David Copperfield - Chương 7
Chương 7
Hôn lễ
Tôi quen dần với cuộc sống mới. Ông Dick chép các chứng thư cho Trađles
với niềm hào hứng. Bà cô tôi tiến hành tu bổ nội thất khiến chúng tôi có vẻ mới
được hưởng một gia tài hơn là sạt nghiệp.
Đã đến lúc chị Peggotty phải từ giã chúng tôi.
Nước mắt vòng quanh, chị bắt tay tôi hứa rằng nếu tôi cần tiền tôi sẽ
phải hỏi chị.
Tôi hứa với chị lúc nào tôi cần vay tiền của ai, thì người ấy sẽ là chị.
- Và rồi, bé yêu của chị, - chị nói tiếp thật khẽ, - em nói với Dora rằng
chị rất muốn gặp cô ấy, dù chỉ một phút thôi; nói thêm với cô ấy rằng trước khi
cô làm lễ cưới với bé trai thân yêu của chị, chị sẽ tới để sửa soạn nhà cửa các
em cho đàng hoàng, nếu các em đồng ý.
Vừa đúng tối hôm ấy tôi phải đến một chỗ chắc chắn gặp được Dora. Tôi đã
ngốc nghếch không chuẩn bị cho nàng nghe những gì tôi sắp nói, mà đột nhiên hỏi
độp nàng rằng liệu nàng có thể quyết định lấy một gã ăn mày hay không. Hãy tưởng
tượng nỗi khiếp sợ của nàng! Tiếng ăn mày, đối với nàng, hiện lên một khuôn mặt
nhăn nheo, đội chiếc mũ vải bông, kèm đôi nạng, một chiếc chân gỗ hay một con
chó mõm ngậm chiếc bát gỗ. Vậy là nàng ngớ người nhìn tôi nom rất nực cười.
- Dora, - tôi nghiêm nghị nói, - anh bị phá sản rồi.
Cô
òa lên khóc.
-
Một chiếc bánh mỳ kiếm bằng mồ hôi của chính mình, - tôi nói với nàng, - còn
ngọt ngào hơn một bữa tiệc trả giá bằng một gia tài thừa kế.
-
Em không muốn nghe nói đến bánh mì, - nàng hăng hái tiếp lời, - hàng ngày Jip
phải có món sườn cừu vào bữa trưa, nếu không nó chết mất.
Tôi
giải thích với nàng rằng Jip có thể vẫn có sườn cừu đều đều như thường lệ. Tôi
vẽ cho nàng một cuộc sống khiêm nhường và độc lập chúng tôi sẽ sống, nhờ lao
động của tôi.
Nàng
duyên dáng, nhưng tôi không ngăn nổi ý nghĩ cảm thấy nàng chẳng giúp ích được
mấy nỗi trong hoàn cảnh hiện thời.
-
Dora, anh có thể nói với em một lời hay không?
-
Ồ! Em xin anh, chúng mình đừng nói về cuộc sống hiện tại. Anh có biết là những
chuyện ấy làm em hoảng sợ biết bao!
-
Anh muốn em xem xét sự vật theo cách khác, - Tôi nói tiếp - anh muốn những
chuyện ấy khơi dậy cho em lòng can đảm và nghị lực.
-
Không, không, em xin anh, quá là khủng khiếp.
-
Nhưng có gì đâu nào, cô bé thân yêu của anh.
-
Tôi vui vẻ nói, - chỉ cần đôi khi em quan tâm một chút đến thực tế và thỉnh
thoảng làm những việc nội trợ cho ba em để gắng có vài thói quen... như... việc
theo dõi thu chi chẳng hạn.
Cô
bé tội nghiệp nghe thấy thế khẽ kêu một tiếng giống như nức nở. Song tôi nài
nỉ, tôi nói về cuốn cẩm nang làm bếp mà tôi sẽ gửi cho nàng...
Nhưng
nàng tỏ ra tuyệt vọng đến nỗi tôi tự hỏi phải chăng hủy bỏ ý định cải cách của
tôi thì tốt hơn ít nhất là trong lúc này.
