Sói thảo nguyên - Chương 16
“Họ không có gì khác à?”
“Có chứ, sự vĩnh cửu.”
“Em muốn nói tới danh tiếng
và vinh quang nơi hậu thế?”
“Không đâu, Sói Thảo Nguyên
thân mến ơi, không phải vinh quang - nó có giá trị gì chăng? Bộ anh tưởng mọi
con người thật sự chân chính và hoàn hảo đều nổi tiếng và được hậu thế biết đến
ư?”
“Không, dĩ nhiên không.”
“Nghĩa là không phải vinh
quang rồi nhé. Vinh quang chỉ có cho sự giáo dục thôi, nó là chuyện của các
thầy giáo. Đó không phải là vinh quang, không đâu! Nhưng đấy là cái em gọi là
sự vĩnh cửu. Những người sùng tín gọi đó là nước Chúa. Em tự nghĩ: hết thảy bọn
người chúng ta, những kẻ đòi hỏi cao hơn, mang khát vọng, thừa một kích cỡ, có
lẽ không thể nào sống được nếu ngoài thứ không khí của thế giới này ra chẳng có
một thứ không khí nào khác để chúng ta thở, nếu ngoài thời gian không có thêm
cả sự vĩnh hằng, và đó chính là vương quốc của sự đích thực. Nó bao gồm âm nhạc
của Mozart và những bài thơ của các thi hào anh quý mến, nó gồm cả các vị
thánh, những bậc đã làm nên phép lạ, đã hứng chịu sự tuẫn đạo và thành một tấm
gương vĩ đại cho con người. Nhưng trong sự vĩnh cửu có cả hình ảnh của mỗi hành
động chân chính, sức mạng của mỗi tình cảm thật sự, dù không ai biết, trông
thấy, ghi chép lại và gìn giữ cho hậu thế. Trong sự vĩnh cửu không có hậu thế,
mà chỉ có cùng thế hệ thôi.”
“Em có lý,” tôi nói.
“Những người sùng tín,” nàng
trầm ngâm nói tiếp, “biết rõ những điều này hơn cả. Vì thế họ đã dựng nên các
vị thánh và cái mà họ gọi là ‘Cộng đồng các thánh’. Các thánh chính là những
con người đích thực, là các em của Đấng Cứu Thế. Suốt đời chúng ta tìm đến với
họ, bằng mỗi việc thiện, mỗi ý tưởng dũng cảm, mỗi tình thương yêu. ‘Cộng đồng
các thánh’ - xưa kia được các họa sĩ minh họa trong một bầu trời dát vàng, rực
rỡ, tươi đẹp và đầy yên bình - không là gì khác hơn cái em vừa mới gọi là ‘sự
vĩnh cửu’. Đó là một vương quốc ở phía bên kia của thời gian và cái biểu hiện.
Chúng ta thuộc về đó; nơi đó là quê hương của chúng ta, con tim chúng ta vươn
tới đó, Sói Thảo Nguyên ơi, vì thế nên chúng ta khao khát chết. Ở đó anh sẽ lại
tìm thấy Goethe, Novalis và Mozart của anh, còn em sẽ tìm thấy lại những vị
thánh của em, thánh Christopher, thánh Philipp xứ Neri và tất cả các vị khác.
Trước khi thành thánh, nhiều vị đã phạm tội ghê gớm lắm; cả tội lỗi cũng có thể
là một con đường dẫn tới sự thánh thiện, cả tội lỗi và thói hư, tật xấu. Hẳn
anh sẽ cười, nhưng em thường tự nghĩ có thể cả anh bạn Pablo của em cũng là một
vị thánh đang ẩn mặt. Chao ôi, Harry ơi, chúng ta phải mò mẫm qua bao nhơ bẩn
và phi lý đến thế để về nhà! Và chúng ta không có ai dẫn đường, chỉ lối; hướng
đạo duy nhất của chúng ta là nỗi nhớ nhà.”
Những lời cuối cùng này nàng
lại nói thật khẽ; giờ đây căn phòng tĩnh lặng với vẻ yên bình, mặt trời đang
lặn hắt ánh sáng lóng lánh lên những chữ dát vàng trên gáy nhiều quyển trong tủ
sách của tôi. Tôi ôm mái đầu Hermine trong đôi tay, hôn lên trán nàng, áp má
nàng vào má tôi, như thể anh em; chúng tôi đứng một lúc lâu như thế. Tôi ước ao
cứ được mãi thế này và hôm nay không phải đi ra ngoài nữa. Song tối nay, đêm
cuối cùng trước buổi đại vũ hội, Maria đã hứa dành cho tôi.
