Duyên nợ đào hoa - Chương 09 - Phần 1
Chương 9
Quảng Vân Tử, người này phỏng chừng năm mươi chưa tới, nhưng bốn chục lại
thừa. Trong khoảnh
khắc khi mở mắt ra, ta liền ngửi thấy ngay một thứ mùi hôi hám, làm bản tiên
quân xây xẩm mặt mày, thứ mùi ấy như đang nói lão đạo sĩ đã lâu lắm rồi chưa
tắm rửa.
Ta đưa tay sờ soạng, dưới cằm có râu, tương đối dài, chạm vào thấy dính
dính. Nhấc lên nhìn, lại bắt gặp một con bọ đang xông pha ngang dọc giữa những
kẽ hở của túm râu dày đặc, dường như đang kiếm ăn, quả thực ta không “đành
lòng” mở mắt ra nhìn tiếp.
Hoành văn lơ lửng trên không ném cho ta một câu: “Lão đạo sĩ nhếch nhác
hôi hám như thế này, đừng hi vọng ta sẽ ở cạnh ngươi, khi nào tắm rửa sạch sẽ
xong ta lại tới.” Sau đó liền không thấy tăm hơi hắn đâu nữa. Thật đúng là, lão
đạo sĩ này chẳng lẽ nhếch nhác bằng thi thể của Lý Tư Minh sao? Ngươi lúc đứng
cạnh quan tài thì nói hay như hát, bây giờ lại thế này.
Trên người không một chỗ nào không thấy ngứa ngáy, ta thò tay ra sau cổ,
gãi, xát ra một cục ghét thuộc hàng tầm cỡ. Phủi đi, xát lại, lại phủi, cũng
thú vị ra trò.
Đầu là chỗ ngứa dữ nhất, cứ cảm giác như có thứ gì đó đang chạy ngang
chạy dọc. Nghe nói trên đời có một loại côn trùng gọi là bọ chét, chỉ sợ cái
thứ này là nó.
Cửa vẫn đập uỳnh uỳnh, ta gãi đầu, vừa dùng một tay chà ghét vừa ra mở
cửa. Người ngoài cũng là một đạo nhân, gương mặt dẹt dẹt tròn tròn, đầy đặn
phúc hậu, dài giọng nói: “Cuối cùng cũng dậy rồi, còn tưởng ngài thành tiên ở
trong đấy luôn rồi chứ?”
Cũng không hẳn là thành tiên trong ấy, ông ta tắt thở trước, sau đó vị
đại tiên ta mới tới mà.
Ta nói: “Đúng là vậy, dạo chơi qua mấy nghìn ngọn núi tiên, lại đột nhiên
hóa thành giấc mộng, gần như đã quên hết chuyện hồng trần, ngay cả ngươi cũng
không nhớ ra.”
Đạo sĩ nọ nói: “Quảng Vân tiên nhân phải nhớ cho kĩ đấy, tiểu đạo là đạo
nhân Thường Thiện, làm tạm vụ trong Minh Nguyệt quán này, đợi đến lúc thành
tiên rồi, mong ngài đừng quên chiếu cố đến tiểu đạo.” Hắn cười ha hả, chà xát
hai tay vào nhau, “Tối hôm qua ngài có nhờ tiểu đạo đánh thức, sáng hôm nay
không thể ngủ quên được. Tiểu đạo tới gọi ngài sớm một chút, hôm nay không
giống ngày thường, là đại pháp hội của vương phủ, trong đạo quán thiếu người
quá, khó khăn lắm sư phụ mới gật đầu để ngài tới cho đủ số lượng. Tốt xấu gì
ngài cũng phải tắm rửa một lượt, thay bộ quần áo trông cho tử tế mới được.”
Vừa nghe thấy hai chữa “tắm rửa” mắt ta liền sáng rực lên, “Nước ở chỗ
nào?”
Thường Thiện nói: “Kì diệu làm sao, kì diệu làm sao, thường ngày ngài lúc
nào cũng nói sợ làm tổn thương đến nước nên không tắm rửa, không ngờ hôm nay
lại nghĩ thông rồi.” Hắn nói xong liền dẫn ta ra sân sau.
Ở sân sau có một cái lán bằng gỗ, trong lán có giếng, bên giếng có thùng,
còn có cả một cái chậu gỗ lớn.
