Hồ Quý Ly - Chương 12 - Phần 5

4

Sau khi đến lỵ sở ở
Bình Than kiểm tra công việc và nhắc nhở các quan chức địa phương những việc cấp
thời phải làm để bảo vệ miền biển và cương giới vùng đông bắc, Hồ Nguyên Trừng
và Thanh Mai cưỡi voi trắng đến Côn Sơn.

Có nhiều thuyết
phong thủy nói về địa lý Đại Việt. Một trong những thuyết ấy nói nước Việt có bảy
mươi hai phúc địa. Những dãy núi miền Đông Bắc có đủ hình long, ly, quy, phượng.
Núi Yên Tử có con suối hình rồng gọi là Long Khê là một phúc địa. Núi Phượng
Hoàng nơi Chu Văn An ở ẩn cũng là danh sơn. Núi hình rùa có nhiều, chưa hiểu
nơi nào là đất vượng. Còn núi hình Kỳ Lân phúc địa chính là núi Côn Sơn.

Ngày xưa, núi Côn
Sơn bị mờ chìm trong hàng vạn quả núi khác, ít ai biết tới. Người đầu tiên phát
hiện ra linh khí của Côn Sơn là thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Dưới chân núi Côn
Soạn, xưa kia, có một ngôi chùa làng nhỏ bé gọi Chùa Hun. Đệ nhị Tổ Trúc Lâm,
Pháp Loa thiền sư, qua đây thấy đất lành. cảnh đẹp, bèn cho mở rộng ngôi chùa,
đặt tên là Thiên tư phúc tự. Khi Pháp Loa viên tịch, đệ tam tổ Trúc Lâm, thiền
sư Huyền Quang về trụ trì và mất ở dây. Thời các cụ còn sống, chùa Hun là tổ
đình của phái Trúc Lâm, các thiền khách và Phật tử lui tới tấp nập. Đó là thời
kỳ tỏa sáng của Côn Sơn. Nhà Trần dần suy vong, đạo Phật cũng suy thoái. Khách
thập phương không còn được đông đúc như xưa. Cả vùng đất Côn Sơn lại trở nên
heo hút. Đại tư đồ Trần Nguyên Đán đến vãn cảnh chùa. Ông là người thứ hai tái
phát hiện ra cái linh khí của Côn Sơn. Ông ưa chí tiêu dao của Trang Tử. lại vốn
uyên thâm Lão học. Biết thời của nhà Trần đã hết, biết mình dù tài giỏi đến đâu
cũng không dựng lại được cơ đồ, biết đất nước lại phải trải qua kiếp nạn mới lột
xác nổi, nên ông xin về ở ẩn. Tư đồ tâu xin vua khu đất hoang ở Côn Sơn, sắp đặt
một ngôi nhà để lui về nghỉ ngơi. Hai vua lúc đó là thượng hoàng Nghệ Tông và
vua Duệ Tông biết không thể ép được cái chí của quan tư đồ nên đã thể theo ý
nguyện của ông. Vua sai thợ thuyền, binh lính và dân chúng phát hoang dọn cỏ:
phạt bụi san đồi, xây đắp không nghỉ trong mấy tháng ròng. Căn nhà khang trang
được dựng nên cầu Thấu Ngọc được bắc ngang dòng suối trong vắt chảy giữa hai quả
núi. Lại xếp đá, trồng cây, trồng hoa xen kẽ, tạo nên một cảnh thanh u kỳ thú ở
chốn trần gian.

Côn Sơn có nhiều
hoa mọc hoang. Mùa xuân những cây mai nở trắng khắp vùng. Mùa hè, mùa thu, hoa
mẫu đơn đỏ, hoa sim, mua tím, hoa cúc dại vàng, hoa bướm trắng, chen lẫn đá lẫn
màu xanh của lá.

