi. Hầu
hết những chiếc xe ở đây đều nhập từ Nhật hay Nam Triều Tiên, và chiếc Astra
của Annie không phải là chiếc sáng giá ở đây. Cô nghĩ: vấn đề khó khăn lớn nhất
là kẻ gian rất khôn, chúng có thể đột nhập bất cứ khi nào, thế là xe không cánh
mà bay.
Con số 39 giống
như các số nhà khác. Y như ông Whitmore đã nói, ở đây hoàn toàn không có dấu
hiệu gì cho thấy đã xảy ra thảm cảnh, khói bốc nghi ngút, tiếng la hét và hàng
xóm mặc đồ ngủ đi dép đứng ngoài đường để nhìn, bất lực, lúc Ruth nhảy qua cửa
sổ trong khi bố mẹ cô ta bị ngạt. Không thể nào ra khỏi giường được.
- Cần giúp gì
không, cô em?
Annie quay lại,
cô thấy một bà già đang cầm cái túi xách đựng hàng mua về, mấy ngón tay bị khớp
cong queo.
- Trông cô như
bị lạc đường hay sao ấy?
- Dạ không, -
Annie đáp, cười cho bà yên tâm, không nghĩ là cô điên hay gì đấy. – Có lẽ đang
suy nghĩ miên man thì có.
- Cô quen
biết gia đình Walkers à?
- Không.
- Chỉ vì
thấy cô nhìn vào nhà họ.
- Phải. Tôi
là cảnh sát, - Annie giới thiệu với bà.
- Tôi là
Tattersall. Gladys Tattersall, - bà già đáp. – Rất hân hạnh được gặp cô. Chả lẽ
vụ hỏa hoạn đã lâu rồi mà bây giờ cô mới đến điều tra?
- Dạ phải. Bà
nghĩ chúng ta có thể nói chuyện một chút được không?
- Vậy thì
mời vào nhà đi. Tôi nấu nước pha trà uống. Nhà tôi số 37 đây.
Ngôi nhà hai
gian của bà nằm bên cạnh nhà Walkers. Annie đi theo bà Tattersall vào ngõ rồi
vào tiền sảnh, cô nói:
- Chắc là bà khiếp
lắm.
- Tôi đã từng
sợ hơn thế này nhiều trong những trận dội bom thời chiến tranh. Cô biết không,
lúc ấy tôi còn bé. Mời vào. Mời vào.
Annie vào phòng
khách, cô ngồi xuống chiếc ghế bành bọc nhung màu mận. Một tấm gương có khung
mạ vàng treo trên lò sưởi và một chiếc tivi để cái giá ở trong góc phòng. Một
chiếc bàn ăn bốn ghế đặt ở cuối phòng. Bà Tattersall vào bếp rồi trở lại. Bà
ngồi xuống ghế nệm dài và nói:
- Nước sôi liền
bây giờ. Cô nói đúng đấy. Đêm ấy thật đáng sợ.
- Chính bà gọi
cho đội chữa lửa à?
- Không, cậu
Hennessy bên kia đường. Câu ta đi hộp đêm về khuya, thấy ngọn lửa và khói.
Chính cậu ta đến gõ cửa nhà tôi, gọi chúng tôi ra khỏi nhà nhanh. Tôi và chồng
tôi, Bernard. Ông ấy mất vào năm ngoái. Vì
ung thư.
- Xin chia buồn
với bà.
- Ồ, mà thế
cũng hay, cô à. Ông ấy bị ung thứ phổi, mặc dù ông không hút thuốc, uống thuốc
chống đau chẳng có hiệu lực gì cho ổng hết.
Annie im lặng
một lát. Đã đến lúc thuận tiện cho cô sau khi nghe chuyện ông Tattersall quá cố
rồi. Cô hỏi:
- Nhà bà có
thiệt hại gì không?
Bà Tattersall
lắc đầu.