Nhưng trên đường tới gặp
Maria tôi lại không nghĩ tới nàng, mà chỉ nghĩ đến những điều Hermine vừa nói.
Tất cả những điều này, theo tôi, có lẽ không phải là ý tưởng của chính nàng, mà
của tôi; nàng, người có khả năng nhìn thấu những điều vô hình, đã đọc được
chúng, đã hấp thụ, rồi thuật lại với tôi, khiến chúng trở nên có hình dáng,
thành mới lạ đối với tôi. Tôi đặc biệt biết ơn nàng đã nói ra ý tưởng về sự
vĩnh cửu vào lúc ấy. Tôi cần nó, thiếu nó tôi không thể sống và cũng không thể
chết. Hôm nay tôi được người bạn gái, đồng thời là cô giáo dạy tôi khiêu vũ,
tặng lại cái thế giới bên kia thiêng liêng, phi thời gian, thế giới của giá trị
vĩnh cửu, của thực thể thần thánh. Tôi phải nghĩ đến giấc mơ đã gặp Goethe, đến
hình ảnh bậc trí giả già nua đã cười cợt quá mức, đã đùa bỡn tôi kiểu những
người bất tử. Mãi lúc này tôi mới hiểu tiếng cười của Goethe, tiếng cười của
những người bất tử. Nó không có đối tượng, tiếng cười này ấy mà, nó chỉ là ánh
sáng, là sự sáng ngời; nó là cái còn sót lại khi một con người đích thực đã
trải qua những đau khổ, tật xấu, lầm lạc, đam mê và ngộ nhận của con người, đi
vào cõi vĩnh hằng, vào khoảng không của vũ trụ. Và “sự vĩnh cửu” không là gì
khác hơn sự giải thoát của thời gian; có thể gọi đó là sự trở về với sự hồn
nhiên của nó, sự chuyển hóa trở lại của nó vào không gian.
Tôi tìm Maria nơi chúng tôi
thường hay ăn tối với nhau, nhưng nàng chưa đến. Tôi ngồi chờ nàng ở cái bàn đã
được bày biện sẵn sàng trong cái quán im ắng ở ngoại ô, đầu óc vẫn còn vương
vấn buổi trò chuyện với Hermine. Tôi thấy tất cả những ý tưởng xuất hiện đột
ngột giữa nàng và tôi đều rất quen thuộc, đều đã biết từ lâu, được cấu thành từ
thần thoại và thế giới hình ảnh của tôi, hoàn toàn của riêng tôi! Những con
người bất tử đang sống trong khoảng không phi thời gian, trầm mặc, trở thành
hình ảnh, quanh họ là sự vĩnh cửu kết tinh tựa ê te và sự trong sáng lạnh lẽo,
rực rỡ như trăng sao của cõi siêu trần ấy - từ đâu mà tất cả những điều đó lại
quen thuộc với tôi đến thế? Tôi ngẫm nghĩ và chợt nhớ mấy đoạn trong bài Cassations[51]
của Mozart, bài Das wohltemperierte Klavier[52] của
Bach; tôi thấy dường như trong loại nhạc này đâu đâu cũng rạng ngời thứ ánh
sáng mát mẻ lấp lánh sao trời và sự dao động của vĩnh cửu trong vắt tựa ê te.
