Ôlivơ Tuýt - Chương 33

CHƯƠNG XXXIII

HẠNH PHÚC CỦA ÔLIVƠ VÀ BÈ BẠN CỦA NÓ
BỊ CẢN TRỞ ĐỘT NGỘT

Mùa xuân
trôi qua nhanh chóng và mùa hạ đã đến. Nếu như lúc đầu cái làng đã xinh đẹp như
vậy thì lúc này nó lại càng rực rỡ tưng bừng với tất cả sự giàu có của nó.
Những cây lớn mấy tháng trước đây trông khẳng khiu, trơ trụi bây giờ đã tràn
đầy sức sống và sức lực, chúng dang những cánh tay xanh rờn trên mặt đất khao
khát biến những nơi trơ trụi và trống trải thành những gốc diệu kỳ, đầy bóng
râm thú vị và mát rượi, đứng đó người ta có thể nhìn thấy một phong cảnh rộng
lớn tràn ngập ánh nắng trải dài trước mặt. Mặt đất đã khoác chiếc áo màu xanh
tươi thắm nhất và tỏa mùi hương ngào ngạt khắp nơi. Thời gian rực rỡ và cường
tráng nhất của năm đã đến: vạn vật vui vẻ, tưng bừng.

Tuy vậy,
cuộc sống yên tĩnh trước đây vẫn tiếp tục trong túp nhà tranh nhỏ bé, vẻ thanh
thản vô tư vẫn chiếm ưu thế ở những con người ở đấy. Từ lâu, Ôlivơ đã khỏe mạnh
và cứng cáp. Nhưng dù nó khỏe mạnh hay ốm đau, những tình cảm nhiệt thành của
nó đối với những người chung quanh vẫn không hề thay đổi, mặc dầu sự thay đổi
này vẫn thường xảy ra ở rất nhiều người. Nó vẫn là đứa bé dịu dàng, gắn bó, dễ
thương như xưa, khi đau ốm và cực khổ đã làm cho nó kiệt sức và hoàn toàn lệ
thuộc vào sự chú ý và sâu sắc nhỏ nhặt nhất của những người chăm nom nó.

Một buổi
chiều đẹp đẽ, ba người đi dạo lâu hơn mọi ngày, vì hôm ấy đặc biệt ấm áp, đồng
thời trăng lại tỏa sáng và một ngọn gió nhẹ nổi lên hết sức mát mẻ. Cô Rôdơ
cũng tỏ ra hào hứng và mấy người vừa đi vừa nói chuyện vui vẻ cho đến khi vượt
quá giới hạn mọi ngày. Vì bà Mâyli thấm mệt, nên ba người quay trở về nhà chậm
rãi hơn. Cô gái chỉ bỏ cái mũ giản dị ra, rồi ngồi xuống cạnh cây đàn dương cầm
như mọi ngày. Sau khi lơ đãng để những ngón tay trên các phím đàn độ vài phút,
cô chơi một điệu nhạc trầm và rất trang trọng, trong khi chơi đàn người ta nghe
cô thở dài dường như đang khóc.

“Cháu
Rôdơ”, bà cụ nói.

Cô Rôdơ
không trả lời, nhưng chơi nhanh hơn một chút, tựa hồ như những lời nói này đã
kéo cô ra khỏi không ít những ý nghĩ nặng nề.

“Rôdơ, cháu
yêu quý!”. Bà Mâyli kêu lên, vội vàng đứng dậy và cúi xuống bên cô gái. “Có
chuyện gì thế? Cháu khóc à? Này con, sao con khổ sở vậy?”.

“Dì ơi,
không sao cả”, cô gái đáp. “Cháu không rõ chuyện gì. Cháu không thể miêu tả
được, nhưng cháu cảm thấy...”

“Không ốm
chứ con?”, bà Mâyli ngắt lời.

“Không đâu!
Không đâu ạ! Ồ, không đâu!”. Cô Rôdơ rùng mình đáp, dường như khi nói cô cảm
thấy lạnh. “Chỉ lát nữa thôi, cháu sẽ khá hơn. Làm ơn đóng hộ cửa sổ với”.

