Chiếc Lexus và cây Ô Liu - Phần I - Chương 03 - Phần 1

3.
Chiếc Lexus và cây ô liu

Jerusalem, 29/12/1998: Shimon Biton áp chiếc điện
thoại di động vào bờ tây để một người thân ở Pháp có thể nói lời cầu nguyện ở
nơi linh thiêng này.

Nhận thức được toàn cầu hóa là hệ thống thế giới mới
thay thế cho Chiến tranh Lạnh liệu đã đủ cho bạn giải thích được thực trạng thế
giới ngày nay chưa? Chưa hẳn.

Toàn cầu hóa là điều mới mẻ. Nếu thế giới được tạo
ra chỉ từ những vi mạch và các thị trường, thì toàn cầu hóa là phương tiện để
có thể giải thích hầu như bất cứ điều gì.

Nhưng, lạy thánh, thế giới này gồm có vi mạch, thị
trường, đàn ông, đàn bà với những phong tục kỳ lạ, truyền thống, lòng ham muốn
và những ước vọng không đoán được. Vậy thì thực trạng thế giới ngày nay chỉ có
thể được giải thích như sự tương tác giữa những cái mới mẻ, như Internet, với
những thứ cổ xưa, như một cây Ô liu già cỗi trên bờ sông Jordan. Tôi đã nghĩ
đến điều này lần đầu tiên khi đang ăn tối món sushi, đi trên một con tàu điện
chạy một trăm tám mươi dặm dặm một giờ, ở Nhật Bản, hồi tháng 5/1992.

Ở Tokyo trong chuyến công tác lúc đó, tôi
đã thu xếp để thăm nhà máy sản xuất xe hơi Lexus sang trọng nằm bên
ngoài Toyota City, phía nam Tokyo. Đó là một trong những chuyến
đi đáng ghi nhớ nhất của tôi. Vào lúc đó, nhà máy này mỗi ngày sản xuất ba trăm
xe Lexus, sử dụng sáu mươi sáu công nhân và ba trăm mười người máy. Những gì
tôi được xem cho thấy con người ở đó chỉ có nhiệm vụ kiểm tra chất lượng sản
phẩm. Chỉ có vài người nhúng tay vào việc vặn một vài chiếc ốc hoặc hàn một vài
bộ phận. Hầu hết mọi việc còn lại do những người máy vận hành. Có cả loại xe
vận tải tự động, chuyển nguyên vật liệu trong xưởng, có khả năng cảm nhận được
con người, kêu “bíp, bíp” để người ta tránh đường. Tôi thích thú
ngắm người máy lắp ráp lớp cao su trong chỗ ráp kính trước của mỗi chiếc
xe. Cánh tay của người máy quét phủ chính xác lớp cao su nóng vào ô kính. Điều
làm tôi thích thú nhất là khi kết thúc công việc, bao giờ cũng có một giọt cao
su nóng ở cánh tay người máy, thò ra như kem đánh răng ở đầu chiếc tuýp sau khi
bạn quét kem vào bàn chải. Nhưng cánh tay người máy sẽ quay đi cho tới khi
nó gặp một đoạn dây thép nhỏ, khó thấy, gạt sạch chỗ cao su còn thừa đó, không
để lại một chút thừa vương vãi. Tôi cứ ngắm mãi cái công đoạn này, nghĩ đến bao
nhiêu công lao xây dựng kế hoạch, thiết kế và kỹ thuật để sinh ra loại cánh tay
robot làm được những việc như vậy, rồi lại được sợi dây thép nhỏ xíu gột sạch
để cánh tay tiếp tục vươn sang những ô cửa kính tiếp theo. Ấn tượng thật sâu
sắc.

Sau khi thăm nhà máy, tôi quay trở lại Toyota City,
lên tàu siêu tốc hình viên đạn trở về Tokyo. Tên con tàu thật chính xác vì
nó có vóc dáng hình viên đạn và đi trên đó người ta có cảm giác đi trong một
viên đạn đang bay. Trong khi nhấm nháp món sushi cho bữa tối được bán trên tàu,
tôi đọc tờ International Herald Tribune. Một mẩu tin ở đầu góc phải trang ba
làm tôi chú ý. Đó là cuộc họp báo hàng ngày của Bộ Ngoại giao. Người phát ngôn
Bộ Ngoại giao Margaret D. Tutwiler đưa ra một lời giải thích gây tranh cãi về
một nghị quyết Liên Hiệp Quốc năm 1948. Nghị quyết này liên quan tới việc hồi
hương người Palestine vào Israel. Tôi không nhớ hết các chi tiết,
nhưng lời giải thích của người phát ngôn rõ ràng đã kích động cả phía Ả Rập
lẫn Israel và gây điên tiết ở Trung Đông – đó là nội dung chính của
mẩu tin đó.