Phải, chính thế, chính âm nhạc này là thứ gì đấy tựa như thời gian đông cứng
lại thành không gian và một niềm hân hoan siêu phàm, tiếng cười thần thánh bất
tuyệt, nhẹ vỗ đôi cách miên viễn bên trên nó. Chà, cụ Goethe già trong giấc mơ
của tôi cũng rất hợp vào đấy! Và đột nhiên tôi nghe chung quanh vang dội tiếng
cười khó hiểu kia, tôi nghe những người bất tử ấy cười. Tôi ngồi như bị hớp hồn
và xuất thần moi túi áo vét tìm bút chì, tìm giấy. Thấy tấm bảng giá rượu vang
trước mặt, tôi lật ngược nó lại, viết lên mặt kia những vần thơ mà mãi hôm sau
tôi mới lại phát hiện trong túi áo. Những vần thơ ấy như sau:
NHỮNG NGƯỜI BẤT TỬ
Từ những lũng sâu nơi trần
thế
Mãi bốc lên tới tận chúng ta
nỗi khát khao mãnh liệt của cuộc đời,
Cảnh bần hàn cùng cực, cảnh
thừa thãi mê cuồng,
Làn khói đẫm máu của hàng
nghìn bữa ăn cuối cùng của đám tử tội,
Khoái lạc vật vã, dục vọng
khôn cùng,
Những bàn tay của lũ sát
nhân, những bàn tay của bọn cho vay cắt cổ,
những bàn tay chắp lại của
kẻ nguyện cầu,
Bầy người bị nỗi sợ và dục
vọng quất túi bụi
Chúng toát mùi thịt sống,
nóng ẩm và thối rữa,
Chúng hít thở lạc thú và
niềm hưng phấn man dại,
Chúng nhai nhau nghiến ngấu
rồi lại ọe ra,
Chúng hoạch định những cuộc
chiến tranh và bàn tính về mỹ thuật,
Chúng trang hoàng bằng cuồng
vọng ngôi nhà chứa đang ngùn ngụt lửa,
Chúng ăn sống, nuốt tươi và
phóng đãng
qua những trò vui chơi nơi
chợ phiên huyên náo thế giới trẻ thơ của chúng
Nó vươn lên từ những làn
sóng cho mỗi trẻ sơ sinh
Như nó từng rã thành cát bụi
cho mỗi con người
Chúng ta, ngược lại, đã ngự
Trong giá băng rực rỡ sao
trời trên Thượng giới[53]
Chúng ta không cần biết đến
tháng ngày, giờ khắc,
Không phân chia nam nữ, trẻ
già.
Tội lỗi hay niềm lo nỗi sợ
của các người.
Hành vi sát nhân hay lạc thú
nhục dục của các người
Đối với chúng ta chỉ là cảnh
tượng như các vầng dương đang luân chuyển,
Đối với chúng ta mỗi một
ngày đều là ngày dài nhất.
Chúng ta nhìn xuống cảnh
sống nhốn nháo của các người mà lặng lẽ gật gù,
Rồi lặng thinh ngẩng nhìn
tinh tú vần xoay.
Chúng ta hít thở mùa đông
của vũ trụ,
Làm bạn với thiên long,
Kiếp trường sinh của chúng
ta lạnh lẽo và bất biến,
Tiếng cười vĩnh cửu của
chúng ta lạnh lẽo và sáng rực ánh sao.
[51] Những tổ khúc ngắn của
Mozart.
[52] Klavier: tên gọi chung
mọi loại đàn có bàn phím để gõ lên bộ dây - chẳng hạn đàn piano (vì thế trong
tiếng Đức Klavier thường được hiểu là dương cầm) - Theo Wikipedia, Das
wohltemperierte Klavier (tên tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt là Tuyển tập
phức điệu bình quân luật) là một tập hợp những “khúc nhạc dạo đầu” (prelude) và
những “fuga” (fugue) hay “tấu khúc” do Johann Sebastian Bach soạn vào những năm
1722 và 1740-1742 cho các loại đàn nói trên.
[53] Thượng giới: một nghĩa
của Äther (Ête), nơi Ánh sáng và các thần linh ngự trị (theo thần thoại Hy
Lạp).
Rồi Maria đến. Sau bữa ăn
vui vẻ tôi cùng nàng đi tới căn phòng nhỏ của chúng tôi. Tối hôm ấy nàng đẹp
hơn, nồng nàn hơn, gắn bó hơn bao giờ hết và nàng cho tôi nếm những mơn trớn và
đùa giỡn mà tôi cảm thấy đó là sự hiến dâng trọn vẹn.
“Maria,” tôi nói, “bữa nay
em hào phóng như một nữ thần. Nhưng chớ làm hai đứa mình thành dở sống dở chết
nhé, vì mai là vũ hội hóa trang rồi. Mai em sẽ đi với người bạn nhảy thuộc loại
nào? Bông hoa bé nhỏ yêu quý của anh ơi, anh sợ đó là một hoàng tử trong truyện
thần thoại và em sẽ bị y bắt cóc, không bao giờ tìm được đường về với anh nữa.
Đêm nay em yêu anh khác nào những kẻ yêu nhau tha thiết trước lúc chia tay,
chia tay lần cuối.”