- Chúng tôi may
mắn. Tường nhà rất nóng, nhưng đội cứu hỏa đã xịt nước từ bên ngoài vào nhà,
nhà ngập nước như cái hồ. Lúc ấy là vào tháng Tám, trời nóng, chúng tôi phải mở
cửu sổ, cho nên nước vào nhà làm hư hỏng các bức tường – giấy dán tường tróc
ra, vấy bẩn, đại loại như thế. Nhưng không có gì trầm trọng. Bảo hiểm trả hết.
Có lẽ việc tệ hại nhất cho chúng tôi trong vụ này là chúng tôi phải ở đây sau
vụ hỏa hoạn, vì người mua lại căn nhà ấy đã đập gõ cả ngày lẫn đêm ồn không
chịu nổi.
- Những người
cải tạo lại ngôi nhà chứ gì?
- Phải. - Ấm
nước sôi. Bà Tattersall biến mất một lát rồi quay lại với khay đồ trà, bà để
khay xuống cái bàn thấp trước mặt lò sưởi điện. Bà nói:
- Tôi vẫn chưa
hiểu tại sao cô hỏi chuyện này.
- Chỉ để kiểm
tra lí lịch cho đúng thủ tục điều tra. Không liên quan gì đến vụ hỏa hoạn đâu.
Có thế mới dễ dàng điều tra được.
- Thủ tục điều
tra à? Trên truyền hình người ta thường nói như thế.
Annie cười.
- Chuyện những
người cảnh sát trên truyền hình chắc tài giỏi hơn, lý tưởng hơn nhiều. Chúng
tôi đang điều tra về Ruth. Cô con gái của gia đình Walker.
- Cô ta làm
chuyện gì quấy à?
- Không có
chuyện ấy đâu. Tại sao bà hỏi thế?
Bà Tattersall
cúi người rót trà.
- Cô dùng sữa
hay đường?
- Bà cho tí
sữa.
- Cô không hỏi
về cô ta vì chuyện có dính dáng đến cô ta chứ, phải không?
- Chuyện có
dính dáng đến người bạn của cô ấy, - Annie đáp. Như hầu hết cảnh sát, cô không
thích tiết lộ chút tin tức nào ra ngoài cả.
- Tôi đoán chắc
có dính dáng đến cô ấy, - Bà Tattersall nói, đưa cho Annie tách trà trên đĩa.
- Cảm ơn bà. Bà
có biết rõ về gia đình Walker không?
- Rất rõ. Nhưng
không hơn gì cô mấy đâu.
- Bà nói thế
nghĩ là sao?
- Họ không giao
du nhiều, cả nhà Walker đều thế.
- Họ sống xa
cách à? Hợm hĩnh à?
- Không, không hẳn
như thế. Họ rất lịch sự. Cực kì lịch sự. Và hay giúp đỡ nếu có ai cần giúp đỡ.
Có Chúa chứng giám, họ không có gì nhiều nhưng họ sẵn sàng nhường cơm sẻ áo.
Chỉ có điều họ không sống hòa đồng mà thôi. – Bà ta dừng nói một lát, rồi hạ
thấp giọng: -Vì tôn giáo, - kiểu như
hồi nãy và nói nhỏ vì ung thư.
- Chỉ thế thôi
à?
- Thế thôi. Ồ,
mà chẳng có gì lạ. Lối thờ phượng cúng bái hay giáo đường của tôn giáo này
không ai thông cảm được, nên họ không lui tới. Họ theo Giáo hội Giáo lí rất
nghiêm túc, nhưng quá khắt khe. Không đi mua hàng vào Chủ nhật, không uống
rượu, không nghe nhạc Pốp, đại loại như thế.
- Ông Walker
làm nghề gì?
- Nhân viên
sở lương bổng.
- Vợ ổng có
làm việc không?
- Bà Pauline à?
Lạy Chúa lòng lành, không. Họ theo truyền thống dân tộc. Bà ta chỉ làm nội trợ.
- Thời đại bây
giờ không có nhiều người như thế.
Bà Tettersall
cười.
- Cô nói đúng.