Thế đấy, tôi đi chuyến tàu nhanh, vận tốc một trăm
tám mươi dặm một giờ, đọc một mẩu tin về khu vực cổ kính nhất thế giới. Trong
tâm trí tôi hiện lên hình ảnh những người Nhật dùng robot để sản xuất xe hơi
Lexus sang trọng, hững con tàu siêu tốc. Trong khi đó, trên đầu trang ba tờ
Herald Tribune thì những người tôi từng chung sống nhiều năm ở Beirut và
Jerusalem, những người tôi từng quen thuộc, vẫn đang bắn giết nhau chỉ vì tranh
chấp xem ai là người chủ của cây Ô liu nào. Điều tôi chợt nghĩ lúc đó là chiếc
Lexus và cây Ô liu tượng trưng khá hay cho thời Hậu Chiến tranh Lạnh: một nửa
thế giới ra khỏi cuộc chiến, cố gắng sản xuất và cải tiến cho chiếc xe Lexus
sang trọng, giành hết sức cho hiện đại hóa, tinh giản và tư nhân hóa nền kinh
tế của họ để tiến bộ trong thời toàn cầu hóa. Còn nửa kia của thế giới – nhiều
khi là phân nửa của một đất nước, hay là phân nửa của một cá nhân – vẫn tiếp
tục tranh giành xem ai là người chủ của một cây Ô liu nào đó.

Ô liu là loại cây quan trọng. Chúng đại diện cho
những gì là gốc rễ của chúng ta, che chở chúng ta và đưa chúng ta vào thế giới
này – dù cho chúng là tài sản của một gia đình, một cộng đồng, một bộ tộc, một
đất nước, một tôn giáo hay một nơi được gọi là quê hương. Cành cây Ô liu cho ta
mái ấm gia đình, niềm vui cá nhân, sự gần gũi trong quan hệ giữa con người, sự
sâu sắc của quan hệ lứa đôi, cũng như tính tự tin và khả năng vươn tới để đối
phó với các quan hệ bên ngoài. Chúng ta tranh đấu triền miên để giành giật
những cây Ô liu vì chúng tạo cho ta cảm giác hãnh diện và hòa hợp – cảm giác
thiết yếu cho con người tồn tại, cũng tựa như cơm ăn áo mặc. Thực vậy, một
trong những lý do khiến cho khái niệm quốc gia sẽ không bao giờ mất đi, ngay cả
khi chúng suy yếu, cũng chính là cây Ô liu – cách diễn đạt tối thượng nguồn gốc
của chúng ta về ngôn ngữ, địa lý và lịch sử. Đứng một mình, bạn không thể nào
là một con người hoàn chỉnh. Một mình, bạn có thể là một người giàu có. Một
mình, bạn có thể là một nhà thông thái. Nhưng bạn không bao giờ là người hoàn
chỉnh nếu đứng một mình. Bạn phải là người có cội nguồn và là phần không tách
khỏi của một vườn Ô liu nào đó.

Chân lý này có lần được Giáo sĩ Harold S. Kushner
giảng giải rất hay khi ông ta bình một đoạn trong tiểu thuyết nổi tiếng Trăm
Năm Cô Đơn của Gabriel Garcia Marquez:

Marquez kể về một ngôi làng nơi người dân ở đó bị
nhiễm một chứng dịch kỳ lạ – bệnh quên lây lan. Căn bệnh này bắt đầu từ những
người già, lan sang cộng đồng trong làng, khiến dân làng quên tên gọi thậm chí
của những đồ vật hàng ngày. Một chàng trai không bị nhiễm bệnh đã cố gắng cứu
vãn tình thế bằng cách gắn nhãn lên mọi đồ vật, “Đây là cái bàn”, “Đây là cửa
sổ”. “Đây là con bò, phải vắt sữa mỗi sáng.” Và trước cổng làng anh ta dựng hai
biển hiệu, một cái ghi “Làng ta mang tên Macondo,” và tấm biển kia - “Chúa hiện
hữu.” Bài học tôi rút ra từ câu chuyện này là: chúng ta có thể và chắc sẽ quên
đi hầu hết những gì học được ở đời – toán học, lịch sử, công thức hóa học, địa
chỉ và số điện thoại ngôi nhà ta ở đầu tiên sau khi lập gia đình – tất cả những
điều đó không phương hại gì. Nhưng nếu chúng ta quên chúng ta là ai và nếu
chúng ta không còn nhớ đến Chúa trời, thì chúng ta đã đánh mất bản ngã sâu sắc
của mình.