Nàng áp sát môi vào tai tôi,
thì thầm:
“Đừng nói thế, Harry ơi! Lần
nào cũng đều có thể là lần cuối. Nếu Hermine lấy mất anh, anh sẽ không tới với
em nữa. Có thể ngày mai nàng lấy mất anh rồi.”
Tôi chưa bao giờ cảm nhận
được cái cảm giác đặc biệt mãnh liệt của những ngày này, vừa ngọt ngào vừa cay
đắng lạ kỳ, như vào cái đêm trước vũ hội. Điều tôi cảm thấy chính là hạnh phúc:
sắc đẹp cùng sự dâng hiến của Maria; tôi tận hưởng, vuốt ve, hít thở hàng trăm
thứ dục cảm thanh nhã và tinh tế mà mãi sau này, khi về già, tôi mới tìm hiểu;
nó như tiếng róc rách trong một làn sóng đu đưa nhè nhẹ của sự thỏa mãn. Nhưng
đó chỉ là lớp vỏ ngoài thôi, còn bên trong mới thật đầy ý nghĩa, căng thẳng,
định mệnh; trong khi tôi trìu mến và dịu dàng bận rộn với những chuyện lặt vặt
ngọt ngào và xúc động của tình yêu, như thể đang ngụp lặn trong hạnh phúc ấm áp
thì lòng tôi cảm thấy định mệnh của mình đang cắm đầu cắm cổ lao tới trước, như
con ngựa bị săn đuổi và đánh đập nên sợ hãi, phi về phía vực thẳm, về phía nó
sẽ rơi xuống, đầy hãi sợ, đầy khao khát, đầy hiến dâng cho cái chết. Giống như
không lâu trước đây tôi còn chống lại sự cẩu thả thoải mái của tình yêu thuần
nhục cảm, cũng như từng cảm thấy sợ hãi trước sắc đẹp cười cợt sẵn sàng hiến
dâng của Maria, giờ đây tôi cảm thấy sợ hãi trước cái chết - nhưng đó là sự sợ
hãi do ý thức rằng chẳng mấy chốc nó sẽ trở thành dâng hiến và giải thoát.
Trong khi chúng tôi lặng lẽ
đắm chìm trong những vui thú của tình yêu và thuộc về nhau hơn bao giờ hết thì
tâm hồn tôi vĩnh biệt Maria, vĩnh biệt hết thảy những gì liên quan tới nàng và
có ý nghĩa với tôi. Tôi đã học được ở nàng, một lần nữa trước khi kết thúc, sự
phó thác mình cho trò chơi ngoài mặt của cuộc đời như một đứa trẻ, tìm kiếm
những thú vui rất mực phù du, vừa trẻ thơ vừa thú vật trong sự hồn nhiên của
giới tính - một trạng thái mà trong cuộc đời trước kia tôi chỉ biết như những
ngoại lệ hiếm hoi, vì đối với tôi cuộc sống của giác quan và giới tính hầu như
luôn có dư vị cay đắng của tội lỗi, cái hương vị ngọt ngào nhưng bồn chồn của
thứ trái cấm mà một người trí thức phải cảnh giác. Nay Hermine cùng Maria đã
cho tôi xem khu vườn này với tất cả sự tinh khiết vô tội của nó và tôi thầm
biết ơn được là người khách của khu vườn ấy - nhưng sắp đến lúc tôi lại tiếp
tục lên đường rồi. Trong khu vườn này quá đẹp và quá ấm. Số phận của tôi là
tiếp tục cố đạt tột đỉnh cuộc sống, tiếp tục sám hối tội lỗi vô hạn của cuộc
đời. Một cuộc sống dễ dàng, một tình yêu dễ dãi, một cái chết nhẹ nhàng - những
điều này hoàn toàn không phải cho tôi.
Qua những lời úp úp mở mở
của hai nàng tôi đoán rằng người ta dự định sẽ có nhiều thú vui độc đáo và lắm
trò trụy lạc tại buổi vũ hội ngày mai, hoặc tiếp sau đó. Có thể đấy sẽ là màn
kết thúc, có thể Maria đã linh cảm đúng và đêm nay chúng tôi gần gũi nhau lần
cuối, có thể ngày mai bắt đầu cuộc vận hành mới của định mệnh? Tâm hồn tôi chất
chứa đầy khát khao nóng bỏng, đầy âu lo đến ngạt thở và tôi cuồng dại ghì chặt
Maria, một lần nữa chạy qua mọi lối mòn và bụi rậm trong khu vườn của nàng với
ánh mắt bừng bừng thèm khát, một lần nữa cắn vào quả ngọt của cây trái thiên
đường.