Ôlivơ vội
vàng thực hiện yêu cầu của cô. Cô gái gắng tươi vui, cố chơi một giai điệu vui
vẻ hơn, nhưng những ngón tay cô buông rơi bất lực trên phím đàn. Giơ hai tay
che mặt, cô Rôdơ nằm vật ra xô pha và nước mắt tuôn trào không sao kìm được.

“Con ơi!”,
bà cụ nói, rồi ôm ghì cô trong vòng tay, “trước đây dì chưa bao giờ thấy con
như thế cả”.

“Cháu không
muốn làm dì hoảng sợ”. Cô Rôdơ đáp, “nhưng quả thực, cháu đã cố hết sức, nhưng
không sao được Cháu sợ ốm mất dì ạ”.

Thực vậy,
cô Rôdơ bị ốm, vì khi đèn nến được đem lên, người ta nhận thấy rằng trong thời
gian rất ngắn ngủi, từ khi họ trở về nhà, sắc mặt cô đã trắng bợt như cẩm
thạch. Khuôn mặt cô vẫn xinh đẹp, song chẳng còn như trước, một nỗi lo âu, hốt
hoảng chưa từng thấy hằn rõ trên gương mặt dịu hiền của cô. Một phút sau, gò má
đỏ hồng và đôi mắt biếc dịu dàng dại đi. Điều này lại biến đi như một bóng râm
do một đám mây lướt qua đem đến. Rồi mặt cô lại tái nhợt đi.

Ôlivơ lo
lắng theo dõi bà cụ, nhận thấy bà hoảng hốt trước những triệu chứng như vậy.
Thực ra, nó cũng hoảng hốt, nhưng nhận thấy bà cụ cố tỏ ra không cho đó là quan
trọng, nên nó cũng cố gắng làm theo, và hai người đã thành công đến nỗi khi bà
dì khuyên cô Rôdơ đi ngủ, cô đã vui vẻ hơn và thậm chí không có vẻ ốm yếu như
trước. Cô cam đoan với họ rằng chắc sáng mai khi tỉnh dậy, cô sẽ hoàn toàn khỏe
mạnh. Khi bà Mâyli quay lại, Ôlivơ nói:

“Cháu hy
vọng rằng chị ấy không việc gì chứ ạ? Chị ấy tối nay có vẻ mệt, nhưng...”.

Bà cụ ra
hiệu cho nó đừng nói, đoạn ngồi xuống một góc tối trong phòng. Bà im lặng một
lát, cuối cùng nói, giọng run run:

“Dì cũng hy
vọng như thế, Ôlivơ ạ. Đã mấy năm nay dì sống rất hạnh phúc với chị cháu, có lẽ
quá hạnh phúc. Bây giờ có thể là lúc dì gặp điều bất hạnh. Nhưng dì hy vọng
không phải như vậy”.

“Chuyện gì
thế ạ?”, Ôlivơ hỏi.

“Một tổn
thất nặng nề”, bà cụ đáp. “Mất đứa con gái yêu quý bấy lâu nay là nguồn an ủi
và hạnh phúc của dì”.

“Ôi chao!
Lạy Chúa!”, Ôlivơ vội vàng kêu lên.

“Con ơi!
Lạy Chúa tôi!”, bà cụ nói, vặn chặt tay mình.

“Nhưng chắc
là không có gì nguy hiểm”, Ôlivơ bảo. “Mới cách đây có hai giờ, chị ấy còn rất
khỏe mạnh”.

“Bây giờ
chị cháu ốm lắm rồi”, bà Mâyli đáp, “và dì biết chắc là sẽ còn nặng hơn nữa.
Rôdơ yêu quý của dì! Không có cháu, dì sẽ ra sao?”.