Nhưng dẫu cây Ô liu thiết yếu đối với bản ngã của
chúng ta, chúng ta cứ khư khư bám lấy nó thì có thể khiến chúng ta xây dựng bản
sắc, các mối quan hệ và cộng đồng dựa trên việc tận diệt các cộng đồng khác. Và
một khi sự lạm dụng đó trở nên không kiểm soát được, tựa như phái Quốc xã ở
Đức, hay như giáo phái giết người Aum Shinrikyo ở Nhật Bản hay người
Serbia ở Nam Tư, thì diệt chủng xảy ra.

Xung đột giữa người Serb và Hồi giáo, giữa người
Do Thái và người Palestine, giữa người Armenians và Azeris về sở hữu cây Ô liu,
thật khốc liệt, chính vì để trả lời cho câu hỏi ai là người được cắm rễ và sinh
sống trên quê hương, và ai là người không được phép làm điều đó. Logic trong
các cuộc xung đột nói trên là: tôi phải kiểm soát cây Ô liu này, vì nếu để cho
kẻ kia chiếm được nó thì tôi sẽ bị nó thống trị cả về kinh tế lẫn chính trị, và
ngay cả cảm giác quê hương sẽ biến mất. Tôi sẽ không bao giờ có thể cởi giày
ngồi nghỉ. Không gì có thể làm cho người ta điên khùng bằng việc bị người khác
chiếm mất nhà cửa và cướp mất bản sắc. Để giữ gìn bản sắc, con người có thể
chết, chém giết, hát hò, làm thơ hay viết tiểu thuyết. Vì nếu không còn quê
hương và bản sắc, cuộc đời sẽ bị mất gốc và khô cằn. Và sống đời sống của một
cây rong biển thì thà chết còn hơn.

Vậy còn chiếc xe hơi Lexus! Nó nói lên điều gì?
Nó đại diện cho động lực không kém phần quyết định của nhân loại – động lực tồn
tại, cải tiến, làm giàu và hiện đại hóa – hiện hữu rành rành trong hệ thống
toàn cầu hóa ngày nay. Chiếc xe đại diện cho những thị trường công nghệ vi
tính, phục vụ cho việc nâng cao điều kiện sống ngày nay.

Tất nhiên, đối với hàng triệu người thuộc các
nước đang phát triển, sự khấm khá về vật chất chỉ bó gọn trong việc bước tới
giếng nước, sống bằng một đô-la mỗi ngày, với cuộc đời con trâu đi trước cái
cày theo sau, hay, đội trên đầu một bó củi đi bộ năm dặm để bán lấy tiền.
Những con người này vẫn phải cày để sống, chứ đâu có kỹ thuật gì. Nhưng đối với
hàng triệu người thuộc các nước phát triển, mưu cầu đời sống vật chất tốt hơn,
hiện đại hơn ngày càng đồng nghĩa với việc lựa chọn giày Nike, đi siêu thị và
sử dụng các công nghệ mạng điện toán. Điều muốn nói ở đây là người ta đã tìm
đến với các thị trường mới và công nghệ mới bằng những con đường khác nhau,
trong khuôn khổ toàn cầu hóa và hưởng những quyền lợi rất không công bằng, điều
này cũng không thay đổi thực tế rằng thị trường và công nghệ mới là những công
cụ kinh tế quyết định hiện nay và ai ai cũng chịu ảnh hưởng của nó một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp.

Cuộc đấu giữa chiếc xe Lexus và cây Ô liu thực ra
là phiên bản hiện đại của một câu chuyện cổ xưa, có thể nói là một trong những
câu chuyện xưa nhất – Vì sao Cain giết Abel. Kinh thánh Do Thái có viết trong
sách Cựu ước: “Cain nói với em là Abel; Và khi họ ra đồng, Cain bước tới và
giết Abel, người em của mình. Khi Chúa hỏi Cain, “Em Abel của con đâu?” Cain
đáp, “Con không biết. Con có phải là người canh giữ em con đâu?” Và đức Chúa
nói, “Con đã làm điều gì vậy? Tiếng của máu huyết trong người em con trên đất
đang vang vọng đến ta.”