Tôi
về hơi sớm, chia tay với Dora, trong lòng khá thất vọng. Tôi chỉ càng quyết tâm
hơn dốc sức làm việc để thành công.
Sau
ba bốn tháng tôi tự cho là đã khá thành thạo tốc ký nên toan ghi bài nói của
một trong những tay hùng biện của hạ nghị viện. Nhưng việc bị thất bại. Vậy là
tôi đành thử ghi những bài nói dễ hơn do Trađles đọc cho tôi viết.
Một
buổi sáng thứ bảy, trên đường đến văn phòng, tôi ngạc nhiên thấy các anh chàng
khuân vác đứng ở lối cửa ra vào đang nói chuyện sôi nổi.
-
Tai họa thật khủng khiếp, thưa ông Copper-field!
-
Gì thế? - Tôi kêu lên, - Có chuyện gì thế?
-
Ông chưa biết à? - Tiffey một người làm công có tuổi kêu lên, và tất cả những
người làm công xúm quanh tôi.
-
Không, - tôi đáp, - trong khi nhìn khắp mọi người.
-
Ông Spenlow... - Tiffey nói.
-
Sao?
-
Ông ấy chết rồi!
Tôi
tưởng như đất sụt dưới chân.
Xe
đón ông quay về không, người ta tìm thấy ông đã chết trên đường, có lẽ ông là
nạn nhân của một vụ tấn công.
Những
ngày sau đó, chúng tôi sắp xếp lại sổ sách giấy tờ của ông Spenlow. Ông không
có chúc thư để lại. Dần dần người ta phát hiện ra rằng vì bị câu thúc bởi lòng
ham muốn nổi bật lên trong số các biện lý của Pháp viện, ông đã tiêu quá số thu
nhập của văn phòng, và ông đã gây tổn hại nghiêm trọng đến số lợi tức cá nhân,
vốn đã không nhiều lắm. Người ta bán tất cả đồ đạc trong nhà ông ở Norwood, rồi
cho thuê căn nhà. Dồn tất cả, chỉ còn lại chưa đến một ngàn bảng.
Dora
rất buồn khổ. Nàng chỉ còn hai bà cô, chị gái của ông Spenlow, không lấy chồng
và hiện ở Putney.
Các
bà đề nghị Dora về sống với họ.
-
Ồ phải rồi! Các cô tốt bụng của cháu, - nàng nói với họ. - Các cô hãy cho cháu
về Putney cùng với Jip!
Vậy
là sau tang lễ vài ngày họ cùng quay về đó.
Để
kéo tôi ra khỏi tình trạng rầu rĩ, bà cô tôi nghĩ đến việc gửi tôi đi Douvres,
lấy cớ là để xem xét mọi việc tại ngôi nhà nông thôn của bà có tốt không. Ông
tiến sĩ Strong tốt bụng đồng ý cho tôi đi xa ít lâu và còn khuyến khích tôi kéo
dài cuộc hành trình. Còn về nơi làm việc tại Pháp viện, tôi không phải lo gì về
những việc phải làm tại đó.
Văn
phòng tan rã từ khi ông Spenlow mất, và tôi bắt đầu thấy xót xa tiếc hơn bao
giờ hết số tiền một nghìn bảng của bà cô tôi. Ở Douvres mọi việc đều tốt. Tôi ở
lại đó một đêm để hoàn tất vài việc lặt vặt, rồi sáng sớm hôm sau đi Canterbury.
Đang độ mùa đông. Thời tiết lạnh và buốt khiến đầu óc tôi hơi phấn chấn trở
lại.
Đến
cửa nhà ông Wickfield, trong gian phòng tầng trệt chỗ làm việc cũ của Uriah
Heep tôi thấy ông Micawber đang cắm cúi viết rất khẩn trương. Ông mặc bộ đồ đen
và thân hình nặng nề của ông hoàn toàn lấp đầy căn phòng nhỏ.
Thấy
tôi, ông Micawber vừa mừng vừa hơi lúng túng.