Khi làm xong toàn bộ
khu ẩn cư, hai vua Trần từ Thăng Long về thăm. Quan tư đồ dẫn khách quý đến soi
bóng trên cầu Thấu Ngọc, ngồi uống trà trên Thạch Bàn, dưới bóng những cây tùng
reo vi vu, rồi lên đỉnh Vãn Thúy trên núi để vừa uống rượu vừa ngắm cảnh núi rừng
như gấm biếc của toàn vùng. Hai vua tấm tắc ngợi khen quan tư đồ có con mắt
tinh đời, biết chọn cảnh, lại khéo xây dựng, tô điểm, để tạo thành một chốn thần
tiên ở nơi trần thế. Vua Duệ Tông sai lấy giấy bút tự tay viết ba chữ “Thanh Hư
Động” chữ lớn để đặt tên cho toàn bộ khu vực.

Thái học sinh Nguyễn
Phi Khanh, con rể quan tư đồ, người nức tiếng hay chữ, được quan tư đồ rất yêu
quý, vì ngoài tình cha con, còn có tình tri kỉ văn thơ, đã làm một bài ký
“Thanh Hư động” để ca ngợi nơi ở thanh cao của quan tư đồ. Có đoạn viết:

“Sau khi quan tư đồ
từ giã triều đình lui về nghỉ ở đây có khi rong ngựa chơi vùng Gia Lâm, có khi
chèo thuyền dạo miền Bình Than. Hoặc có lúc... đầu bịt chiếc khăn lững thững
bên đèo. Khói ngàn, ráng đỏ, như gấm uốn, như lụa giăng. Cỏ rừng. hoa suối, hoặc
mầu biếc đung đưa, hoặc mầu hồng rực rỡ. Cảnh mát dịu trong lành, thơm đến muốn
nuốt, xinh đến muốn ăn. Phàm những cái gọi là hình trạng trong mát, tiếng vi
vu, xa xa và vắng không, sâu thẳm mà lặng lẽ, hợp với sự mong mỏi của tai mắt
và tinh thần, đều hầu như hòa với bầu trời mênh mông mà vui chơi ra ngoài cõi vật...”

Nguyên Trừng rất
thích bài Thanh Hư Động ký của Phi Khanh. Trừng cứ nức nở khen câu “Cảnh mát dịu
trong lành, thơm đến muốn nuốt xinh đến muốn ăn.” Kể về mối quan hệ họ hàng, Trần
Nguyên Đán và Hồ Quy Ly là sui gia với nhau. Vả lại Trừng và Khanh còn mến tài
học của nhau, cho nên hai người là đôi bạn khá thân thiết. Hôm cưới Trần Mộng Dữ,
anh vợ Phi Khanh, lấy con gái bà Huy Ninh, Nguyên trừng đã đến Côn Sơn, Trừng
và Khanh đưa nhau lên Vãn Thúy đình trên đỉnh núi ngắm cảnh uống rượu. Phi
Khanh nói:

- Đám cưới này đã tỏ
lộ cái ý của nhạc phụ tôi rồi đó. Tôi hiểu...

Huynh hiểu thế nào?

- Những bậc cao
nhân đi ở ẩn vẫn lo cho đời sau. - Nhạc phụ tôi vốn thích cái chí của Lão
Trang.

- Người ẩn sĩ khi
lui về vẫn lo cho đời. Các vị biết cuộc biến thiên có lúc dài lâu. Nôn nóng chẳng
được. Mình chẳng xoay chuyển nổi, thì lo đào luyện, truyền đạo cho đời sau, chuẩn
bị cho đời sau, để thế hệ con cháu có đủ sức gánh vác...

Phi Khanh cười:

- Huynh quả đã hiểu
cái thâm ý của đại tư đồ. Nhạc phụ tôi bây giờ tháng ngày chỉ lo chơi bời với
các cháu và dạy dỗ các cháu. Cháu Trãi nhà tôi may mắn được cụ dạy dỗ... Người
nhồi nhét bắt cháu đọc sách. Nhạc phụ tôi yêu nó nhất, lắm khi quá khen nó làm
tôi lo lắng... Cháu Trãi thể tạng yếu ớt. Lắm lúc tôi muốn nói với người...
song lại không dám, vì nghĩ thương cho người... Có lẽ...