Nếu đọc kỹ đoạn Kinh thánh đó, bạn sẽ thấy Kinh
thánh Do Thái không bao giờ cho chúng ta biết Cain đã nói gì với Abel. Câu
nguyên văn là “Cain nói với em là Abel” - chấm hết. Chúng ta không biết về cuộc
nói chuyện bí mật đó. Điều gì đã xảy ra trong cuộc đối thoại, làm cho Cain nổi
nóng và giết người em của mình? Giáo sư thần học của tôi, Giáo sĩ Tzvi Marz dạy
tôi rằng những giáo sĩ hiền triết giỏi Cựu ước Rabbath, trong những bình giảng
căn bản về Kinh thánh, có đưa ra ba lời giải thích cơ bản về nội dung cuộc đối
thoại. Một là hai anh em đã cãi nhau về một người đàn bà – đó là Eve. Lúc đó,
chỉ có một người đàn bà trên trái đất, đó là mẹ của chúng, và cả hai cãi nhau
xem ai là người được quyền cưới bà ta. Họ cãi nhau về vấn đề giải quyết tình
dục và sinh sản. Lời giải thích thứ hai ấn định rằng Cain và Abel đã chia đôi
thế giới, trong đó Cain sở hữu toàn bộ đất đai – như Kinh thánh nói, “Cain trở
thành người thợ cày trên mảnh đất” – và Abel sở hữu toàn bộ động sản cùng gia
súc – Kinh thánh nói, “Abel trở thành người chăn cừu.” Và theo lời giải thích
này thì Cain nói với Abel hãy mang đàn cừu và biến khỏi đất của anh ta. Điều
này dẫn đến xung đột, mà khi lên đến đỉnh điểm, Cain đâm chết người em của
mình. Hai anh em tranh chấp quyền lợi phát triển kinh tế và đời sống vật chất.
Lời giải thích thứ ba cho rằng hai anh em đã chia đôi đàng hoàng mọi thứ trên
thế giới, trừ một điều nan giải: ngôi đền, biểu trưng của tôn giáo và bản sắc
văn hóa của hai anh em sẽ được xây cất ở đâu? Mỗi người đều muốn kiểm soát ngôi
đền để nó phản ánh bản sắc của mình. Mỗi người đều muốn ngôi đền phải được xây
trong vườn Ô liu của mình. Họ tranh chấp về vấn đề bản sắc và ai sẽ là người
giữ giềng mối gia đình.

Vị Giáo sĩ của tôi kết luận tất cả các khía cạnh
cơ bản của động lực nhân loại sau này đã được bao gồm trong một câu chuyện nhỏ
đó: nhu cầu riêng tư tình dục, nhu cầu phát triển vật chất và nhu cầu hình
thành và duy trì bản sắc và tính cộng đồng. Tôi xin giành phần nói về tình dục
cho một tác giả khác phân tích, trong cuốn sách này, tôi xin nói về hai phần
sau của câu chuyện.

Chính vì thế nên tôi thích nói, sự trao đổi thông
tin cho chúng ta những lăng kính để quan sát thế giới ngày nay, nhưng chỉ những
lăng kính thôi vẫn chưa đủ. Chúng ta cũng cần hiểu chúng ta đang quan sát điều
gì và để làm gì. Chúng ta đang quan sát và tìm xem sự mưu cầu vật chất tốt hơn
và bản sắc cá nhân và cộng đồng – khởi nguồn từ Cựu ước – đang phát triển ra
sao trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay. Đó chính là tấn kịch giữa xe hơi
Lexus và cây Ô liu.