Tôi
hỏi ông có bằng lòng với cách xử sự của anh bạn Heep của ông hay không. Ông ngó
cửa xem đã đóng kín chưa, rồi hạ giọng đáp:
-
Anh Copperfield thân mến, trong tình cảnh túng tiền thì người ta sẽ thấy mình ở
vào một địa vị rất đáng buồn trước mặt phần lớn những người khác. Và rồi cái
điều không cải thiện được địa vị đó, chính là lúc mà nỗi túng quẫn buộc anh
phải xin ứng tiền lương trước kỳ hạn. Tôi chỉ có thể nói với cậu rằng anh bạn
Heep của tôi đã sẵn sàng đáp lại lời kêu xin mà tôi không muốn ám chỉ rõ hơn
làm gì.
-
Tôi không nghĩ anh ta lại hào phóng tiền bạc đến thế.
-
Tôi xin lỗi cậu, - Ông Micawber nói với vẻ khiên cưỡng, - đấy là tôi nói điều
đó theo kinh nghiệm của tôi.
-
Ông có hay gặp ông Wickfield không? - Tôi hỏi.
-
Không mấy khi, - Ông Micawber đáp, - nhưng ông ấy chẳng còn được tích sự gì.
-
Tôi e rằng người cộng tác của ông Wickfield đã làm mọi cách để đạt được điều
đó.
-
Copperfield thân mến, tôi hy vọng không làm mất lòng người bạn thời trai trẻ
của tôi, nhưng tôi có nhiệm vụ giữ riêng cho mình những ý kiến của tôi về công
việc kinh doanh của Wick-field và Heep.
Tôi
thấy rõ rằng ông Micawber đã thay đổi thái độ. Có thể nói những nhiệm vụ mới
của ông áp đặt cho ông sự gò bó nặng nề, nhưng tôi không có quyền cho rằng mình
bị xúc phạm.
Tôi
chia tay ông ngay và nhờ ông chuyển những lời chúc tốt đẹp đến gia đình ông.
Agnès
ngồi trong phòng cô, gần lò sưởi, mải viết trên chiếc bàn gỗ trạm trổ cũ.
-
Ồ! -Tôi nói với nàng, - Agnès, lâu không gặp em, anh rất nhớ.
-
Thật thế ư? - Nàng đáp, - Chúng ta xa nhau đã lâu đâu mà. - Nàng ngẩng đầu và
chìa tay cho tôi. Khuôn mặt nàng mới tuyệt vời làm sao!
Tôi
kể cho nàng nghe tất cả những gì đã xảy ra kể từ khi chúng tôi xa nhau, việc
làm chỗ tiến sĩ Strong, cái chết của ông Spenlow, sự ra đi của Dora.
-
Và giờ đây, - tôi nói, - anh hoàn toàn trông cậy ở em.
-
Nhưng anh Trotwood ạ, không phải là trông cậy vào em mà là vào Dora chứ.
-
Dora rất ngay thẳng, - tôi đáp, - nhưng cuối cùng thì khó mà..., anh không biết
diễn tả thế nào Agnès ạ... Nàng nhút nhát, nàng dễ dàng hoảng sợ, để anh kể em
nghe.
Tôi
kể cho Agnès tất cả và nàng nhẹ nhàng trách tôi về sự thô bạo với một cô bé
nhút nhát và không có kinh nghiệm.
-
Bây giờ anh phải làm gì?
-
Em cho rằng, - Agnès khuyên tôi, - cách thức thích đáng duy nhất là viết thư
cho các bà cô của cô bé.
Tôi
đồng ý và quyết định viết luôn trong ngày hôm ấy.
Tôi
xuống nhà thăm ông Wickfield và Uriah Heep. Tôi thấy Uriah đã dọn đến một văn
phòng mới còn tỏa mùi vôi vữa và được xây trong khuôn viên. Chưa hề có bộ dạng
nào thấp hèn hơn lại có mặt giữa đám sách vở và giấy tờ như vậy. Hắn tiếp tôi
với sự khúm núm quen thuộc. Hắn dẫn tôi vào phòng làm việc của ông Wickfield,
hay nói đúng hơn là cái bóng bàn giấy cũ của ông vì nó đã bị tước đi một loạt
tiện nghi để phục vụ cho người cộng sự mới của ông.