Ta cài cửa lán lại, múc đầy một chậu nước, thò đầu soi thử, thấy một cái
đầu bù xù. Bản tiên quân đứng bên miệng giếng, múc vài chậu nước, dùng tới hơn
nửa cân bồ kết mới chải tơi được râu, tóc, chà xát cho màu da bình thường xuất
hiện.
Thường Thiện đã chuẩn bị sẵn một bộ đồ mới tinh cho ta thay. Ta cột tóc
gọn gàng, bộ râu cũng dùng lược chải cho ngay ngắn, cả người khoan khoái nhẹ
nhõm, lúc bấy giờ Hoành Văn mới lắc lắc lư lư bay tới. Ta nhân lúc bốn phía
không người, phất phất tấm áo bào đạo sĩ mới tinh mấy lượt, hỏi: “Trông có tí
phong thái nào của Lữ Tiên không?”
Hoành Văn nói: “Ta mà chiều ngươi nói một câu ‘Giống’, chắc Lữ Động Tân
sẽ tới đập nát cung Vi Viên của ta ra mất.”
Ta cười khan một tiếng: “Không phải đã tử tế hơn nhiều so với buổi sáng
rồi à?”
Hoành Văn im lặng trong giây lát, sau đó thành khẩn nói: “Trông ngươi
giống người rồi.”
Ta cùng với đám đạo sĩ trong Minh Nguyệt quán, tới Đông Quận Vương phủ.
Khi bước qua ngưỡng cửa vương phủ, bản tiên quân thấy thật bùi ngùi.
Vừa chỉ mới mấy ngày trước thôi, ta vẫn còn là người một nhà với những
con người sống sau cánh cửa này, tuy xét về độ hào sảng, lỗi lạc Lý Tư Minh còn
chưa sánh được với bản tiên quân nhưng cũng coi như một công tử thiếu niên khôi
ngô tuấn tú. Giờ đây lại đang mục xác trong quan tài, đổi cho bản tiên quân một
đạo nhân già, da mặt nhăn nheo như quả hồng khô. Mệnh Cách với Ngọc Đế định để
cho ta dùng cái mặt này mà đi cám dỗ Thiên Xu á?
Pháp hội ngũ thất được tổ chức rất phô trương, tổng cộng có tất cả sáu
mươi sáu đạo sĩ của tám đạo quán đồng thanh đọc kinh. Ta đứng rung chuông giữa
đám người. Ta trông thấy Đông Quận Vương, cũng trông thấy Lý Tư Nguyên và Lý Tư
Hiền. Bản tiên quân biết tình cảm của bọn họ đối với Lý Tư Minh rất sâu sắc,
nhưng tình cảm có sâu sắc đến mức nào, nước mắt có nhiều bao nhiêu, khóc tới
ngũ thất, cũng khóc cạn hết cả rồi. Vậy nên khi đứng trước linh vị đốt tiền
giấy, tất cả mọi người đều gào khan mà thôi.
Tuy nhiên, Đông Quận Vương có nói một câu khiến bản tiên quân vô cùng
phấn chấn.
Đông Quận Vương đứng đối diện với linh vị, bỏ một xấp tiền giấy vào trong
chậu than, nói rằng: “Minh nhi, con yên tâm đi, cha nhất định sẽ móc tim của gã
Đan Thành Lăng đó mang về để tế con!”
Lúc lãnh tiền thưởng, Thường Thiện thì thầm bên tai ta: “Nghe những lời
vương gia nói hôm nay, Đông Quận của chúng ta nhất định phải đối đầu với Nam
Quận rồi, than ôi, nghiệp chướng, đúng là nghiệp chướng mà. Nói một cách khó
nghe thì tiểu công tử chết vừa là số vừa coi như tự chuốc lấy. Nhưng một khi có
chiến tranh, thì đám dân thường chúng ta cũng phải chịu khổ theo.” Đoạn hắn ép
giọng nói xuống thấp hơn, “Ngài có biết vì sao tiểu công tử lại bị chết không?”
Trên đời này làm gì có kẻ nào biết rõ hơn bản tiên quân.