- Có lẽ sao?

- Có lẽ, - Phi
Khanh trầm giọng xuống. - nhạc phụ tôi thấy năm tháng của mình còn ít quá... lại
thấy thằng cháu thông minh, nên cụ hối hả... như con tằm cố nhả tơ cho hết... Để
truyền lại những điều tâm đắc cho một đứa trẻ mới hơn mười tuổi.

Cuộc nói chuyện đó
xảy ra thấm thoắt đã hơn mười năm rồi. Lúc này, Nguyễn Trãi, con trai của Phi
Khanh đã chừng hai mươi tuổi. Ở kinh đô, người ta đồn rằng Trãi hiện nay là một
nho sinh tài ba đang kỳ nở rộ. Được tin gia nhân báo đức ông Nguyên Trừng đến
thăm Thanh Hư Động. Nguyễn Trãi tề chỉnh xuống chân núi đón khách quý. Nguyên
Trừng xuống voi mừng rỡ:

- Tiểu huynh đệ đã
chững chạc thế này rồi ư?

Ông ngắm nghía
chàng trai dong dỏng cao có đôi mắt sáng và đôi môi tựa thoa son trên khuôn mặt
trái xoan thanh tú. Gương mặt như có ánh sáng, nó hơi gầy làm nổi lên đôi gò
má, tạo ra những nét cương nghị, làm dịu bớt sự non tơ của đôi mắt sáng đa
tình, làm chín chắn thêm sự thông minh mà toàn bộ con người chàng toát ra khi
ta mới gặp. Nguyên Trừng đưa mắt nhìn quanh. Trãi hiểu ngay Trừng muốn tìm gì:

- Bẩm đức ông, cha
tiểu sinh mấy hôm nay đến thăm bác Đoàn Xuân Lôi.

Nguyên Trừng gật đầu.
Ông hiểu. Tháng trước, thái sư có gửi thư cho Phi Khanh, muốn nhờ ông thuyết phục
những người đỗ đạt vùng Hải Đông. Tập hợp nhân tài ở Tây Đô. Càng nhiều người
tài giỏi càng tốt. Đó là mối ưu tư của thái sư Quý Ly. Nhớ lại chuyện Đoàn Xuân
Lôi viết thiên phi Minh Đạo để phản đối Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng lại chợt cười
thầm. Hôm ấy, Nguyên trừng đến thăm cha, bắt gặp thái sư cứ đi đi lại lại mặt
phừng phừng. Hầu như chưa bao giờ Trừng bắt gặp cha mình tức giận. Đôi mày ông
già cau lại, mắt ông long lanh. Ông đưa cho Trừng đọc bài Phi Minh Đạo của Xuân
Lôi.

- Anh xem. Thằng
cha này có xược không? Có ngu không? Thế mà cũng đỗ thái học sinh đấy? Rặt một
lũ tầm chương trích cú. Rặt một lũ đạo chính văn chương. Chỉ chăm chăm bước sao
cho khỏi chệch bước các vị tiên hiền. Kẻ sĩ đấy ư?... Một lũ nô bộc sĩ? Đầu óc
họ ở đâu? Không dám cả gan ra khỏi lối mòn. Không dám cả gan tạo lập... Cứ nhắc
đến các vị tiên hiền là đầu óc tê liệt, mặt mày rúm ró... Cứ như thể mất mật
bay hồn... Hỏi như thế làm sao có thể làm rạng rỡ văn hiến cho non sông. Đức Khổng
Phu tử cũng phải có lúc sai chứ... Nếu không sai thì cũng có lúc, có nơi chẳng
hợp thời...