Bà tỏ vẻ
đau buồn đến nỗi Ôlivơ cố che giấu cảm xúc của mình đánh bạo trách bà và nghiêm
chỉnh yêu cầu, vì lòng mến yêu cô gái thân thương, bà nên tỏ ra bình tĩnh hơn.
Ôlivơ cố trấn tĩnh, nhưng ngoài ý muốn của nó, nước mắt vẫn cứ chảy ròng ròng.

“Dì ơi”,
Ôlivơ bảo, “dì nghĩ xem, chị cháu trẻ và tốt bụng như thế, chị đem đến cho mọi
người chung quanh niềm vui sướng và hạnh phúc như thế nào. Cháu biết chắc...
cháu tin chắc... hoàn toàn tin chắc rằng vì dì nhân từ như vậy, và vì chị cháu,
cũng như vì tất cả những người mà chị cháu đã làm cho họ được sung sướng như
vậy, chị cháu sẽ không chết đâu. Trời sẽ không bao giờ để chị cháu chết sớm như
vậy”.

“Suỵt!”, Bà
Mâyli nói, rồi đặt bàn tay lên đầu Ôlivơ.

“Thằng bé
tội nghiệp, cháu suy nghĩ như một đứa trẻ. Nhưng dẫu sao cháu cũng nhắc dì thấy
ra bổn phận mà dì nhãng quên trong chốc lát, nhưng dì hy vọng rằng người ta có
thể tha thứ cho dì, vì dì đã già và đã thấy khá nhiều người mắc bệnh và chết,
cho nên đã hiểu phải chia ly với những người mình yêu quý là cực khổ như thế
nào? Dì cũng đã thấy nhiều, đủ để biết rằng không phải bao giờ những người trẻ
tuổi nhất và tốt bụng nhất cũng được sống với những người yêu quý họ. Nhưng
điều này sẽ an ủi chúng ta trong nỗi đau buồn, bởi vì Trời rất công bằng và
điều này cũng chứng tỏ cho chúng ta biết rằng có một thế giới khác tươi sáng
hơn thế giới này... và bước sang thế giới ấy cũng chẳng lâu lắc gì. Ý muốn của Chúa
đã được thực hiện! Bà yêu chị cháu và Chúa biết tình yêu đó lớn lao như thế
nào”.

Ôlivơ ngạc
nhiên nhận thấy khi nói những lời này, bà Mâyli đã kìm nén được những lời than
vãn, dường như bà đã rắn rỏi hơn, và khi nói bà đứng lên, nên bà trở lại yên tĩnh
và vững tin. Nó lại còn ngạc nhiên hơn lúc nhận thằng thái độ vững tin này kéo
dài và trong tất cả việc chăm nom săn sóc sau đó, bao giờ bà cũng sẵn sàng và
điềm tĩnh. Bà làm tất cả mọi nhiệm vụ phải làm một cách kiên quyết và nhìn bên
ngoài thậm chí xem ra vui vẻ. Nhưng đó là vì Ôlivơ còn nhỏ, và nó không còn
hiểu các tâm hồn minh mẫn có thể chịu đựng được những gì trong những hoàn cảnh
thử thách. Làm sao nó có thể biết điều đó được khi chính những người có tâm hồn
minh mẫn cũng ít khi nhận thức được điều đó?

Sau đấy là
một đêm đầy lo âu. Sáng ra, lời tiên đoán của bà Mâyli đã được xác nhận quá rõ.
Cô Rôdơ đang ở giai đoạn đầu của một cơn sốt cao và nguy hiểm.

“Dì cháu ta
phải tích cực”, bà Mâyli bảo và đặt ngón tay lên môi, mắt nhìn đăm đăm vào
gương mặt cô Rôdơ, “chúng ta không được rơi vào tình trạng đau buồn vô ích.
Phải gửi thật gấp bức thư này cho ông Lôxbơcnơ. Phải mang thư ra thị trấn, do
đó phải đi bộ hơn bốn dặm băng qua đồng, rồi từ đó người ta sẽ dùng ngựa chuyển
thẳng đến Secxi. Những người ở quán ăn sẽ đảm nhiệm việc này, dì nhờ cháu lo
sao cho công việc được thi hành nhanh chóng. Dì biết rõ như vậy”.