Thường Thiện nói: “Nghe nói vị tiểu công tử này vốn là kẻ đần độn, không
biết vì sao mà đến một ngày đột nhiên tỉnh ra. Hắn vừa tỉnh ra, liền hỏng bét,
lập tức nuôi ngay một tiểu công tử lai lịch bất minh ở trong nhà, nghe nói là
chiều chuộng ghê lắm. Nhưng chỉ được một hai ngày, vương gia lại mời một vị
công tử về để làm mạc trọng, nghe nói vị mạc trọng tiên sinh đó có dáng vẻ như
thần tiên vậy, Tam công tử vừa gặp liền ném ngay vị tiểu công tử trong viện đi,
trái tim đặt cả vào vị mạc trọng tiên sinh kia. Vị công tử trong điện liền nổi
cơn ghen tức, cấu kết với người tình ngày trước của hắn đâm tiểu công tử một
đao, sau đó liền trèo tường trốn mất. Ngài nói xem có thú vị hay không?”
Râu mép của ta giật giật một lát, sau đó mới đáp rằng: “Thú vị.”
Thường Thiện lẳng lặng tiếp lời: “Nhưng thú vị hơn là tình nhân cũ của vị
tiểu công tử kia không phải là ai khác, lại chính là Đại tướng quân Đan Thành
Lăng của Nam Quận. Sau khi tiểu công tử chết, mạc trọng tiên sinh cũng chẳng
thấy tăm hơi đâu. Cả chuyện này huyên náo ầm ĩ cứ như diễn kịch vậy, có điều vở
kịch này diễn quá tệ, người này chết, bách tính lại gặp tai ương.”
Ta ủ rũ, không nói lời nào. Ngọc Đế, Mệnh Cách, đều là nghiệp chướng các
người tạo ra cả đấy.
Ta ôm hai xâu tiền, theo đoàn người ra khỏi phủ, xa xa trông thấy Tấn
Ninh, Tấn Thù đang đeo khăn tang, thân hình bé nhỏ chui rúc len lỏi giữa đám
người. Tấn Ninh đang ngóng lên trên bàn thờ, ánh mắt mong đợi, hình như đang
định “xuống tay” với đĩa bánh cúng trên đó.
Ta đã từng hỏi thăm Mệnh Cách về số mệnh của hai đứa bé này. Năm năm sau,
Đông Quận Vương sẽ qua đời vì trúng gió, ba năm sau nữa đến phiên Lý Tư Nguyên
chết bất đắc kì tử, một năm sau Lý Tư Hiền cũng bỏ mạng trên chiến trường. Tấn
Ninh trở thành tướng soái khi tuổi đương độ thiếu niên, thắng trận liên tiếp.
Nhưng người nắm trong tay đại cục của Đông Quận lại là Tấn Thù. Đứa bé nhút
nhát suốt ngày chạy theo đuôi Tấn Ninh, trong tương lai lại trở thành vị quân
chủ khai quốc của cả vùng vương triều. Quả là thế sự vô thường.
Ta đứng trước nhà quàn[1] một lúc lâu, đôi mắt đảo liên
hồi của Tấn Ninh liếc về phía ta. Nó bước lại gần ta, thân người lúc la lúc
lắc: “Này, đạo sĩ râu dài, lão đang nhìn gì thế?” Tấn Thù vẫn như trước bám
dính sau lưng Tấn Ninh.
[1]: Nhà quàn: Nơi đặt quan tài trước khi chôn cất, hoặc tổ chức tang sự.
Tấn Ninh tương lai sẽ là một kẻ phong lưu, bản tiên quân nhìn nó, tưởng
tượng cảnh nó sau khi trưởng thành, sẽ chôn người giữa mười mấy thê thiếp xinh
đẹp như hoa, trái ôm phải ấp. Chậc chậc, thằng bé này quả là khiến người ta lo
lắng mà.
Ta sục sạo trong tay áo, móc ra hai mặt dây chuyền hình hồ lô làm bằng
ngọc bé xíu, khom người xuống: “Bần đạo trông hai vị thiếu gia phúc khí đầy
mặt, đôi bùa ngọc này xin tặng cho hai vị, coi như kết một mối lương duyên với
đạo gia.”
Tấn Ninh thò tay định nhận, nhưng Tấn Thù lại kéo ống tay nó lại, ngửa
mặt mà nói với ta rằng: “Đạo nhân ngươi lai lịch bất minh, tặng đồ cho chúng
ta, có phải muốn thứ gì đó hay không?”