Cơn giận của Thái
sư Quý Ly hình như đến cực điểm. Lần đầu tiên, Trừng thấy cha mình văng tục:

- Chu Hy là cái đếch
gì? Trình Di cũng là cái đếch gì! Thuần một lũ ăn cắp văn mà thôi...

Cả triều đình cứ tưởng
thế nào Đoàn Xuân Lôi cũng phải chết. Động đến cái vẩy ngược của con rồng còn
mong gì sống. Cuốn Minh Đạo là tâm huyết của Quý Ly. Tất cả suy tư phục hưng đất
nước của ông nằm ở đó. Cái vẩy rồng ngược của ông ai dám chạm... Thế nhưng Đoàn
Xuân Lôi lại chỉ bị xử rất nhẹ, chỉ bị điều đi làm chức học quan ở trấn Hải
Đông...

***

Nguyễn Trãi thu xếp
chỗ ở để Nguyên Trừng và Thanh Mai nghỉ một ngày tại Thanh Hư Động. Hôm sau
Trãi dẫn hai người đi vãn cảnh. Côn Sơn mùa xuân bừng lên đầy hoa. Khu rừng mai
như có ức triệu con bướm trắng nhỏ đậu lốm đốm trên nền lá xanh cốm. Khu rừng
trúc với muôn ngàn búp măng chĩa lên trời. Những ngọn tre non chưa mọc lá như
những chiếc giáo tua tủa, hoặc như những chiếc cần câu cong cong làm chỗ đậu
cho lũ chim rừng, khi thấy bóng người chúng bay túa cả lên bầu trời, biến thành
một đám mây ríu rít, đám mây chim thoắt biến thành một giải lụa màu xanh, bay
qua thung lũng, rồi biến mất ở khu rừng trên sườn núi Ngũ Nhạc.

Tiếng suối rót
rách, rừng thông vi vu, ngàn tre xào xạc, nghe khúc nhạc rừng êm ả ấy, Thanh
Mai như thấy thơ trẻ lại; cô gái luôn cười giòn; tiếng cười vang trong trẻo lạ
thường khiến lũ khướu rừng hót hay đến thế cũng phải ngừng hót, không dám tranh
hơn. Nguyễn Trãi nhìn gương mặt sung sướng và hào hứng của Nguyên Trừng, anh hỏi:

- Chắc phu nhân phải
có giọng hát thật hay?

Nguyên Trừng nắm
tay Trãi cười ngất:

- Quả là công tử có
con mắt tinh đời. Nghe tiếng cười đã đoán biết ngay giọng hát.

Trãi ngẫm nghĩ:

- Nhìn đức ông và
phu nhân, tiểu sinh lại chợt nhớ tới một đôi vợ chồng đi làm thuê ở chùa Hun.
Năm ngoái, họ đến chùa, xin làm chân thợ gặt. Hai người ăn mặc sạch sẽ, rất
khôi ngô tuấn tú, không có vẻ người lam lũ. Nhà chùa mới đầu còn ngần ngừ,
nhưng vì đang mùa gặt rộ nên nhận họ vào làm. Một hôm, tôi đến chùa Hun thấy họ,
nhận ngay ra đó là một đôi tài tử ẩn đời, thích ngao du sơn thủy hơn là bị trói
buộc. Tôi mời họ về nhà, rồi chuyện trò, thấy người con trai tỏ ra có tầm mắt rất
xa rộng. Hết mùa gặt họ lại ra đi. Tôi hỏi tên tuổi. Họ chỉ cười chẳng nói. Và
đến lúc ấy, tôi mới biết người con trai là một họa sĩ tuyệt vời. Để cảm ơn tấm
lòng tri ngộ, anh vẽ tặng tôi cảnh một ngôi nhà tranh trên núi, ngôi nhà mà ông
tôi mùa hè vẫn lên ở. Ngôi nhà nằm bên rừng trúc sau lưng lác đác mấy gốc thông
già suốt ngày reo hát, những lúc trời trong đứng ở đó nhìn thấy cả dòng sông Lục
Đầu như dải lụa ngoằn ngoèo trôi về phía xa xa, nhưng về mùa đông luôn luôn có
những đàm mây bồng bềnh bay qua. Người họa sĩ gọi bức tranh đó là Hang Mây (Vân
Oa).