Hôm sau tôi ngủ bù cho cái
đêm thức suốt này. Sáng ra tôi đi xe tới chỗ tắm[54], rồi đi xe về
nhà, mệt rã rời, kéo màn cho tối căn phòng ngủ; lúc thay quần áo tôi có thấy
bài thơ trong túi, nhưng chẳng buồn xem mà lăn ngay ra giường, quên Maria, quên
Hermine cùng buổi vũ hội hóa trang. Tôi ngủ vùi suốt ngày, chiều mới dậy; mãi
lúc cạo râu mới sực nhớ chỉ một giờ nữa thôi buổi vũ hội sẽ bắt đầu và tôi phải
lúc tìm một chiếc sơ mi trắng để mặc với áo đuôi tôm. Tôi vui vẻ đóng bộ rồi ra
khỏi nhà, trước tiên để đi ăn tối.
[54] Ở châu Âu, nhiều ngôi
nhà xây vào đầu thế kỷ 20, hoặc trước nữa, không có buồng tắm. Người dân phải
sử dụng các nhà tắm công cộng của thành phố.
Đây là buổi vũ hội hóa trang
đầu tiên tôi tham dự. Xưa kia, thỉnh thoảng tôi cũng đến những dạ hội kiểu này,
đôi khi thấy cũng hay hay, nhưng tôi không nhảy mà chỉ làm khán giả thôi, nên
luôn thấy thật là khôi hài khi nghe người khác kể lể và mừng vui chờ đợi nó.
Còn hôm nay buổi vũ hội cũng là một biến cố đối với tôi và tôi hân hoan chờ đón
với tâm trạng căng thẳng và không phải không âu lo. Vì không dẫn theo bạn nhảy
nữ nên tôi quyết định sẽ đến đó trễ, chính Hermine cũng đã khuyên như thế.
Dạo gần đây tôi hiếm khi tới
quán Mũ Sắt, chốn ẩn dật của tôi ngày trước, nơi những người đàn ông chán nản
ngồi cho qua buổi tối, nốc vang, đóng vai thanh niên độc thân; quán ấy không
còn phù hợp với cuộc sống hiện giờ của tôi nữa. Song tối nay tôi lại bị kéo tới
đó, hoàn toàn tự động. Trong tâm trạng hân hoan lẫn âu lo trước định mệnh và sự
vĩnh biệt, cái tâm trạng đang chết ngự tâm hồn tôi lúc ấy, mọi chốn tôi đã dừng
chân và mọi nơi ghi dấu hồi tưởng trong đời tôi đều ngời lên một lần nữa vẻ huy
hoàng tươi đẹp đau đớn của quá khứ, và như thế có cả cái quán nhỏ mù khói thuốc
lá, nơi gần đây tôi còn là một trong những khách hàng quen thuộc, nơi trước đây
không lâu cái chất làm đê mê tầm thường của một chai vang nhẹ trong vùng cũng
đã đủ để động viên tôi lại trở về được một đêm với cái giường cô quạnh của
mình, để có thể chịu đựng thêm một ngày của cuộc sống. Từ ấy tôi đã thử những
thứ thuốc khác, kích thích mạnh hơn, đã nuốt những chất độc ngọt ngào hơn. Tôi
mỉm cười bước vào cái quán ngày trước ấy, được bà chủ đon đả và những người
khách quen thuộc đang trầm mặc khẽ gật đầu chào đón. Bà giới thiệu món gà tơ
quay rồi bưng cho tôi một con; vang Alsace màu tươi - loại còn non -
được rót vào chiếc ly thủy tinh dày kịch kiểu nông thôn; những chiếc bàn gỗ
sạch sẽ màu trắng và lớp ván ốp tường cũ kỹ màu vàng thân mật nhìn tôi. Trong
lúc ăn uống, lòng tôi trào lên cảm giác của sự tàn phai cùng buổi tiệc chia ly,