Ta cười ha hả: “Bần đạo nếu có thể tới tham gia pháp hội, lai lịch đương
nhiên phải rõ ràng, Đông Quận Vương phủ là chỗ người bình thường có thể bước
vào sao? Hai miếng ngọc này chỉ để kết mối lương duyên với đạo gia, hoàn toàn
không có mục đích gì. Nếu tiểu công tử thật sự muốn thưởng cho bần đạo thứ gì
đó.” Ta vuốt chòm râu, đưa mắt nhìn về phía bàn tay của Tấn Ninh, “Vậy hãy tặng
ống trúc kia cho bần đạo, tiểu công tử thấy sao?”
Tấn Ninh ngó ống trúc trong tay, có vài phần lưu luyến không nỡ cho đi,
lại đưa mắt nhìn hồ lô ngọc trong tay ta, ngập ngừng do dự. Tấn Thù chớp mắt,
nhìnTấn Ninh, sau đó quay sang nói với ta: “Vậy lão đừng đòi ống trúc nữa, ta
thưởng cho lão cái này, đổi lại lão đưa hồ lô cho chúng ta, được không?”
Bàn tay nhỏ xíu của nó mò mẫm trong đai lưng, bàn tay nắm chặt mở ra
trước mặt ta. Bản tiên quân thấy miếng ngọc bội kia mà mở cờ trong bụng, đúng
là hôm nay vớ được món hời, không cần bỏ thêm công sức, đồ đã được người dâng
tới tận tay.
Ta nói, “Đa tạ tiểu công tử.” Sau đó lấy miếng đưa cho Tấn Thù. Tấn Ninh
vội la lên: “Ê, đã nói là hai cái cơ mà, sao giờ chỉ có một cái?”
Ta lắc đầu nói: “Lễ vật của vị công tử này thưởng cho bần đạo chỉ đổi
được một cái. Một đổi một, không phải là chuyện rất công bằng sao?”
Tấn Ninh nói: “Mới nãy rõ ràng lão nói đồ này tặng không cơ mà!”
Ta lại vân vê chòm râu: “Ban nãy bần đạo nói tặng không, nhưng giờ lại
đổi ý, không muốn tặng không nữa.”
Tấn Ninh chun mũi lại, trừng mắt nhìn ta, Tấn Thù liền nhét miếng bùa
ngọc đeo vào tay nó: “Được rồi, đừng lằng nhằng với lão làm gì, dù sao ta cũng
không thích nó, cho ngươi đấy.”
Tấn Ninh lắc đầu quầy quậy, chìa ống trúc ra trước mặt ta: “Cho lão, đưa
cái kia đây.”
Bản tiên quân cười híp cả mắt: “Tiên tôn vô lượng, cảm ơn tiểu công tử.”
Đưa tay nhận ống trúc, sau đó trao miếng còn lại cho Tấn Ninh.
Tấn Thù nói: “Ngươi thích cái ống trúc đó, sao lại đưa cho lão làm gì, ta
không cần bùa ngọc này.”
Tấn Ninh lại nhét miếng bùa vào tay nó, “Thứ đổi bằng đồ của ngươi để ta
giữ, thứ đổi bằng đồ của ta để ngươi giữ. Dù sao hai thứ đưa cho lão đều là vật
lấy trộm từ phòng tiểu thúc thúc, nếu bị cha với thúc thúc trông thấy thì có
khi còn bị nện thêm mấy chổi ấy chứ.”
Bấy giờ Tấn Thù mới cầm lấy hồ lô, nhét vào trong tay áo. Việc cũng đã
xong, bản tiên quân liền mang theo hai thứ kia lui ra.
Trở về đạo quán, ta đưa cho Thường Thiện một xâu tiền, cảm ơn hắn đã giúp
đỡ ta. Thường Thiện cười toe toét, “Quảng Vân đạo huynh khách khí quá đi mất,
ngày khác có tới Thượng Xuyên này, nhất đinh phải qua đây tìm tiểu đạo đấy
nhé.”
Buổi tối, ta lôi ống trúc và ngọc bội ra ngắm nghía, rất là đắc ý, Hoành
Văn đứng trước giường nói: “Hai thứ này đã được ngươi trổ tài dụ dỗ trẻ con mà
lừa được về, an tâm rồi chứ gì. Trông thấy vật, chẳng biết có nhớ người không
đây.”