Ông
Wickfield và tôi chào hỏi nhau trong khi Uriah đứng trước lò sưởi, đưa bàn tay
xương xẩu xoa cằm.
Buổi
tối, trong bữa ăn, Uriah cao hứng nói rất nhiều. Hắn hỏi mẹ hắn xem liệu đã đến
lúc hắn nghĩ đến chuyện lấy vợ chưa, và một lần nữa hắn ném sang Agnès một cái
nhìn đến mức tôi có thể đánh đổi tất cả để được phép đập chết hắn.
Cuối
bữa ăn, Uriah muốn nâng cốc chúc sức khỏe ông Wickfield.
-
Tôi chỉ là một nhân vật thật hèn mọn để đề nghị các vị chúc sức khỏe cho ông, -
Uriah nói, -nhưng tôi cảm phục ông hay đúng hơn là tôi tôn sùng ông.
Ông
Wickfield bắt đầu nức nở. Ông nói:
-
Tôi không biết tôi đã làm những gì trong cơn mê, nhưng hắn thì biết, hắn luôn
đứng bên cạnh tôi để gợi ý những gì tôi phải làm. Cậu thấy đấy, hắn đã xích hòn
sắt vào chân tôi; hắn ở trong nhà tôi, hắn nhòm ngó vào mọi công việc của tôi. Thử
hỏi tôi có thể nói với cậu cái gì thêm nữa?
Agnès
đến tìm cha cô và vừa dịu dàng dìu ông đi cô vừa an ủi ông. Uriah lúng túng
muốn xin lỗi.
Tôi
không nói với hắn lời nào, và leo lên căn phòng nhỏ yên tĩnh nơi trước kia
Agnès vẫn hay đến ngồi gần tôi khi tôi làm việc. Tôi ở đó một mình tới khuya,
chẳng có ai tới. Tôi cầm lấy cuốn sách cố đọc; tiếng chuông điểm đúng nửa đêm và
tôi đọc mà không biết mình đọc cái gì, thì Agnès đụng khẽ vào vai tôi.
-
Sáng mai anh đi sớm, anh Trotwood, em đến chào anh.
Nàng
khóc, nhưng khuôn mặt đã trở lại xinh đẹp và trong sáng.
-
Cầu chúa ban phúc lành cho anh! - Nàng nói và chìa tay cho tôi bắt.
Hôm
sau tôi trở về Luân Đôn, sau khi xin ý kiến bà cô tôi và ông Dick tôi, đã gửi
thư cho các bà cô của Dora.
Ít
lâu sau tôi nhận được hồi âm. Các bà cô nàng gửi lời thăm hỏi tôi, mời tôi đến
đàm phán với họ về nội dung bức thư. Và tôi có thể đi cùng một người tin cẩn.
Tôi
phúc đáp các bà cô Spenlow với những lời thăm hỏi kính trọng. Tôi rất vinh dự
được đến thăm họ vào ngày giờ đã định và bạn tôi là Thomas Trađles sẽ cùng đi.
Các
bà cô của Dora là hai bà già nhỏ thó quắt queo giống hệt như ông Spenlow. Sau
khi hỏi han như thẩm vấn, họ cho phép tôi được gặp Dora, và cho phép tôi đến ăn
chiều tại nhà họ vào các ngày chủ nhật lúc ba giờ và đến uống trà, trong tuần,
lúc sáu giờ rưỡi chiều.
Tôi
nỗ lực gấp đôi trong việc học tốc ký để đáp lại sự chờ đợi của Dora và lòng tin
cậy của các bà cô nàng.
Agnès
cùng cha nàng đến Luân Đôn thăm bà Strong trong nửa tháng. Dĩ nhiên, nhân lúc
Agnès có mặt ở đây, tôi giới thiệu nàng với Dora. Dora chưa gặp đã sợ Agnès.
Nhưng khi thấy Agnès nhìn mình với cặp mắt thật nghiêm trang và thật vui vẻ
thật tư lự và nhân hậu, nàng khẽ thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên và vui sướng
lao vào vòng tay Agnès áp má vào má Agnès.