Tôi cứ trông sao đến giờ đi làm. Công việc của tôi cũng chẳng ngon lành gì đâu,
tôi chỉ làm nhân viên tiếp tân tại trung tâm y tế ở cuối đường này thôi. Nhưng
tôi có dịp để gặp gỡ người ta, để chuyện trò, để biết điều này điều nọ xảy ra
trên thế giới. Nếu tôi cứ sống quanh quẩn trong bốn bức tường thì chắc tôi điên
mất. Cô chắc cũng thế chứ gì?
- Dạ phải, -
Annie đáp. – Nhưng chắc bà Walker không nghĩ như thế phải không?
- Bà không bao
giờ phàn nàn. Nhưng phàn nàn là ngược lại với tôn giáo của bả, phải không?
- Tôi không
biết. – Chắc Annie là người đầu tiên phải xác nhận cô không biết gì nhiều về
tôn giáo ngoại trừ những điều cô đã đọc trên sách, mà những sách cô đọc lại là
sách nói về đạo Phật và đạo Lão. Bố cô là người vô thần, nên ổng không bắt cô
phải đi học giáo lí vào Chủ nhật hay đọc một học thuyết gì về tôn giáo vào lúc
còn nhỏ, và những người thường lui tới tiếp xúc ở nhà cô thường bàn đến nhiều
tư tưởng về tôn giáo khác nhau và về triết lí. Tất cả các tư tưởng đều được bàn
luận tranh cãi, rồi bỏ qua.
- Tôi muốn nói
chuyện gì xảy đến cho ta cũng đều do ý Chúa, tốt hay xấu, cho nên đừng phàn nàn
với Chúa những gì Chúa đã làm, không biết cô thấy tôi nói thế có đúng không?
- Tôi thấy rồi.
- Họ chỉ sống
thủ cựu quá, thế thôi. Nhiều người cười sau lưng họ. Ồ, họ không có ác tâm hay
là gì đâu. Mà chỉ khôi hài cho vui thôi. Nhưng họ biết mọi người cười cợt họ.
Đây là một điều kiêng kỵ nữa trong tôn giáo của họ. Hài hước. Thỉnh thoảng tôi
thấy cám cảnh cho Ruth.
- Tại sao?
- Thì đấy, cuộc
đời cô ấy chẳng mấy vui. Thanh niên cần phải vui. Ngay người già như chúng tôi
thỉnh thoảng cũng cần vui, vậy mà còn trẻ như thế… - Bà thở dài. – Nhưng, giá
trị của cuộc đời theo nhà Walker khác xa với những người khác. Vả lại họ không
có nhiều tiền, chỉ một mình ông ấy làm việc thôi.
- Họ phải sống
như thế nào?
- Tằn tiện. Bà
Pauline là người nội trợ giỏi, tôi phải khen bà ấy về việc này. Một người điều
khiển ngân sách giỏi. Nhưng thế có nghĩa là Ruth khó mà theo kịp thời trang và
chỉ sống với những thứ tầm thường. Quanh năm suốt tháng với chỉ một bộ áo quần.
Khâu chỗ này vá chỗ kia. Còn giày nữa. Lạy Chúa lòng lành, đi đâu cũng chỉ với
đôi giày xấu xí. Pauline mua giày xấu xí vì nó bền, thế đấy. Giày cũng phải da
thô, đế dày để đi cho lâu. Không có những thứ đẹp như các trẻ con khác. Cô à,
dù muốn dù không thì thời trang vẫn là vấn đề quan trọng đối với trẻ, nhất là
khi chúng sắp trưởng thành. – Bà ta cười. – Tôi quá biết. Tôi đã nuôi hai đứa
con.
- Có chuyện gì
xảy ra không?
- Thường xảy ra
luôn. Những đứa con gái khác cười cô ta, chọc ghẹo cô ta. Trẻ con thường ác như
thế. Và họ lại không có thì giờ để nghe nhạc hay xem truyền hình – quá nghèo
đến nỗi Ruth không tham gia sinh hoạt được với bạn bè. Cô ta không biết các ban
nhạc mới thành lập và cũng không xem được các chương trình truyền hình hay nổi
tiếng. Cô ta lúc nào cũng thui thủi một mình. Cô ta cũng không có nhan sắc. Cái
mặt thì xanh xao, người thấp lùn mập, cho nên càng dễ bị bạn bè bới móc chê
bai.