Bản tiên quân dụ dỗ, lừa gạt trẻ con bao giờ, hai miếng ngọc hồ lô kia
đều là bảo bối được ta dùng phép tiên, thêm thần chú bình an vào cả đấy. Có thể
bảo vệ cho hai đứa nó tránh được tà ma, sống thuận lợi an vui cả đời.
Ta nhìn Hoành Văn, cười xòa: “Ngươi có muốn lên giường nằm chút không?”
Hoành Văn nói: “Thôi khỏi, cái giường này của ngươi chẳng sạch hơn tấm
vải bọc xác Lý Tư Minh đâu.”
Ngày hôm sau, ta rời Minh Nguyệt quán, ra khỏi thành Thượng Xuyên.
Quảng Văn Tử thân phàm xác tục, liên lụy bản tiên quân không cưỡi nổi
mây, chỉ đành cuốc bộ đi đường, muốn đến được bến Chu Gia cũng phải đi bốn năm
ngày đường.
Sau khi đã cách thành Thượng Xuyên rất xa rồi, Hoành Văn liền hiện thân,
cũng cùng bản tiên quân đi bộ. Hắn hiện thân, vẫn biến ra bộ dạng của Triệu tiên
sinh, không chịu tạm biến thành tiểu đạo sĩ cho hợp hoàn cảnh. Ta với Hoành Văn
đi chung, người qua đường ai thấy cũng lé cả mắt, cảm thấy hai ta đi cùng nhau
là chuyện gì đó rất… kì lạ.
Chạng vạng năm ngày sau, ta đã tới trước cửa quán trọ bên bờ sông.
Trời đã hoàng hôn, mây đen đè nặng, tối mịt tối mù. Sông dài sóng lớn,
từng đợt xô bờ, tiếng lá cờ chào đón khách của quán trọ phần phật trong gió
vang lên, nghe thật đìu hiu cô quạnh.
Bản tiên quân bước vào quán trọ, tay phải chống một cây gậy trúc, trên lá
cờ đen viết mấy chữ “Bói đâu trúng đó”, tay trái thì phe phẩy cây phất trần
thưa thớt mấy cọng lông.
Tiểu nhị lúc đầu vốn chỉ dùng đuôi mắt liếc bản tiên quân một cái, hờ
hững lạnh lùng định quay đầu, lại trông thấy Hoành Văn vào cửa, lập tức mặt mày
như mới nở mấy đóa hoa.
Đợi đến khi biết được bản tiên quân và Hoành Văn là bạn đồng hành, ta
cũng móc bạc ra, tiểu nhị với chủ quán liền cười đến độ mắt mũi chẳng thấy đâu,
ân cần sắp xếp cho bọn ta hai gian phòng thượng hạng, lại rất chu đáo chuẩn bị
cho bọn ta vị trí ngồi đẹp nhất trong sảnh dưới lầu, rượu và thức ăn được bưng
lên thuộc hàng thượng hạng.
Sau khi đưa thức ăn lên, một gã tiểu nhị niềm nở tới rót rượu, sau đó bắt
chuyện nói: “Đạo trưởng đây tiên phong đạo cốt, vừa nhìn đã biết là một cao
nhân.”
Ta khiêm nhường đáp lại: “Đâu có đâu có, bần đạo tu hành nông cạn, chỉ
biết chút đạo thuật sơ sài như bói quẻ xem tướng, xem hung cát, đoán tương lai
thôi.”
Ánh mắt tiểu nhị chứa chan khâm phục.
Thế là ta tiếp tục nói: “Xem phong thủy, quan sát thiên tượng, kỳ môn độn
giáp… Bần đạo cũng biết chút chút.”
Vẻ khâm phục trong mắt tiểu nhị lại càng dâng cao.
Thế là ta lại tiếp tục nói: “Thật ra, nếu như bị thứ gì đó tà mị nhập vào
người, yêu ma tác oai tác quái, thậm chí cả những chứng bệnh lạ không chữa nổi,
bần đạo cũng có thể xem thử xem sao.”
Tiểu nhị mừng vui khôn xiết, tức khắc đặt vò rượu xuống, vái bản tiên
quân một vái: “Đạo trưởng, ngài đúng là do ông Trời phái đến mà! Tiểu điếm hiện
giờ đang có một bệnh nhân trong tình thế hiểm nghèo, không biết có thể làm
phiền đạo trưởng mở lòng từ bi mà xem bệnh cho người ấy hay không!”