Ngày
lại ngày trôi qua. Tôi nghĩ rằng mọi chuyện đối với ông Micawber hết sức tốt
đẹp. Vì vậy một hôm tôi rất kinh ngạc nhận được bức thư sau đây từ người vợ
đáng yêu của ông:
"Anh
Copperfield thân mến. Hẳn anh sẽ rất ngạc nhiên khi nhận được thư này. Và có lẽ
càng ngạc nhiên hơn khi tôi yêu cầu anh tuyệt đối giữ bí mật. Nhưng với tư cách
vừa là một người vợ, vừa là một người mẹ, tôi cần giãi bày tâm sự, và vì tôi
không muốn hỏi ý kiến họ hàng của tôi, tôi không còn biết có ai để có thể tin
cậy tâm sự hơn là với người bạn cũ và người ở trọ cũ.
Anh
Copperfield thân mến, anh biết rằng giữa tôi và ông Micawber xưa nay vẫn hoàn
toàn tin cậy nhau. Vậy mà ông ấy đã thay đổi hoàn toàn. Ông ấy làm ra vẻ dè
dặt, bí mật. Cuộc sống của ông ấy trở nên bí ẩn đối với tôi, người đã chung
niềm vui và nỗi buồn phiền cùng ông.
Nhưng
chưa hết. Ông Micawber thật rầu rĩ!
Ông
ấy luôn tỏ ra nghiêm khắc, sống xa cách các con chúng tôi, ông không còn tự hào
nói về hai bé sinh đôi nữa. Thậm chí ông còn lạnh lùng nhìn cháu bé vô tội mới
ra đời trong gia đình chúng tôi.
Tôi
cam đoan với anh rằng khó khăn lắm tôi mới nhận được ở ông những khoản tài
chính cần thiết để chu cấp cho những khoản chi vốn đã bị thu hẹp rất nhiều.
Thật
khó mà chịu đựng nổi. Lòng tôi tan nát.
Người
bạn đau khổ của anh.
Emma
Micawber."
Giờ
đây tôi đã trưởng thành! Tôi đã hai mươi mốt tuổi. Tôi đã nắm được cái nghệ
thuật của môn tốc ký: nó giúp tôi thu nhập rất đáng kể. Tôi là một trong số
mười hai thư ký tốc ký thu thập những cuộc tranh luận tại Nghị viện cho một tờ
báo buổi sáng.
Anh
bạn Trađles thân mến của tôi, đã làm thử công việc ấy nhưng không phù hợp. Anh
đành vui vẻ chịu thất bại.
Tôi
cũng thử làm một việc nữa với nỗi e ngại và run sợ, tôi thử viết văn. Tôi gửi
bản thảo đầu tiên của tôi cho một tờ tạp chí và được đăng. Từ đó tôi có thêm
can đảm và tôi đã được đăng vài tiểu phẩm khác. Chúng bắt đầu mang lại cho tôi
ít nhiều. Thu nhập của tôi lên tới ba trăm năm mươi bảng.
Cô
Savinia và cô Clarissa, các bà cô của Dora, đã ưng thuận cho chúng tôi làm đám
cưới. Các bà nói về chuyện quần áo mang theo và đồ đạc của cô dâu.
Cuối
cùng ngày trọng đại tới. Tất cả những người tôi yêu quý đều đến dự lễ thành hôn
của tôi.
Tôi
cho rằng một đôi chim non nhỏ xíu có lẽ cũng hiểu biết về nghệ thuật nội trợ
bằng hai chúng tôi, Dora và tôi. Chúng tôi có một người đầy tớ gái, và đương
nhiên là chị ta trông nom công việc nội trợ cho chúng tôi. Chị ta làm cho cuộc
sống của chúng tôi khó khăn biết bao, chị Marie-Jeanne! Chị đã xuất trình với
chúng tôi một chứng chỉ to như tờ áp phích, cứ theo chứng chỉ ấy thì chị biết
làm mọi việc trên đời. Người ta cam đoan với chúng tôi rằng con người đáng quý
đó giản dị và trung thực. Vậy là tôi sẵn sàng tin rằng hôm tôi thấy chị nằm lăn
dưới chiếc chảo là chị bị lên cơn thần kinh và rằng người hót rác đã sơ ý không
trả lại chúng tôi những chiếc thìa uống trà.