Annie nghĩ:
cảnh nhà như thế này thì quả thật khốn nạn. Cô đã lớn lên trong địa hạt của
giới nghệ sĩ, không có truyền hình, nhưng lúc nào cũng có âm nhạc – thường có
nhạc sống – và chung quanh cô lúc nào cũng có những người vui vẻ. Vài đêm họ
lại tổ chức ca nhạc, ngâm thơ một buổi. Cho nên nằm trong giường, cô cũng có
thể nghe được. Dĩ nhiên là lúc nhỏ, những thứ này đều khó hiểu với cô, không
vần điệu, không nhịp nhàng, nhưng rất vui. Thỉnh thoảng họ để cho cô hát, và cô
phải tự hào là giọng cô không đến nỗi tệ khi hát những bài dân ca cổ truyền.
Tuy nhiên, cô
nghĩ cô có thể thông cảm cho Ruth, con người có mặc cảm đứng ngoài cuộc. Nếu
mình có những điều khác biệt với thiên hạ - bất kể gia đình mình có quá nghiêm
khắc hay quá tự do – thế nào mình cũng bị người ta gièm pha, bới móc, nhất là
khi mình không theo kịp trào lưu mới mẻ của thiên hạ. Trẻ con ác độc; bà Tattersall quả nói đúng.
Annie nhớ lúc còn nhỏ, cô cũng đã bị bọn trẻ đối xử độc ác với cô.
Năm cô mười ba
tuổi, có một lần, bọn học trò trong lớp đã đè cổ cô xuống trên đường đi học về,
chúng lôi cô vào trong rừng cây, rồi tuột hết áo quần cô ra, chúng vẽ hoa lên
khắp người cô, vừa vẽ chúng vừa giảng giải cho cô nghe về giới híp pi nghiện ma
túy thối tha và về năng lực của hoa, rồi chúng chạy đi, mang theo áo quần của
cô, để cho cô ở truồng như thế mà về nhà. Độc
ác. Phải công nhận như thế. Hôm sau khi đi học, cô thấy chúng treo áo quần
của cô trên cành cây bên đường. Chuyện ấy xảy ra vào năm 1980, năm mà phong
trào híp pi đi vào lịch sử, bọn bạn trong lớp của cô đã đọc phong trào này trên
sách báo hay xem tài liệu truyền hình nói về trào lưu này thịnh hành trong thập
niên 60. Những người sống ở khu của cô là họa sĩ, văn sĩ, tư tưởng gia tự do,
đúng thế đấy, nhưng nhóm híp pi là gì? Không, cái tội lỗi duy nhất của cô là
khác chúng, là cô mặc áo quần gì cô thích mặc (và áo quần nào bố cô có thể mua
nổi). Đúng rồi, một sự trùng hợp lạ lùng thay, cho nên cô có thể cảm thông với
Ruth Walker rất dễ: hai mặt của một đồng xu.
- Ruth có đi
học đại học chứ?
- Có. Nhờ thế
mới có chuyện đổi thay.
- Bà nói thế là
sao?
- Đấy, họ muốn
cô ta đi học ở Manchester, họ thích thế để cô ấy tiếp tục sống ở nhà, để họ có
thể canh chừng được cổ, nhưng cổ lại đi Luân Đôn. Họ nghĩ rằng trường đại học
là cái ổ tội lỗi, nơi chưa chấp tình dục và ma túy, nhưng họ biết thời đại bây
giờ mà không đi ra thì không học được gì hay ho hết. Họ đứng trước tình thế
tiến thoái lưỡng nan. Nhưng, cô ta có tiền trợ cấp hay vay mượn, hay làm sao
đấy mà cô ta có tiền trong thời gian đầu đi học, rồi trong những đợt nghỉ, cô
ta thường kiếm việc làm. Như thế mà cổ nếm được mùi độc lập.