cái cảm giác ngọt ngào và đớn đau thầm kín của mối gắn bó tuy chưa hề tách rời
hẳn, nhưng nay đã đủ chín muồi để chia ly với mọi nơi và mọi sự vật trong cuộc
đời trước kia của tôi. Con người “hiện đại” gọi thế là đa cảm; y không còn yêu
quý những sự vật này nữa, kể cả chiếc ô tô là thứ thiêng liêng nhất của y mà y
hy vọng sớm có thể đổi sang một hiệu khác tốt hơn. Con người hiện đại này táo
bạo và tự tin, tháo vát, khỏe mạnh, lạnh lùng và nghiêm ngặt, một mẫu người
xuất sắc; y sẽ chứng tỏ điều này một cách phi thường trong cuộc chiến tranh sắp
tới. Tôi chẳng màng gì mấy thứ ấy, tôi là người không hiện đại cũng chẳng lạc
hậu, tôi đã thoát ra khỏi thời gian, tôi thôi thúc mình cận kề cái chết và
quyết tâm vươn tới cái chết. Tôi chẳng còn chống đối gì sự đa cảm, ngược lại
tôi mừng và biết ơn khi còn cảm thấy trong trái tim đã khô héo của mình chút gì
đấy như thể cảm xúc. Cho nên tôi đã thả hồn mình vào những kỷ niệm với ngôi
quán cũ kỹ này, vào nỗi quyến luyến của tôi với những chiếc ghế cũ kỹ cục mịch,
thả hồn vào mùi khói thuốc và rượu vang, vào một thoáng của thói quen, của hơi
ấm, của một cái gì đấy giống như Tổ quốc mà tất cả những điều này đã tạo cho
tôi. Tạ từ đi thôi, lòng tôi khẽ bảo. Tôi yêu cái ghế cứng ngắc này, cái ly nhà
quê này, yêu vị trái cây mát lạnh của vang Alsace, yêu sự thân thiết giữa tôi
với tất cả và với mỗi thứ trong căn phòng này, yêu gương mặt của những người mơ
màng ngồi uống rượu, những kẻ thất vọng mà tôi từng là anh em của họ từ lâu.
Những gì tôi cảm nhận ở đây chính là sự đa cảm trưởng giả, đượm chút hương vị
lãng mạn lỗi thời của quán rượu thời tôi còn nhỏ, khi mà tửu lầu, rượu vang và
thuốc lá vẫn còn là những món kỳ lạ và tuyệt vời, bị cấm đoán. Nhưng chẳng con
sói thảo nguyên nào nhổm dậy, nhe nanh xé tan tính đa cảm của tôi ra thành từng
mảnh. Tôi ngồi thanh thản ở đấy, nóng bừng bởi quá khứ, bởi tia sáng yếu ớt của
một vì sao vừa tắt lịm.
Một người bán hàng rong bước
vào quán mời hạt dẻ nướng, tôi mua một vốc. Một bà lão bán hoa bước vào, tôi
mua vài bông cẩm chướng tặng bà chủ quán. Chỉ khi tôi định trả tiền mà tìm mãi
không thấy cái túi áo khoác quen thuộc, mới sực nhớ mình đang mặc áo đuôi tôm.
Vũ hội hóa trang! Hermine!
Nhưng hãy còn quá sớm, tôi
lưỡng lự có nên tới Sảnh đường Địa Cầu ngay bây giờ chưa. Vả lại, tôi cảm thấy
- như mọi lần vui chơi trong thời gian gần đây - lòng mình đầy phản kháng và
ngần ngại, một mối ác cảm đối với việc vào trong những sảnh đường rộng lớn,
đông nghẹt và quá ồn ào, một sự nhút nhát kiểu học trò trước những bầu không
khí xa lạ, trước thế giới của những kẻ ăn chơi, trước cảnh khiêu vũ.