Cả ba người quay trở
về nhà khách. Bức tranh Vân Oa khổ lớn treo dài trên tường. Phía trên đỉnh là
ngôi nhà cỏ nằm trong rừng trúc. Khoảng giữa. lấp ló ngôi chùa cổ đìu hiu dưới
những hàng tùng. Phía dưới cùng uốn khúc một dòng sông. Đẹp nhất và vẽ khó nhất
là những đám mây. Những đám mây xôm xốp giăng giăng khắp đỉnh núi và sườn núi
khiến cho ngôi nhà mờ mờ tỏ tỏ. Chúng phân cách ngôi lều cỏ với chân núi, với
trần thế. Tức là ngay cả ngôi chùa cũng nằm trong vùng trần thế... Nguyên Trừng
nhìn bức tranh nhận ngay ra nét vẽ của Phạm Sinh, nhưng ông không nói gì, chỉ
thở dài và mãi lúc sau mới bâng quơ:

- Chả trách gọi là
hang mây!

Phía góc trống bên
phải có bài thơ “Vân Oa” của Nguyễn Trãi:

Nửa rèm hoa chiếu, sách giường đầy

Khóm trúc ngoài sân, reo gió lay

Ở chốn Vân Oa, ngày rỗi trọn

Song trưa một gối,
giấc ngon say.

Nguyên Trừng cứ tấm tắc ngâm mãi hai câu thơ đầu của
Trãi:

Bán liêm hoa ảnh
mãn sàng thư

Đình ngoại tiêu
tiêu thủy trúc cư...

Đêm hôm ấy ba người ngồi uống trà, Nguyên Trừng bảo:

- Nguyễn Trãi công tử có tài nhìn người nông phu đã
nhận ngay ra tay thần họa. Sáng nay nghe tiếng cười lại bảo nàng cỏ giọng hát
hay. Công tử lại cho chúng ta đọc thơ Vân Oa tuyệt tác. Vậy tôi đề nghị thế
này: đêm nay công từ phải làm một bài thơ, nàng Thanh Mai phải nhân thơ mà hát;
còn ta cũng nhân hát mà đàn...

Mọi người vui vẻ cười. Nguyễn Trãi có vẻ tần ngần:

- Thanh Hư Động gắn bó với vãn sinh từ thủa ấu thơ.
Biết bao nhiêu cảnh vật, hình bóng, kỷ niệm. Nhưng tôi mới chỉ làm bài thơ Vân
Oa. Nhất định tôi sẽ làm một bài thơ Côn Sơn... Có lẽ là đến lúc tuổi già
chăng... còn bây giờ...

Hồ Nguyên Trừng gật đầu:

- Cũng phải! Cái gì thật thiêng liêng ta hãy dành
cho tuổi già. Còn nàng; một tài tử du khách, lẽ nào lại không thể có một khúc
ngẫu hứng nhẹ nhàng để đánh dấu cuộc kỳ ngộ của chúng ta.

Thanh Mai nói:

- Được đọc thơ Hang mây của công tử. Lại được hưởng
bao nhiêu cảnh kỳ thú. Tôi đánh bạo làm một khúc ca dân dã:

“Vân Oa” chót
vót non cao

Bông bềnh mây trắng
bay vào Bồng lai

Suối khuya róc
rách bên tai

Dưới khe nước chảy
ngỡ ai đàn cầm...