- Cô ta sử dụng
tiền của mình như thế nào?
- Phần lớn là
mua áo quần. Người ta thấy cô thay đổi khi cô về nhà sau năm học đầu. Ăn mặc
theo kiểu mới nhất. Mặc theo thời trang mọi người đang mặc. Thay đổi quá nhanh
tôi không theo kịp nổi. Ngoài ra, trông cô ta còn ngổ ngáo như bất kì thanh
niên đồng trang lứa nào của cô. Tóc thì nhuộm màu hình cầu vồng, đeo khoen ở
tai và đeo lông mi. Trông rất đau mắt. Cô ta đã tìm ra thế giới mới, coi thường
tất cả.
- Bố mẹ cô ta
phản ứng ra sao?
- Tôi không
biết. Họ không bao giờ nói trước mặt mọi người. Nhưng tôi nghĩ chắc họ không
hài lòng. Tôi có cảm giác họ lấy làm xấu hổ về cô ấy.
- Bà có nghe họ
cãi cọ gì nhau qua tường nhà không?
- Họ không bao
giờ tức giận. Như thế là trái với tôn giáo của họ. Tôi nghĩ họ van lơn cầu xin
cổ, thuyết phục cổ chuyển về học ở Manchester cho gần nhà để về nhà lại, nhưng
cổ đã thay đổi quá nhiều rồi. Quá trễ rồi. Cô ta đã nếm mùi tự do rồi, cổ sẽ
không đời nào từ bỏ được. Tôi không trách cô ta.
- Như vậy vấn
đề không giải quyết được?
- Tôi nghe như
thế. Mùa hè ấy cô ta làm việc ở siêu thị địa phương, lau chùi toàn bộ siêu thị
và chất hàng lên kệ, công việc đại loại như thế. Cô ta thông minh và làm việc
cần cù, có trách nhiệm, ngay khi trông cô ta có vẻ ngang ngược đi nữa, cổ cũng
không gây phiền nhiễu cho ai. Cô ta luôn luôn lễ phép.
- Vậy cô ta chỉ
có vẻ kì lạ thôi?
- Chỉ có thế
thôi. Tôi nghĩ cô ta có phản ứng chống đối lại với tôn giáo nữa. Ít ra thì cô
cũng không đi nhà thờ với bố mẹ nữa. Những thanh niên thường thế, phải không?
- Đúng thế, -
Annie đáp. – Vừa rồi tôi có nói chuyện với ông Whitmore ở đội cứu hỏa.
- Tôi biết
ông George Whitemore. Ổng là một trong số những người bạn của Bernard. Hai
người thường chơi trò phung phí tiền ở quán King Billy vào tối thứ Sáu.
- Ông ta nói
họ thấy không cần thiết phải điều tra vụ hỏa hoạn.
- Đúng rồi.
Tôi thấy chẳng có lý do gì để điều tra hết. Bởi thế mà tôi phân vân không biết
cô đến đây làm gì. Không ai muốn làm cho gia đình Walker đau đớn hết.
- Ông
Whitemore cho biết nhà cháy là do điếu thuốc đang cháy mà vứt vào trên ghế nệm
dài.
- Đấy, đấy
là chuyện kì lạ nhất, - bà Tattersall chậm rãi nói. - Sùng đạo như thế, chắc cô
thấy rồi, họ không hút thuốc không uống rượu.
- Nhưng tôi cam
đoan là Ruth hút, - Annie nói.