Nhưng
chị ta khiến chúng tôi rất sợ. Chính chị là nguyên cớ gây nên cuộc cãi cọ đầu
tiên của tôi với Dora.
-
Em yêu quý, - tôi nói với Dora, - em có tin rằng Marie-Jeanne biết xem giờ
không?
-
Sao thế anh? - Dora ngẩng đầu ngây thơ hỏi lại.
-
Em yêu, vì đã năm giờ mà đáng ra chúng ta phải được ăn từ lúc bốn giờ.
Dora
nhìn đồng hồ treo tường vẻ lo lắng không yên.
-
Em thân yêu, tốt nhất là em nên nói thẳng chuyện đó với Marie-Jeanne được không?
-
Ồ không! David, em xin anh, - Dora nói, - không bao giờ em dám đâu.
-
Tại sao thế? - Tôi nhẹ nhàng hỏi nàng.
-
Ồ! - Dora kêu lên, - vì em là một con bé ngốc nghếch và chị ta biết rõ điều đó.
-
Em của anh, sao em run lên thế!
-
Vì em biết anh sắp mắng em, nàng nói giọng thảm thiết.
Tôi
cố dỗ dành Dora nhưng nàng che mặt, lúc lắc những búp tóc quăn mà bảo.
-
Ôi! Độc ác, anh thật là độc ác!
Tôi
không biết làm gì nữa.
-
Dora, em bé của anh!
-
Không, em không phải là em bé của anh. Rõ ràng là anh bực bội vì đã lấy em, nếu
không anh đã chẳng nói với em như thế!
Tôi
lấy can đảm nói với nàng:
-
Này, Dora ơi, hẳn em nhớ hôm qua chưa xong bữa tối, anh đã phải đi có việc, và
hôm trước thịt bò làm anh đau bụng vì nấu chưa chín và anh vừa nuốt xuống đã
phải chạy. Hôm nay bữa tối trong bụng chẳng có gì, và anh không dám kêu là
chúng mình đã phải đợi ăn sáng rất là lâu, lại còn nước pha trà mà không sôi.
Anh không có ý trách em, bé thân yêu của anh, nhưng tất cả những điều đó thật
không dễ chịu cho lắm.
-
Ôi! Độc ác, anh thật là độc ác, làm sao anh có thể nói với em những điều khó
chịu đến thế!
-
Anh có trách em đâu, Dora. Cả hai chúng mình cần có nhiều điều phải học. Anh
chỉ muốn em nên để mắt đến Marie-Jeanne cũng như bản thân em cũng nên tham gia
tí chút vì lợi ích của em cũng như của anh.
-
Em thực sự ngạc nhiên về sự tệ bạc của anh, - Dora vừa nói vừa nức nở, - Hôm nọ
anh thèm ăn cá, chính em đã đi khá xa để mua về gây bất ngờ cho anh.
-
Em thân yêu! Anh rất biết ơn em về chuyện đó, thành thử anh không nỡ kêu ca
rằng em đã sai lầm khi mua con cá hồi, vì nó quá to cho hai người ăn, và giá
những sáu xu, đối với chúng mình là quá đắt.
-
Anh bảo nó ngon kia mà, - Dora vừa nói vừa khóc.
Tôi
tìm mọi cách dỗ dành nàng; nhưng tôi đã làm tổn thương sâu sắc trái tim non nớt
tội nghiệp ấy. Tôi buộc lòng phải đi ra ngoài và trở về thật khuya, lòng đầy
hối hận.
Về
đến nhà đã thấy bà cô tôi đang chờ. Tôi lo lắng hỏi:
-
Thưa bà, có chuyện gì thế?
-
Không, Trot ạ - bà đáp - chỉ có Bông Hoa Nhỏ (tên bà gọi Dora) hơi buồn và bà
ngồi lại với nó.