Ôlivơ không
trả lời, nhưng người ta thấy rõ nó lo lắng muốn đi ngay lập tức. Bà Mâyli dừng
lại một lát để suy nghĩ.

“Đây là một
bức thư nữa. Kể ra dì không biết có nên gửi nó đi ngay bây giờ không hay đợi
xem bệnh tình Rôdơ phát triển như thế nào đã. Dì không muốn gửi nó đi trừ phi
sợ có chuyện không hay”.

“Bức thư ấy
cũng gửi gấp đến Secxi phải không ạ?”. Ôlivơ hỏi, vẻ nóng ruột muốn thực hiện lời
sai bảo và giơ bàn tay run run ra cầm bức thư.

“Không”, bà
cụ đáp, nhưng vô tình vẫn trao bức thư cho nó. Ôlivơ liếc mắt nhìn bức thư và
thấy là gửi cho Hari Mâyli, ở nhà một vị huân tước nào đấy tại nông thôn, nhưng
nó không thể nào biết ở đâu.

“Cháu mang
nó đi chứ?”, Ôlivơ hỏi, và ngước mắt nhìn, vẻ sốt ruột.

“Dì thấy
không nên”, bà Mâyli đáp, và lấy lại bức thư. “Dì sẽ đợi cho đến mai”.

Nói đoạn,
bà trao ví tiền cho Ôlivơ và nó liền vội bước ngay ra ngoài và cố hết sức đi
thật nhanh.

Nó ba chân
bốn cẳng chạy băng qua các cánh đồng, men theo những con đường nhỏ thỉnh thoảng
chia cắt cánh đồng, khi thì nó gần như bị lúa mì cao ở hai bên che lấp, khi thì
lộ rõ trên một cánh đồng trống trải ở đấy thợ gặt và đánh cỏ đang làm việc bận
rộn. Nó đi một lèo và chỉ thỉnh thoảng dừng lại nghỉ vài giây để lấy hơi cho
đến khi người nóng ran và đầy bụi bặm, nó đến cái chợ nhỏ bé ở thành phố nhỏ.

Đến đây, nó
dừng lại nhìn quanh quẩn, tìm quán ăn, nó thấy một nhà ngân hàng sơn trắng, một
cửa hàng bán rượu bia, và tòa thị chính màu vàng, và ở góc phố có một ngôi nhà
lớn với những cánh cửa bằng gỗ sơn xanh, đằng trước treo biển đề “Giorgiơ”. Khi
thấy tấm biển, nó vội chạy đến ngay.

Nó nói với
một cậu bé đưa thư đang ngồi ngủ gà ngủ gật ở nơi cổng, nghe xong cậu này bảo
nó đến gặp người coi chuồng ngựa, sau khi nghe tất cả những điều nó phải nói
lại, người coi chuồng bảo nó đến tìm ông chủ. Ông chủ là một người cao lớn
quàng khăn màu lam, đội mũ trắng, mặc quần chật ống và đi giày có cổ để cho phù
hợp với quần, ông đang dựa mình vào một cái bơm cạnh cửa chuồng ngựa, tay cầm
chiếc tăm xỉa răng bằng bạc. Ông ung dung bước vào quầy bán rượu để tính tiền,
việc này chiếm một thời gian dài, khi đã tính toán xong và đã trả tiền, người
ta phải thắng yên một con ngựa, và một người phải mặc quần áo, việc đó cũng mất
thêm mươi phút nữa. Trong lúc ấy, Ôlivơ vô cùng nóng ruột và lo lắng đến nỗi nó
cảm thấy dường như suýt nữa thì nhảy lên mình ngựa, phi nước đại đến trạm kế
tiếp. Cuối cùng, mọi việc đều sẵn sàng, và khi cái gói nhỏ đã được trao thực
nhanh cùng nhiều lời dặn dò cầu khẩn, người đàn ông ấn cựa giày vào con ngựa và
sau vài phút phi ngựa dọc theo đường cái.