Chủ quán đích thân dẫn đường, đưa ta và Hoành Văn lên trên lầu, vài tiểu
nhị rào trước đón sau, chạy tới chạy lui xun xoe, nịnh nọt.
Theo lời chủ quán, mấy ngày trước có một vị đại gia dẫn theo một đoàn
người tới quán trọ này, vốn định sang sông, nhưng trên sông sóng lớn cuồn cuộn,
không sang nổi. Vì vậy họ liền ở lại quán trọ, một vị công tử trong đoàn người
lại còn sinh bệnh. Vài ngày sau, vị đại gia kia hình như có chuyện gì khẩn cấp,
mới dẫn một nửa số người đi, để lại một nửa số người chăm sóc cho công tử bị
bệnh. Kết quả, vị công tử kia ốm dầm ốm dề mãi không chịu khỏi, những người còn
lại hình như cũng có việc, từng người từng người một nối đuôi nhau đi mất, cuối
cùng chỉ còn một mình người như ma ốm ở lại quán trọ này.
“Lúc người cuối cùng rời đi, đã để lại một số bạc rất lớn, nói vài ngày
sau bọn họ sẽ trở về, dặn chúng tiểu nhân nhất định phải chăm sóc cho vị công
tử kia thật tốt, còn rút kiếm chém phăng một cái góc bàn mà đe dọa, nói vạn
nhất có gì xảy ra với vị công tử kia, thì số phận bọn tiểu nhân sẽ như cái bàn
ấy.” Chủ quán kể lại bằng giọng rất đỗi thê lương.
“Nhưng vị công tử nọ cứ càng ngày càng yếu, bọn tiểu nhân đã mời đủ mặt
đại phu, ai cũng nói không chữa nổi. Hiện giờ vị này đang nằm trên giường mà ho
ra máu, xem ra chỉ thoi thóp chút hơi tàn. Cầu xin đạo trưởng nghĩ cách gì đó
giữ lại tính mạng cho người này. Nếu công tử đó mà chết ở đây, thì lúc đám
người kia quay lại chúng tiểu nhân biết ăn nói làm sao.”
Chủ quán mở cửa ra, chỉ cho ta xem con ma bệnh đang thoi thóp nằm trên
giường bên trong.
Đèn dầu tối mù tối mịt, nhưng chưa dủ để ta trông thấy kẻ-có-vẻ-sắp-chết
đang nằm trên chiếu.
Ta vừa nhìn rõ mặt người kia, lập tức quay sang nói với chủ quán rằng:
“Yên tâm đi, hắn không chết nổi đâu.”
Chủ quán túm chặt lấy ta, cứ như đang bấu víu vào đống lương thực cứu
mạng vậy, hai tay run bần bật nói: “Đạo trưởng đúng là thần tiên sống, vừa nhìn
một cái đã biết hết càn khôn, có câu ‘hắn không chết nổi đâu’ này của đạo trưởng,
cái đầu của tiểu nhân cũng coi như có thể giữ yên trên cổ.”
Ta bước từng bước vào trong phòng, lại gần bên giường.
Người nằm trên giường đột nhiên mở mắt ra, dưới ánh đèn, đôi mắt đen như
mực lại sáng đến dị thường, dõi về phía bản tiên quân, mở miệng, nói một câu
cực kì rành rọt.
“Lý Tư Minh, ngươi tới đây để đòi ta đền mạng sao?”
Ta giật nảy cả người, lùi về phía sau một bước dài. Ngọc Đế ơi, chẳng lẽ
hồn Thiên Xu tự nhiên thông suốt, vừa nhìn đã nhận ra bản tiên quân?
Chủ quán nói: “Đạo trưởng xin đừng kinh ngạc, vị công tử này bệnh nặng
đến độ đầu óc hồ đồ, cả ngày gặp ai cũng nói câu đó. Ngày trước, lúc vị đại ca
kia còn ở đây, nghe thấy công tử nói câu ấy liền bỏ đi, vừa ra khỏi cửa là bắt
đầu đập bàn đập ghế, bàn của tiểu điếm không biết đã bị vị đại gia đó đập bể
bao nhiêu cái rồi.”