Nguyên Trừng sảng khoái cầm ngay chiếc đàn nguyệt dạo
một khúc lưu không. Thanh Mai lấy chiếc ống trúc đựng bút đặt nằm ngang, rồi gõ
bằng hai chiếc đũa. Nàng nói:

- Điệu hát này tôi học từ thủa bé. Xưa kia mẹ tôi vẫn
gõ vào thanh tre xua cá mà hát. Còn cha tôi thì ngẫu hứng trên chiếc đàn. Đã
lâu rồi, cũng có chỗ quên. Điệu hát này cốt ở thanh thản ngân nga. Và lòng không
vướng bụi...

Nói rồi nàng bắt đầu gõ. Tiếng lách cách lúc khoan,
lúc nhặt, lúc ngập ngừng, lúc lãng đãng phiêu du. Nguyên Trừng nhắm mắt lại
nghe tiếng gõ, để dần dần hồn và xác nhập vào tiếng phách. Và những ngón tay
cũng nhân đó mà ngân nga, dặt dìu tùy hứng. Giọng Thanh Mai chậm rãi vút lên
trong vắt hát khúc Côn Sơn:

Chót vót non
cao...

Bồng bềnh chót
vót non cao.

Ta theo mây trắng
bay vào Bồng Lai.

Chợt nghe róc
rách bên tai

Suối khuya nước
chảy ngỡ ai đàn cầm...

Bàu đá xám rêu
phong phô biếc

Ngả lưng nằm ngỡ
chiếc nệm êm

... Thông mọc
như nêm...

Rừng xanh thông
mọc như nêm

Như muôn chiếc lọng
che trên mái đầu

Cầu Thấu Ngọc,
tiêu sầu vạn cổ.

Động Thanh Hư,
thoát lụy trần gian

Non tiên, chép một chữ nhàn...

Thanh Mai hát theo một đường. Tiếng đàn Nguyên Trừng
lại lãng đãng đi theo một nẻo. Mới đầu cứ tưởng tiếng hát và tiếng đàn đã lạc lối
nhau. Thậm chí có lúc cứ tưởng như chúng đối nghịch lẫn nhau, xa cách hẳn nhau.
Nhưng điều kỳ lạ, tiếng đàn tiếng hát càng đi xa càng chẳng nỡ; và người nghe
càng nghe thật kĩ, mới thấy sự ngỡ ngàng xa cách ấy chỉ là bề ngoài, thực chất
chúng càng khác nhau lại càng xoắn xuýt lấy nhau, tựa như mối tơ vò không sao
tách khỏi. Cảm giác như chúng văng ra khỏi nhau từng khúc rồi lại nhập lại với
nhau từng khúc, để rồi cuối cùng là một sự đại hòa hợp. Tiếng hát, tiếng phách,
tiếng đàn đã hoàn toàn chập lại với nhau, tròn đầy, hài hòa...

Nguyễn Trãi tán thưởng:

- Nghe nói đây là khúc hát chầu trong cung được nhặt
ra từ chốn quê dân dã, tôi đã được nghe qua vài lần. Nhưng chỉ lần này mới hiểu
được cái thần của nó. âm thanh rất động, nhưng cái thể lại là tĩnh lặng. Tưởng
như chẳng nhịp nhàng, mỗi người mỗi ngả, hóa ra lại chung một nẻo đường. Không
vội vã, không xáo xác, không âu lo, ngân nga, thoát tục... Xin lỗi phu nhân: “Non
tiên chép một chữ nhàn”, hay là “Non tiên chép một chữ thiền”?

Thanh Mai cúi mình cảm tạ. Gia nhân bưng rượu lên.
Ba người ngồi uống; bỗng nhiên chẳng ai nói một câu. Trong chiếu rượu của các bậc
tài tử thường có chuyện như vậy. Người ta hay nói nhiều, để rồi đột nhiên tất cả
ngồi lạnh ngắt, như thể mỗi người theo đuổi một dòng tâm tư riêng rẽ. Nguyễn
Trãi là người đầu tiên phá sự im lặng.

