Sói thảo nguyên - Chương 01
Lời người dịch
“Tôi sinh ra vào gần cuối Kỷ
nguyên mới, không lâu trước khi thời Trung Cổ rục rịch quay trở lại.”
Năm 1925, Hermann Hesse
(1877-1962) đã mở đầu bản Sơ yếu lý lịch (Kurzgefasster
Lebenslauf) khá dài của mình như thế.
Giới sử học phương Tây định
nghĩa Kỷ nguyên mới (Neuzeit) bắt đầu từ năm 1500 cho tới ngày nay và vẫn đang
tiếp tục, còn thời Trung Cổ ở Châu Âu đã chấm dứt vào năm 1499.
Nghĩa là, dưới cái nhìn của
Hesse, ông chào đời vào buổi giao thời có lẽ kỳ lạ nhất trong lịch sử loài
người, vì theo ông, thời Trung Cổ đen tối - đã cáo chung ở Châu Âu từ mấy thế
kỷ trước, nhường chỗ cho những thời kỳ Phục Hưng và Khai Sáng - đang như một
bóng ma rục rịch quay trở lại lục địa này.
Và Hesse quan niệm “Đời
người chỉ thật sự thống khổ, thật sự biến thành địa ngục, khi hai thời đại (…)
chồng chéo lên nhau (…). Có những thời kỳ mà cả một thế hệ lạc loài vào giữa
hay thời đại, giữa hai phong cách sống như thế, khiến nó mất đi mọi khả năng
thấy mình đương nhiên được quyền hiện hữu, mất đi mọi tập tục, cảm tưởng được
bảo bọc và mất đi tính hồn nhiên vô tư”. (Sói Thảo Nguyên).
Những ý tưởng cô đơn, yếm
thế này đã đến với Hesse từ rất sớm. Năm 1892 - chưa đầy mười lăm
tuổi - cậu học trò Hesse nhạy cảm đã toan tự tử bằng súng lục, vì
muốn “lìa đời như ráng đỏ hoàng hôn” khiến cha mẹ cậu phải đưa cậu vào bệnh
viện tâm thần.
Trước khi bắt đầu sáng
tác Sói Thảo Nguyênvào mùa đông 1924, Hesse từng phải hứng chịu
nhiều bất hạnh: Năm 1916 cha ông chết, bà vợ đầu tiên mắc chứng tâm thần phân
liệt phải nằm bệnh viện, con trái út lâm bệnh nặng… khiến ông cũng bị khủng
hoảng, phải điều trị về tâm lý một thời gian khá dài, năm 1919 ly thân, rồi ly
dị vào năm 1923. Cuộc hôn nhân với bà vợ thứ hai một năm sau đó dường như cũng
không hạnh phúc ngay từ đầu, nên đã nhanh chóng tan vỡ vào năm 1927.
Sói Thảo Nguyên, sáng tác trong
hoàn cảnh ấy, là câu chuyện của một kẻ cảm thấy mình nửa người, nửa sói, phải
hứng chịu nhiều khốn khổ cho đến khi phát hiện ra hai phương cách hầu thoát
khỏi tình trạng như thế: Hoặc tự sát, hoặc tìm đến với sự hài hước.
Qua đôi nét nói trên (và một
số chi tiết được chú thích trong bản dịch này) về cuộc đời cùng cảnh ngộ của
tác giả, bạn đọc dễ dàng nhận ra nhân vật Harry Haller trong Sói Thảo
Nguyên là hình tượng tiểu thuyết hóa của chính Hermann Hesse (cùng hai
chữ H.H.) và những dằn vặt của con người luống tuổi cô đơn, bệnh hoạn này không
phải là huyễn tưởng.
Các quán rượu, khách sạn, vũ
hội trong truyện đều có thật - được tác giả giữ nguyên tên hoăc thay đổi - là
những nơi Hesse thường lui tới trong thời gian sáng tác Sói Thảo
Nguyên ở Basel và Zürich (Thụy Sĩ).
Yếu tố “tự truyện”
trong Sói Thảo Nguyên đậm nét hơn hẳn trong những tác phẩm trước và
sau đó của ông như Unterm Rad (Bị hủy hoại), Demian, Narziss und
Goldmund (Narziss và Goldmund).
Năm 1946, Hermann Hesse được
trao tặng giải Nobel Văn chương cho sự nghiệp văn học của ông; Viện Hàn lâm
Thụy Điển đánh giá Sói Thảo Nguyên là “đặc sắc” trong số những
tác phẩm chịu ảnh hưởng phân tâm học của Freud vào mấy thập niên đầu thế kỷ 20.
Tuy nhiên, khi Sói
Thảo Nguyên xuất bản lần đầu vào năm 1927, giới phê bình văn học ở Đức
tỏ ra lạnh nhạt, thậm chí thù địch! Có lẽ vì nhiều người trong giới ấy chưa thể
quên Hesse đã kịch liệt lên án Thế Chiến I mà “Tổ quốc của họ” - và của ông -
phải chịu trách nhiệm, đã đăng báo một tiểu luận kêu gọi giới trí thức Đức
thoát ra khỏi chủ nghĩa dân tộc và yêu nước hẹp hòi; đặc biệt họ cố tình bưng
tai, bịt mắt trước lời cảnh báo của tác giả về một cuộc chiến tranh mới, được
đất nước Đức của họ và của ông chuẩn bị ráo riết lúc bấy giờ - mười hai năm
trước khi Thế chiến II bùng nổ.