-
Thưa bà, cháu cam đoan với bà, cứ nghĩ rằng Dora buồn là cháu thấy day dứt
trong lòng. Nhưng cháu chỉ muốn nói một cách ngọt ngào và âu yếm với vợ cháu về
những việc vặt trong nhà.
-
Trot ạ, - bà nói, - cháu cần kiên nhẫn. Bông Hoa Nhỏ rất mảnh mai, chỉ chịu
được gió nhè nhẹ mà thôi.
Sự
hòa giải giữa Dora và tôi thật dễ dàng.
Chúng
tôi chỉ phiền muộn về người đầy tớ.
Người
anh họ của Marie-Jeanne đào ngũ, trốn trong hầm than nhà chúng tôi. Anh ta bị
một tốp lính đồng ngũ khóa tay lôi ra làm chúng tôi rất ngạc nhiên. Điều này
khiến tôi đủ can đảm đuổi việc chị Marie-Jeanne. Tôi còn được biết chị ta có
thói mượn tên tôi đi vay những món tiền nhỏ của những người bán hàng cho gia
đình. Tạm thời chúng tôi thuê bà Kidgerbury, một bà đầy tớ già khoe làm được
công việc nội trợ, nhưng bà quá yếu nên không làm nổi. Một người quý hóa khác
lại không ngừng ngã lăn lông lốc từ trên gác xuống chân cầu thang. Một cô gái
khác đội mũ của Dora đi dự hội chợ Ở Greenwich. Cô vợ bé nhỏ của tôi đã cố gắng
nhiều để học cách săn sóc gia đình nhưng kết quả rất đáng thất vọng.
Một
hôm Dora bảo tôi:
-
Anh có muốn gọi em bằng cái tên mà em sắp nói với anh không?
-
Gọi là gì? - tôi mỉm cười nói.
-
Đó là cái tên ngớ ngẩn, nhưng mặc kệ, anh cứ gọi em là "vợ trẻ con"
của anh.
-
Nhưng làm sao anh lại có thể gọi em như thế?
-
Anh ngốc thế, em không bảo anh gọi em bằng cái tên đó thay cho tên gọi Dora. Em
chỉ xin anh khi nào nghĩ đến em thì tự nhủ rằng em là cô vợ trẻ con của anh.
Khi anh định nổi cáu với em, anh hãy tự nhủ: "A hay! đó là cô vợ trẻ con
của tôi mà".
Ít
lâu nay tôi đã có thành công trong những tiểu phẩm văn học đến nỗi tôi tin có
thể, không phải là thiếu thận trọng, sau một thắng lợi mới về văn học, rốt cuộc
tôi sẽ thoát khỏi công việc buồn chán là ghi tốc ký các cuộc tranh luận nghị
trường.
Thời
gian ấy chúng tôi đã kết hôn được gần một năm. Sau nhiều lần thử nghiệm chúng
tôi thấy chẳng cần điều khiển việc nhà làm gì. Nó sẽ tự vận hành lấy, với sự
trợ giúp của một cậu thị đồng mà chức năng chủ yếu là cãi nhau với cô làm bếp.
Năm
ấy trôi qua đã làm giảm sức lực của Dora.
Đến
cuối năm nàng càng trở nên héo hon đến mức nhìn nàng tôi không thể không thấy
những linh cảm buồn.
Tôi
có thói quen sáng nào cũng bế nàng xuống và tối nào cũng bế nàng lên nhà. Nàng
vòng tay ôm lấy cổ tôi và rúc rích cười cả đoạn đường. Tôi cảm thấy mỗi ngày
nàng một nhẹ bỗng đi và một cảm giác buồn bã mơ hồ xâm chiếm lòng tôi. Tôi có
cảm tưởng mình đang đi tới một miền lạnh giá chưa từng biết và ý nghĩ về nơi đó
làm cho cuộc đời tôi trở nên ảm đạm.
Bông
Hoa Nhỏ mà đi đến chỗ héo ở cành như mọi bông hoa thì làm sao đây!