- “Non tiên, chép một
chữ nhàn!” Trước kia tôi không hiểu, tại sao tôi rất muốn làm một khúc Côn Sơn,
mà hình như trong lòng lại có điều gì ngăn cản lại. Bây giờ thì tôi hiểu, chỉ
những người từng trải như phu nhân mới nên làm khúc tụng ca về những chuyện sơn
khê. Tôi còn trẻ quá. Chưa thể đem lời ước hẹn với núi rừng được...

Câu chuyện dần dần
đi vào chỗ tâm đắc. Nó đã chuyển sang hướng khác, cuối cùng đi vào những vấn đề
thiết yếu của non sông. Nguyên Trừng hỏi:

- Công tử thấy đất
nước ta đang... vận hội ra sao?

- Một thời biến động!

- Công tử có tiếc rằng
mình đã sinh lỡ thời... không được gặp thời đại trị hay không?

- Lỡ thời ư? Thực
ra, tôi rất thích dù mình được sinh ra ở thời nào. Đại trị ư? Thì nhân lúc trời
sáng, sao ta chẳng như con gà vươn cổ mà cất cao tiếng gáy. Chẳng sảng khoái lắm
sao? Đại loạn ư? Sao ta chẳng nhân lúc sấm ran chớp giật, để biến thành cơn mưa
rào giăng giăng trên cánh đồng, rồi biến thành dòng nước, hòa cùng muôn vật chảy,
để rồi, sau cơn giông bão trời sẽ tạnh, nước lại tì tũm cùng muôn loài vươn lên
xanh tươi. Vẫn chẳng sảng khoái lắm sao.

Nguyên Trừng cười
to:

- Đại loạn ư? Tại
sao lại sợ? Nếu không có nó hỏi đất trời làm cách nào thay da đổi thịt.

Lúc này, Trãi đã
ngà ngà. Chàng công tử mắt sáng lên, nói chuyện với người mà như nói với mình:

- Chỉ cốt cái tâm
ta sáng... Cái trí ta sáng... lúc này đây lột xác là chính hay lòng dân là
chính?... Dân theo, nhưng không lột xác... cả bầu trời vẫn là tăm tối. Lột xác,
nhưng dân thờ ơ... Cái họa lật đắm thuyền của bao đời vẫn sờ sờ trước mắt.
Nhưng biết làm sao được! Người ta vẫn phải đi vào mưa to gió lớn mới có thể tìm
được lối ra... Chỉ miễn là cái tâm ta sáng... - Nguyễn Trãi lại lặp lại câu nói
của mình. Còn Nguyên Trừng, ông cười to sảng khoái:

- Cái chí của công
tử rất hợp với Trừng này. - Rồi Trừng nâng chén rượu lên mời Trãi. - Tiểu huynh
đệ ạ, tôi đến đây mục đích có hai việc. Thứ nhất: Muốn mời bác Phi Khanh cùng
các bậc danh sĩ xứ Đông đến Tây Đô dự lễ, mừng khánh thành kinh đô mới. Thứ
hai: Tôi xin báo với công tử, đầu năm tới, sẽ mở khoa thi lớn tại Tây Đô để kén
chọn hiền tài. Tôi đã đến trấn sở, báo cho các quan trấn phủ đều biết; nay mai
sẽ thông báo việc này đến tận các làng xã. Đã lâu nay, vì tình thế chưa ổn, nên
chẳng có khoa thi, vì vậy ngăn trở, không có cơ hội cho người tài xuất đầu lộ
diện, giúp vua trị nước...

Cuộc rượu kéo dài
mãi cho đến tận khuya...

***

Tuy say, nhưng sáng
hôm sau, Nguyên Trừng và Thanh Mai vẫn lên bành voi khởi hành từ sớm rời khỏi
Côn Sơn. Cuộc gặp gỡ với Nguyễn Trãi làm ông rất vui. Trước mắt ông là điểm cuối
của cuộc hành trình, họ nhằm thẳng hướng núi thiêng Yên Tử.

Báo cáo nội dung xấu