Thậm chí Sói Thảo
Nguyên còn bị quy chụp là nguyên nhân đã có độc giả tự sát - bệnh cạnh
những “hiểu nhầm” khác, nên năm 1942 ông phải viết “Lời Bạt” minh định “quyển
sách tuy kể về những đau khổ và cùng quẫn, nhưng hoàn toàn không phải là sách
của một kẻ tuyệt vọng, mà của một người tin tưởng”.
Song, qua Sói Thảo
Nguyên, Hesse không chỉ nói lên nỗi cô đơn của con người trong xã hội
cùng sự giằng xé giữa “nhân tính” và “thú tính” của cá nhân, mà còn kêu gọi hòa
bình, và thật đáng ngạc nhiên: Ngay từ những năm 1920 ông cũng đã đồng thời
cảnh báo, dù chỉ thoáng qua, về xung đột giữa con người và kỹ thuật, về sự hủy
hoại Trái Đất bởi những tập đoàn tài chính lòng tham vô hạn - những nguy cơ
luôn rất thời sự trên thế giới!
Thơ văn của Hermann Hesse đã
được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Độc giả Nhật Bản đặc biệt ái mộ ông. Ở Hoa
Kỳ, Hesse rất được ưa chuộng trong những thập niên đất nước này ồ ạt can thiệp
quân sự vào Việt Nam; độc giả Mỹ coi ông là đại biểu cho lập trường phản chiến
và không khuất phục trước uy quyền.
“Mong mỗi người [khi
đọc Sói Thảo Nguyên] rút ra được từ đó những điều tương ứng và lợi
lạc với mình” - như Hesse viết trong “Lời Bạt”.
Lê Chu Cầu.
Lời Bạt viết năm 1942 cho Sói Thảo Nguyên[1]
[1] Nachwort zum Steppenwolf
(Volker Michels, Materialien zu Hermann Hesses “Der Steppenwolf” - Tư liệu về
Sói Thảo Nguyên của Hermann Hesse - Suhrkamp Verlag, Frankfurt a.M., 1972) -
Mọi chú thích trong sách đều là của người dịch – LCC.
Người ta có thể hiểu và hiểu
nhầm thơ văn theo nhiều cách. Trong phần lớn các trường hợp, tác giả không phải
là cơ quan có chức năng quyết định bạn đọc hiểu được tới đâu trong tác phẩm,
rồi sau đó bắt đầu sự hiểu nhầm. Nhiều tác giả được bạn đọc thấy tác phẩm của
họ rành mạch hơn là chính họ. Dẫu sao, trong hoàn cảnh nào đó những hiểu nhầm
vẫn có thể bổ ích.
Vả chăng, theo tôi thấy thì
dường như Sói Thảo Nguyên bị hiểu nhầm ghê gớm hơn bất kỳ tác
phẩm nào khác trong các trước tác của tôi và thường là ở chính những bạn đọc
tán thành, thậm chí nồng nhiệt hoan nghênh, chứ không phải ở những kẻ bài bác,
những kẻ đã nhận định về quyển sách này theo kiểu khiến tôi phải kinh dị.
Nguyên nhân thường đưa đến những trường hợp ấy phần vì, nhưng chỉ phần nào
thôi, quyển sách này do một người năm mươi tuổi viết ra và nói về những vấn đề
của chính lứa tuổi đó, nhưng nó lại rất thường rơi vào tay các bạn đọc quá trẻ.
Nhưng tôi cũng thường thấy
trong số các bạn đọc cùng lứa tuổi với tôi những người tuy có ấn tượng về quyển
sách này, song lạ lùng sao họ chỉ thấu hiểu được một nửa nội dung của nó. Những
bạn đọc ấy, dường như là vậy, đã tìm lại được chính mình trong Sói Thảo Nguyên,
đã đồng nhất với hắn, đã cùng đau khổ những nỗi đau và cùng mơ những giấc mơ
của hắn mà quên bẵng rằng quyển sách này cũng biết và nói về chuyện khác hơn là
về Harry Haller cùng những khó khăn của hắn, rằng có một thế giới thứ hai cao
cả hơn, bất diệt, vượt lên trên Sói Thảo Nguyên cùng cuộc đời đầy rẫy vấn đề
của hắn, rằng tập Luận thuyết cùng hết thảy những đoạn bàn về
tinh thần, nghệ thuật và “những người bất tử” trong quyển sách đã đối nghịch
với cái thế giới đau khổ của Sói Thảo Nguyên bằng một thế giới của niềm tin
tích cực, vui tươi, vượt khỏi phạm vi cá nhân và phi thời gian, rằng quyển sách
tuy kể về những đau khổ và cùng quẫn nhưng hoàn toàn không phải là sách của một
kẻ tuyệt vọng, mà của một người tin tưởng.
Tất nhiên tôi không thể và
không muốn quy định độc giả phải hiểu cuốn tiểu thuyết của tôi theo cách nào.
Mong mỗi người rút ra được từ nó những điều tương ứng và lợi lạc với mình!
Nhưng tôi sẽ thích thú nếu nhiều người trong số đó nhận ra được rằng câu chuyện
của Sói Thảo Nguyên tuy diễn tả một thứ bệnh và sự khủng hoảng, song không phải
thứ bệnh đưa tới cái chết, không phải một sự diệt vong, mà ngược lại: Một sự
chữa lành.
Hermann Hesse.