***
Sau một đêm
trong phòng giam, áo quần Clough có vẻ hơi xốc xếch một chút, nhưng loại áo
quần hắn mặc khó mà có vết nhăn được. Hắn không cạo râu, lớp râu mới mọc cùng
với làn da nâu sậm, vàng đeo trên người và áo quần đẹp đẽ, làm cho hắn có vẻ
nghệ sĩ, như một ngôi sao nhạc pop đứng tuổi. Ngược lại, anh chàng luật sư
Simon Gallagher, rõ ràng gã ngủ đêm ở nhà hàng Burgundy, khách sạn sang nhất,
đắt giá nhất ở Eastvale, có thì giờ để tắm rửa, nên bây giờ trông anh ta như
một luật sư cao giá. Nhưng anh ta vẫn có cái vẻ bị kích thích, vui vẻ của người
quen dùng ma túy, Banks phân vân không biết gã đã hít vài hơi trước khi vào dự
cuộc thẩm vấn không. Anh ta không nói nhiều nhưng vẫn ngồi không yên.
Vì Annie đã đi
Salford, còn Winsome bận đưa dữ liệu vào HOLMES, nên Banks nhờ Kenvin Templeton
đến tham gia cuộc thẩm vấn. Sau những lời mở đầu thông thường, Banks nói:
- Hi vọng đêm
nay anh ngủ yên giấc, Barry.
- Ông đừng bày
đặt trò khỉ hỏi han chuyện ngủ ngáy của tôi nữa, sao không dẹp chuyện vớ vẩn ấy
đi và vào vấn đề ngay cho tôi. – Clough nhìn đồng hồ tay. – Theo đồng hồ, hạn
hai mươi tư giờ của tôi chỉ còn một giờ bốn mươi lăm phút thôi. Có phải không,
Simon?
Simon Gallagher
gật đầu.
- Chúng ta bắt
đầu đây, - Banks nói. – Nhưng tôi không biết từ khi chúng ta chấm dứt câu
chuyện hôm qua đến giờ anh có nghe tin ông cảnh sát trưởng Riddle đã tự tử chết
rồi không.
- Tốt, ít ra
thì đây cũng là một trường hợp ông không thể gán cho tôi được rồi, phải không?
- Anh chỉ nói
được về chuyện này chừng ấy thôi à?
- Ông đợi tôi
nói cái gì nữa? Tôi không biết ông này.
Banks nghĩ:
ngay cả những người quen biết ông Riddle chắc cũng tỏ ra ít quan tâm như
Clough. Chính Banks cũng không thích ông ta, và ông không muốn làm ra vẻ đạo
đức giả thương tiếc ổng, nhưng vì cái chết quá bi thảm và hành động của ông quá
tuyệt vọng nên Banks cảm thấy cần dẹp sự bất bình của mình sang một bên để hỏi
thêm vài điều cho rõ:
- Barry này, có
phải anh đã từng dùng áp lực với ông ta không?
- Ông muốn nói
cái gì đấy?
- Tôi nghĩ anh
biết tôi muốn nói cái gì rồi. Làm áp lực ông ấy để ổng trở thành người của anh,
để ban phát cho anh vài ân huệ, để đánh lạc hướng của chúng tôi khi anh thiết
lập tổ chức làm ăn phi pháp ở Bắc Yorkshire.
- Tại sao tôi
muốn làm việc ấy?
- Anh trả lời
tôi đi.
- Tôi không
muốn trả lời câu hỏi này.
- Nhưng cuộc
hội kiến của anh là nhằm vào mục đích này, phải không? Bởi thế mà ổng đã bỏ đi
khi nghe anh đề nghị như thế, phải không? Anh dùng cái gì để làm áp lực ông ta,
Barry? Có phải dùng Emily không? Anh có ảnh của cô ấy phải không? Có phải anh
đã hăm dọa ông ta sẽ chiếm lại cô ấy bất cứ khi nào anh muốn phải không?
Clough thở
dài, mở mắt nhìn Gallagher nói:
- Như ông
biết rõ quá rồi, thân chủ của tôi không dính dáng gì đến cái chết của ông
Riddle cả, cho dù ông ta chết và không phải tự tử đi nữa. Anh ấy có đầy đủ
chứng cứ ngoại phạm: ảnh ở trong phòng giam của ông.
- Thân chủ
của ông có thể là một trong những yếu tố chính dẫn ông cảnh sát trưởng đến chỗ
phải tự tử.