Trong hệ thống Chiến tranh Lạnh, khả năng
gây hại cho cây Ô liu của bạn đến từ một cây Ô liu khác. Nói cách khác,
người hàng xóm của bạn một hôm chạy sang, giận dữ nhổ bật cây Ô liu của bạn và
trồng vào đó một cây Ô liu của anh ta. Hiểm họa kiểu đó ngày nay chưa hẳn đã
qua đi, mặc dù nó không còn xảy ra trên nhiều phần trên hành tinh này. Nhưng
hiểm họa lớn nhất đối với cây Ô liu của bạn lại đến từ chiếc xe hơi Lexus – từ
những thế lực thị trường và công nghệ mang thuộc tính đồng hóa, tiêu chuẩn hóa
và vô danh, tất cả hình thành nên hệ thống kinh tế toàn cầu hóa ngày nay.
Có những điều trong hệ thống này giúp cho chiếc xe Lexus trở nên hùng mạnh, chà
đạp tất cả các hàng cây Ô liu trên con đường nó đi qua – phá vỡ biên giới các
cộng đồng, lăn bánh qua các miền môi trường hoang sơ và xô đẩy dập vùi các
giá trị truyền thống. Những điều đó làm nảy sinh phản kháng từ các hàng cây Ô
liu. Nhưng cũng có những khía cạnh trong hệ thống toàn cầu hóa tăng cường sức
mạnh cho những cộng đồng chính trị nhỏ nhoi và kém cỏi nhất, có thể tận dụng kỹ
thuật mới và thị trường để bảo tồn những cây Ô liu, những giá trị văn hóa và
bản sắc của mình. Đi về nhiều nơi trên thế giới trong những năm gần đây, tôi
quan sát thấy nhiều cuộc vật lộn, kéo co và bập bênh giữa cây Ô liu và chiếc
Lexus.

Cuộc vật lộn giữa chiếc Lexus và cây Ô liu trong
hệ thống toàn cầu hóa được thể hiện trong cuộc trưng cầu dân ý tại Na Uy năm
1994 về vấn đề đất nước này có nên gia nhập Liên hiệp châu Âu hay không.
Sự kiện này hẳn là một bước đi quyết định đối với dân Na Uy. Dù sao, Na Uy nằm
trong châu Âu. Đó là một nước phát triển, giàu có và có buôn bán nội vùng châu
Âu khá lớn. Gia nhập Liên hiệp châu Âu là điều đương nhiên về kinh tế đối với
Na Uy trong tình hình toàn cầu hóa. Nhưng cuộc trưng cầu dân ý đó đã thất bại
vì có nhiều người dân Na Uy cảm thấy gia nhập EU tức là xóa bỏ quá nhiều bản
sắc và lối sống Na Uy, mà nhờ dầu thô trên biển Bắc Na Uy, họ có đủ khả năng
duy trì mà không cần vào EU. Nhiều người dân Na Uy nhìn vào EU và nói với nhau:
“Để tôi hỏi xem có đúng không. Người ta muốn tôi đem bản sắc Na Uy của tôi bỏ
vào trong cái nhà bếp châu Âu nơi quan chức châu Âu sẽ nấu thành món bò kho
châu Âu, bán ra bằng tiền euro tại nghị viện châu Âu tại thủ đô châu Âu… nơi có
các nhà báo châu Âu đưa tin ư? Xin lỗi, không có đâu. Tôi thà là dân quê ở Na
Uy còn hơn. Tôi thà bám giữ lấy cây Ô liu độc đáo của tôi còn hơn, dù về kinh
tế có chịu thua thiệt chút đỉnh.”

Một cuộc kháng cự khác của cây ô liu đến từ Pháp,
vào năm 1999, qua lời kể của phóng viên Anne Swardson, báo Washington Post. Câu
chuyện kể về Philippe Folliot, trưởng làng St. Pierre-de-Trivisy, Tây Nam nước
Pháp, có dân số sáu trăm mười người. Folliot và hội đồng dân biểu của thị trấn
này áp mức thuế một trăm phần tră, lên mọi chai Coca-Cola bán tại thị trấn để
trả đũa việc Hoa Kỳ áp đặt mức thuế đối với loại phô mai Roquefort chỉ sản xuất
ở vùng tây nam nước Pháp gần St. Pierre-de-Trivisy. Trong khi quết phô mai
Roquefort lên bánh mỳ, trưởng làng Folliot nói với phóng viên Swardson, “Phô
mai Roquefort được chế biến từ sữa của một loài cừu đặc biệt, được sản xuất ở
một nơi duy nhất trên đất Pháp và bằng một phương pháp không nơi nào có. Đó thể
hiện sự tương phản đối với toàn cầu hóa. Bạn có thể mua Coca-Cola ở bất cứ nơi
nào trên thế giới và vẫn có hương vị giống nhau. Đó tượng trưng cho việc các
công ty đa quốc gia của Hoa Kỳ muốn đồng hóa tất cả các hương vị trên toàn thế
giới. Đó chính là điều chúng tôi chống lại.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3