Tiếng thở dài của chủ quán nghe mới tang thương làm sao, bản tiên quân
điều hòa hơi thở, thì ra là sốt đến độ đầu óc mê man, nói như vậy, ngày đó
Thiên Xu đâm bản tiên quân một nhát, trong lòng cũng có chút áy náy.
Ta bước vào, ngồi xuống bên mép giường, đôi mắt sáng trong như tuyết của
Mộ Nhược Ngôn vẫn cứ nhìn ta chằm chằm. Bản tiên quân nhìn y, nở một nụ cười
hòa nhã, sau đó nâng một cánh tay y lên, làm bộ đang bắt mạch.
Vài lạng thịt khó khăn lắm mới đắp được lên người Thiên Xu hồi còn ở
trong Đông Quận Vương phủ đều đã đi tong hết cả. Ngày đó Mộ Nhược Ngôn là thân
da bọc xương, đến giờ tầng da bọc xương cổ tay kia lại càng mỏng đến độ gần như
không có. Bản tiên quân đặt hờ hai ngón tay lên trên xương ống tay của Mộ Nhược
Ngôn, nhắm hờ hai mắt, cố ra vẻ cao thâm.
Hoành Văn đứng cạnh chiếc bàn có thắp một ngọn đền dầu nho nhỏ, ho khan
một tiếng, tiếng ho vừa khéo vang lên cùng lời cảm thán của chủ quán. Ông ta
tấm tắc nói: “Đạo trưởng đúng là cao nhân. Ngay cả bắt mạch cũng khác hẳn người
thường.”
Ta khoan thai đáp: “Đây là phương pháp bắt mạch gia truyền của bần đạo,
thật ra nói về am hiểu thì bần đạo tinh thông bắt mạch qua sợi chỉ hơn.”
Bản tiên quân thu tay về, Mộ Nhược Ngôn nằm ở trên giường ho liên tiếp
bốn năm tiếng, cũng phun ra hai ba giọt máu.
Thật chua xót làm sao, khi còn ở Đông Quận Vương phủ, bản tiên quân hầu
hạ y nhiều đến độ thành quen, lập tức duỗi ống tay áo ra lau cho y. Mộ Nhược
Ngôn nhắm nghiền hai mắt, thều thào đứng quãng: “Lý Tư Minh, ngươi xem xem, lúc
này ta… sẽ biến thành con quỷ thế nào đây?”
Ta nói: “Thí chủ, đạo hiệu của bần tăng là Quảng Văn Tử. Thí chủ yên tâm
đi, có bần đạo ở đây, nhất định sẽ giúp thí chủ bệnh đi xuân đến.”
Những ngón tay gầy guộc của Mộ Nhược Ngôn túm chặt lấy tay áo của bản
tiên quân: “Khụ khụ, ta hại chết ngươi, ngươi lại muốn ta sống để chịu tội,
cũng được, đây là báo ứng… báo ứng ta nên chịu….”
Ồ, xem ra vẫn nghe được lời ta nói.
Hoành Văn há miệng ngáp dài, “Đạo trưởng cứ từ từ chẩn mạch chữa bệnh đi,
tại hạ phải về ngủ trước đây.”, nói xong liền quay người ra khỏi cửa.
Ta nhích người ra xa một chút, kéo ống tay áo khỏi tay của Thiên Xu, đứng
dậy. Chủ quán vội vội vàng vàng hỏi: “Đạo trưởng, tình hình thế nào rồi?”
Ta vân vê chòm râu, lắc đầu: “Không được khả quan cho lắm, vị công tử này
vốn có bệnh cũ trong người, nay lại thêm tâm bệnh nữa, bần đạo trở về phòng
tĩnh tâm suy nghĩ trước đã, sáng sớm mai mới có thể viết ra đơn thuốc. Không
biết trong quý điếm có tổ yến hay không, tạm thời cứ hầm một bát cho công tử ăn
cái đã.”
Chủ quán nói: “A, lúc vị đại gia kia tới cũng có mang tới vài cân tổ yến,
hiện giờ vẫn còn.” Mấy gã tiểu nhị rất lanh lợi, lập tức đi hầm tổ yến. Chủ
quán thì cung kính đưa bản tiên quân tới tận phòng, sai người khiêng một thùng
gỗ mới tinh đổ đầy nước tắm vào trong, còn tặng thêm vài đĩa hoa quả khô để ta
lót dạ bữa khuya.