Thấy hơi
yên tâm là đã nhờ được người đến giúp, Ôlivơ không bỏ lỡ một phút vội vàng đến
quán rượu, lòng phần nào nhẹ nhõm hơn. Nó sắp bước ra khỏi cổng thì bỗng vấp
phải một người đàn ông cao lớn mặc một cái áo khoác ngay lúc ấy bước ra sân
quán rượu.

“Ôi chao!”.
Người kia kêu lên và nhìn Ôlivơ chằm chặp, rồi đột nhiên bước lùi lại. “Quái
quỷ gì thế này?”

“Cháu xin
lỗi chú”, Ôlivơ nói, “cháu đang vội về nhà nên không thấy chú bước ra”.

“Chết
mất!”. Người kia lẩm bẩm một mình, quắc đôi mắt to đen láy nhìn thằng bé. “Ai
ngờ thế này! Đập tan nó đi! Nó đã chui từ cái quan tài bằng đá ra để cản đường
ta!”.

“Cháu xin
lỗi!”. Ôlivơ lẩm bẩm, lúng túng trước cái nhìn hung tợn của người lạ mặt. “Cháu
không làm chú đau chứ?”.

“Quỷ sứ bắt
mày đi!”, người kia lẩm bẩm, vẻ hết sức giận dữ, hai hàm răng nghiến chặt lại,
“tao mà có đủ can đảm nói câu ấy ra thì chỉ trong một tối là tao có thể cho mày
đi đời. Đồ chết băm chết vằm! Đồ ôn dịch! Nhãi ranh, mày làm cái gì ở đây?”.

Người kia
hoa nắm tay khi thốt ra những lời lộn xộn này. Hắn tiến về phía Ôlivơ như có ý
định giáng cho nó một đấm, nhưng bỗng ngã vật xuống đất, quằn quại, sùi bọt mép
trong cơn đau đớn.

Ôlivơ đưa
mắt nhìn một lát cảnh người điên này lăn lộn (vì nó cho hẳn là thế); rồi sau đó
lao vào nhà gọi người đến cứu. Sau khi thấy người kia đã được khiêng vào quán
ăn một cách yên ổn, nó chạy về nhà, cố hết sức chạy thật nhanh để bù lại thời
gian đã mất. Vừa chạy vừa lo sợ, nó nhớ lại hành vi kỳ quặc của con người mà nó
vừa rời bỏ. Tuy vậy, Ôlivơ không phải bận tâm suy nghĩ lâu về trường hợp này,
vì khi về đến ngôi nhà tranh, nó có nhiều việc phải quan tâm khiến nó quên mọi
lo lắng về bản thân mình.

Bệnh cô
Rôdơ nhanh chóng trở nên trầm trọng; vào khoảng gần nửa đêm cô mê sảng. Ông
thầy thuốc ở gần đấy luôn luôn túc trực bên cô, sau khi thăm người bệnh lần
đầu, ông kéo bà Mâyli riêng ra một nơi và nói rằng bệnh của cô thuộc loại hết
sức nguy kịch. “Kể ra”, ông nói, “nếu cô ấy khỏi được bệnh thì phải là chuyện
phi thường”.

Đêm ấy, đã
bao lần Ôlivơ rời khỏi giường, rón rén lẻn ra cầu thang lắng nghe những tiếng
động nhỏ nhất phát ra từ căn phòng người bệnh. Đã bao lần người nó run lẩy bẩy
và những giọt mồ hôi lạnh toát ướt đẫm trên trán khi nó nghe tiếng chân bước
đột ngột, lo xảy ra một điều gì quá dễ sợ mà nó không dám nghĩ đến! Và nỗi tha
thiết của những lời cầu nguyện xưa nay nó đã cầu đều không thấm gì so với những
lời van lơn hiện nay nó thốt ra trong tình trạng buồn bã và tuyệt vọng xin Chúa
rủ lòng tiếc thương cuộc đời và sức khỏe của con người dịu dàng đang đứng bên
huyệt.