Tôi lững thững đi ngang một
rạp xi nê, thấy đèn đuốc và những tấm quảng cáo màu mè khổng lồ sáng lóa; qua
được vài bước tôi quay lại, vào rạp. Tôi có thể thoải mái ngồi yên ở đây trong
bóng tối đến quãng mười một giờ. Theo anh chàng soát vé cầm đèn bấm dẫn đường,
tôi bước cao bước thấp đi qua tấm màn cửa vào căn phòng âm u, tìm được một chỗ
ngồi rồi bỗng dưng thấy mình ở ngay trong Cựu Ước. Đây là một trong
những bộ phim trên danh nghĩa không phải để hốt bạc, lại được quay thật công
phu và tốn kém vì những mục đích cao cả và thiêng liêng, nên thậm chí học trò
còn được các ông thầy dạy giáo lý dẫn tới xem suất xế trưa. Phim diễn tả sự
tích Moses[55] và dân Do Thái thời ở Ai Cập, với cơ man người, ngựa,
lạc đà, dinh thự, sự huy hoàng của các Pharaon và nỗi thống khổ của dân Do Thái
trong sa mạc nóng bỏng. Tôi thấy Moses - một Moses tuyệt đẹp trên sân khấu, tóc
tai chải chuốt hao hao bắt chước Walt Whitman[56] - chống cây
gậy dài, bước chân như của thầm Wotan[57], sôi nổi và buồn bực đi
qua sa mạc, dẫn đầu đám dân Do Thái. Tôi thấy ông cầu khẩn Chúa Trời nơi Biển
Đỏ, rồi Biển Đỏ tẽ ra, để lộ một con đường, một cái khe giữa hai làn nước bị
chặn lại tựa núi cao vòi vọi (các cậu học trò chịu lễ kiên tin[58] được
ông linh mục dẫn xem bộ phim tôn giáo này sẽ tranh cãi dài dài việc các nhà
quay phim dựng cảnh nọ bằng cách nào), tôi thấy nhà tiên tri băng qua biển trên
con đường ấy cùng với đám dân hãi sợ, thấy chiến xa của Pharaon xuất hiện phía
sau họ, thấy quân Ai Cập thảng thốt và lưỡng lự nơi bờ biển, rồi táo bạo tiến
theo, thấy hai núi nước ập vào nhau, vùi lấp Pharaon giáp trụ vàng rực rỡ cùng
các chiến xa và binh lính của y, tôi không khỏi nhớ đến bài song ca bất hủ của
Händel cho hai giọng trầm, ca ngợi thật tuyệt vời biến cố này. Tôi tiếp tục
thấy Moses leo lên núi Sinai, một đấng anh hùng u sầu trên núi đá hoang vu ảm
đạm và thấy Đức Jehova đã dùng bão tố, phong ba và sấm chớp truyền cho ông mười
điều răn[59] như thế nào, trong khi dưới chân núi đám dân hèn hạ của
ông dựng tượng con bê vàng và buông thả vào những trò tiêu khiển khá cuồng
nhiệt. Tôi thật rất lạ lùng và không tin nổi đã cùng xem tất cả những chuyện
này, những sự tích thiêng liêng cùng với các anh hùng và phép lạ - những sự
tích mà thời thơ dại xưa kia đã hé mở cho chúng tôi trí tưởng tượng mơ hồ đầu
tiên về một thế giới khác, một thế giới siêu phàm - tại nơi đây, trước đám khán
giả trả tiền vào cửa để được xem với lòng đầy biết ơn và đang lặng lẽ nhai
những ổ bánh mì con mang theo từ nhà. Đây quả là một tấm hình rời nho nhỏ xinh
xắn từ đống hàng khổng lồ rẻ tiền và bán tống bán tháo văn hóa của thời đại
này. Chúa ơi, để điều tồi tệ này đừng xảy ra thì tốt hơn lẽ ra ngày trước không
chỉ người Ai Cập, mà cả người Do Thái và hết thảy mọi người khác cũng nên bị
diệt vong luôn, chết bằng bạo lực và thích đáng, thay vì chết mòn ghê rợn như
chúng ta ngày nay. Thế đấy!
[55] Moses: theo Cựu Ước,
hơn 1000 năm trước Công nguyên, ông được Chúa Trời giao sứ mạng giải thoát dân
Chúa (dân Do Thái) khỏi ách nô lệ ở Ai Cập, đưa họ vượt bao trở ngại - như Biển
Đỏ và sa mạc Sinai - trong cuộc hành trình gian khổ kéo dài “40 năm” về miền
Đất Hứa.
[56] Walt Whitman
(1819-1892): nhà thơ Mỹ nổi tiếng.
[57] Wotan: còn gọi là Wodan
hay Odin, một vị thần của tộc German.
[58] Còn gọi là “lễ thêm
sức”, tiếp nhận các thiếu niên đạo Tin Lành đạt đủ trình độ cơ bản về giáo lý
làm thành viên chính thức của họ đạo.
[59] Mười điều răn này trở
thành luật đạo Do Thái.