- Ông không
chứng minh được điều đó, - Gallagher nói. – Và cho dù ông chứng minh được đi
nữa thì điều ông chứng minh cũng không tạo được lý do để kết tội được. Phải có
chứng cứ cụ thể mới được, ông Chánh thanh tra à. Xin ông tiếp tục đi.
Banks không
thích chấm dứt, ông muốn nói tiếp, nhưng Gallagher nói đúng. Phải có thêm nhiều
chứng cứ hơn nữa mới thuyết phục Viện công tố Hoàng gia xét đến khả năng buộc
tội đồng lõa để người khác tự tử. Nếu Banks nhớ không lầm về luật hình thì tội
đồng lõa có nghĩa là giúp đỡ, tạo phương tiện, khuyên bảo hay là cung cấp vật
liệu cho người khác tự tử, mà đối với Clough thì ông không có những bằng chứng
ấy, cho dù hắn có thể có tội tống tiền ông Riddle đi nữa, nhưng hắn không làm
những việc kia. Hắn chỉ là cái cọng rơm trong việc làm gãy lưng con lạc đà.
Banks nói
tiếp:
- Anh còn
nhớ hôm qua chúng tôi đã nói đến Charlie Courage và Andrew Handley rồi chứ?
- Nghe lơ mơ
thôi.
- Cả hai đều
bị bắn bằng súng ngắn, và cả hai đều tìm thấy nằm chết ở vùng quê cách xa nhà
của họ.
- Tôi tin
tôi đã hỏi chuyện ấy có liên quan gì với tôi, và bây giờ xin hỏi lại.
- Có dấu
hiệu liên quan đây, - Banks đáp, ông ngừng nói và mở tập hồ sơ ông đã mang đến.
– Trong khi anh đang thưởng thức lòng hiếu khách của chúng tôi ở tầng dưới,
chúng tôi rất bận rộn công việc, và các nhân viên tư pháp của chúng tôi đã so
các vết bánh xe ở hai hiện trường.
- Thật đáng
phục, Clough nói, hắn nhướng cao lông mày. Thật là kỳ công của khoa học hiện
đại.
- Còn chuyện
này mới hay nữa. Chúng tôi điều tra thêm thì thấy dấu bánh xe ở hai chỗ xảy ra
cảnh giết người đó đều thuộc về một chiếc xe Citroen màu kem, chiếc này của một
ông tên là Jamie Gilbert. Có phải người này là nhân viên của anh?
- Jamie à?
Ông đã biết rồi.
- Và thì ra
có một người hàng xóm của Charlie Courge nhận ra bức ảnh của Jamie Gilbert khi
nhân viên của chúng tôi đưa cho bà ấy xem. Bà ấy đã thấy Jamie bước vào chiếc
xe hơi ấy với Charlie Courge gần vào giờ hắn biến mất. Điều này có nói gì
không?
- Chắc họ
lầm rồi.
- Ai lầm?
- Các nhà
khoa học của ông. Người chứng của ông.
Banks lắc
đầu.
- Chắc không
lầm. Không những vết bánh xe giống rồi, mà chúng tôi còn tìm ra những sợi tóc
và một vài vết máu khô mà chúng tôi tin là của Charlie Courage hay là của
Andrew Handley còn dính lại trong xe. Quả Jamie thật bất cẩn. Hắn không lau
chùi thật kĩ. Những mẫu tóc này bây giờ đang được kiểm tra thành phần nhiễm sắc
thể ADN.
- Tôi không
biết nói sao, - Clough nói. – Tôi bị kích động. Sửng sốt nữa. Tôi nghĩ là tôi
biết Jamie.
- Rõ ràng là
không. Nhưng hiện giờ Gilbert đang bị giam giữ ở Luân Đôn. Thế nào anh ta cũng
khai cho các nhân viên thẩm vấn ở đấy biết những chuyện đã xảy ra.
- Jamie sẽ
không…
- Jamie sẽ
không cái gì, Barry?