Ôi! Khi
đứng khoanh tay bất lực nhìn cuộc đời của con người ta yêu tha thiết đang bấp
bênh trên cán cân của số phận thì thật đau khổ biết bao! Ôi! Những ý nghĩ đau
xót dồn dập đến làm cho con tim đập mạnh điên cuồng, hơi thở hổn hển, do sức
mạnh của những hình ảnh mà nó làm nảy sinh; nỗi lo lắng tuyệt vọng muốn làm một
cái gì để giảm bớt nỗi đau khổ hay giảm bớt điều nguy hiểm mà ta không có cách
nào giảm bớt được. Tâm hồn và trí óc ta tê liệt do chỗ hồi tưởng buồn bã tới
tình trạng bất lực của mình. Có hình phạt nào đau đớn bằng những hình phạt này,
có những suy nghĩ nào hay những cố gắng nào có thể làm cho nó dịu bớt trong giờ
phút vất vả nhất và quyết liệt nhất!

Buổi sáng
đến, mái nhà tranh nhỏ bé lặng lẽ và cô tịch. Mọi người nói thì thầm. Chốc chốc
ở ngoài cổng xuất hiện những vẻ mặt ưu tư; đàn bà, trẻ con bước ra giàn giụa
nước mắt. Suốt cả cái ngày đằng đẵng ấy và hàng giờ sau khi trời đã tối, Ôlivơ
rón rén đi lại ngoài vườn, chốc chốc ngước mắt nhìn phòng người bệnh, rùng mình
khi thấy cửa sổ tối đen tựa hồ như cái chết đã lẻn vào. Đến khuya, ông Lôxbơcnơ
đến. “Thực là gay”, ông bác sĩ quý hóa, vừa nói vừa ngoảnh mặt đi... “trẻ như
thế, được mọi người yêu quý như thế. Nhưng có rất ít hy vọng”.

Buổi sáng
lại đến. Mặt trời chiếu sáng rực rỡ, rực rỡ tựa hồ như nó không nhìn thấy sự lo
lắng buồn bã nào hết, và chung quanh cô Rôdơ lá và hoa đua thắm tưng bừng; nhựa
sống, sức khỏe và những tiếng động, những cảnh tượng vui tươi bao quanh cô ở
mọi phía. Nhưng cô gái trẻ tuổi xinh đẹp vẫn lầm lỳ, kiệt sức nhanh chóng.
Ôlivơ len lén đi ra nghĩa địa cổ và ngồi xuống một mô đất xanh rờn, nó khóc và
cầu nguyện cho cô Rôdơ trong cảnh yên lặng.

Phong cảnh
chung quanh thật yên tĩnh và xinh đẹp, thật tưng bừng và tươi vui dưới ánh mặt
trời; điệu nhạc của những con chim mùa hạ vang lên rộn ràng làm sao; những con
quạ vút bay ở trên đầu tự do thoải mái làm sao. Thế rồi, khi đứa bé ngước đôi
mắt nhức nhối nhìn quanh, bất giác nó có ý nghĩ rằng lúc này không phải là lúc
người ta chết, rằng cô Rôdơ chắc chắn không thể chết khi những vật thấp kém hơn
kia đều sung sướng và vui tươi như thế, rằng thời gian đào huyệt là vào mùa
đông lạnh lẽo và âm u chứ không phải khi tràn đầy ánh sáng và hương thơm. Nó
gần như nghĩ rằng các tấm vải liệm là dành cho những người già nua nhăn nheo,
chứ không bao giờ khoác lên mình cái hình dáng trẻ trung và duyên dáng trong
những nếp nhăn ghê rợn của nó. Chuông nhà thờ nổi lên hồi chuông báo tử phá vỡ
tàn nhẫn những ý nghĩ trẻ thơ của nó. Một hồi chuông nữa! Lại một hồi chuông
nữa! Nó vang lên nhắc nhở việc chôn cất người chết. Một đám người đưa tang khúm
núm bước vào cổng nghĩa địa: họ mang băng trắng vì người chết hãy còn trẻ. Họ
đứng để đầu trần cạnh ngôi mộ. Trong số này có một bà mẹ, bà mẹ mất con trong
đám người than khóc. Nhưng mặt trời vẫn chiếu nắng tưng bừng và chim muông vẫn
líu lo.

Ôlivơ quay
trở về nhà, ngẫm nghĩ về chỗ cô gái trẻ tuổi đã đối xử với nó tử tế như thế
nào; nó mơ ước lại sẽ có những ngày có thể không ngừng chứng minh cho cô thấy
nó biết ơn và gắn bó với cô như thế nào. Nó không có điều gì phải chê trách
mình là đã lơ đễnh hoặc không chú ý, vì nó hết lòng phục vụ cô. Tuy vậy, hằng
trăm trường hợp vặt vãnh vẫn hiện lên trước mắt nó, và nó cảm thấy lẽ ra nó
phải tỏ ra chăm chỉ hơn, hăng hái hơn và nó tiếc là đã không làm thế. Chúng ta
cần phải cẩn thận trong việc đối xử với những người chung quanh, vì một khi cái
chết xảy đến thì nhóm nhỏ những người còn sót lại nghĩ chúng ta đã bỏ lỡ bao
nhiêu việc và bao nhiêu việc chúng ta đã không làm tròn, bao nhiêu việc chúng
ta đã bỏ quên, và còn nhiều việc khác nữa mà lúc này không tài nào sửa chữa
được! Không có điều hối hận nào đau đớn hơn là hối tiếc rằng bây giờ là vô ích;
nếu như chúng ta muốn tránh khỏi bị dằn vặt thì phải nhớ kỹ điều đó kẻo rồi quá
muộn.

Khi Ôlivơ
về nhà, bà Mâyli đang ngồi trong phòng khách nhỏ. Nhìn thấy bà, lòng Ôlivơ tan
nát, vì bà không bao giờ rời khỏi giường cô cháu, và nó run sợ khi nghĩ đến
điều thay đổi có thể khiến cho bà rời khỏi cô Rôdơ. Nó biết rằng cô Rôdơ đã vùi
mình vào một giấc ngủ sâu và cô sẽ thức tỉnh khỏi giấc ngủ ấy, hoặc là để khỏe
mạnh và sống, hoặc là để từ biệt mọi người và chết.

Suốt mấy
giờ liền, hai người ngồi lắng nghe sợ hãi, không dám nói chuyện với nhau. Bữa
ăn không ai động tới đã được dọn đi, hình như chứng tỏ ý nghĩ của họ là ở nơi
khác. Họ ngắm nhìn mặt trời khi nó hạ thấp dần dần và cuối cùng hắt lên mặt đất
và bầu trời những màu sắc rực rỡ, báo trước nó sắp ra đi. Lỗ tai minh mẫn của
họ nghe thấy có tiếng chân bước lại gần. Cả hai bất giác lao đến cửa, và lúc đó
ông Lôxbơcnơ bước vào. Bà Mâyli hỏi:

“Rôdơ thế
nào? Ông nói ngay đi? Tôi không còn chịu nổi nữa rồi, dù gì gì đi nữa thì vẫn
hơn là băn khoăn lo lắng. Lạy Chúa! Ông nói cho biết đi!”.

“Xin bà hãy
bình tĩnh”, bác sĩ nói và đỡ lấy người bà. “Xin bà hãy bình tĩnh”.

“Lạy Chúa,
ông cứ mặc tôi! Đứa con yêu quý của tôi! Nó chết rồi! Nó đang hấp hối!”.

“Không!”.
Bác sĩ nói, giọng tha thiết. “Vì Chúa nhân từ và nhân hậu nên cô ấy sống để ban
phúc cho tất cả chúng ta trong những năm sắp tới!”.

Bà cụ quỳ
xuống và cố chắp hai tay, nhưng nghị lực lúc trước nâng đỡ bà lúc này đã bay
lên trời cùng với lời cảm ơn đầu tiên của bà, và ngả vào đôi tay thân mến đang
dang ra đón bà.

Báo cáo nội dung xấu