Anne Tóc Đỏ Và Ngôi Nhà Mơ Ước - Chương 34

34. Con tàu mơ ước
cập bến

Một sáng nọ, khi
một bình minh rực vàng lộng gió đang dâng lên trên vịnh trong từng đợt sóng ánh
sáng, một con cò mỏi cánh nọ bay qua dải đất Bốn Làn Gió trên đường từ Xứ Sở
Những Vì Sao Ban Tối. Dưới cánh nó giấu một sinh vật bé nhỏ đang say ngủ, mắt
mơ màng. Con cò đã mỏi, và nó đăm đắm nhìn ra quanh mình. Nó biết nó đã ở đâu
đó gần đích đến, nhưng nó chưa nhìn thấy được. Ngọn hải đăng trắng to lớn trên
vách đá sa thạch đỏ có những điểm hay của nó; nhưng chẳng con cò nào sở hữu dù
chỉ một chút tài tháo vát dám để một em bé mới tinh, mềm mại lại đó. Một căn nhà
cũ màu xám, có rặng liễu bao quanh, trong một thung suối bừng nở, trông có vẻ
hứa hẹn hơn, nhưng cũng không có vẻ là đích đến. Chỗ trú màu xanh lá lồ lộ phía
xa kia càng hiển nhiên không phải. Rồi con cò rạng rỡ hẳn lên. Nó đã tia thấy
đúng địa điểm… một căn nhà màu trắng nho nhỏ nép cạnh một khu rừng linh sam lớn
thầm thì… với một cuộn khói xanh lờ lững bay lên từ ống khói nhà bếp… một căn
nhà trông đúng như thể sinh ra là dành cho những đứa trẻ. Con cò thở dài một
tiếng thỏa mãn, và nhẹ nhàng hạ cánh xuống mái nhà.

Nửa tiếng sau
Gilbert chạy xuống sảnh gõ lên cánh cửa căn phòng dự phòng. Một giọng ngái ngủ
đáp lại anh và một giây sau khuôn mặt nhợt nhạt, sợ hãi của bà Marilla ló ra từ
đằng sau cánh cửa.

“Bác Marilla, Anne
đã phái cháu đến báo với bác là một quý ông trẻ tuổi vừa đến đây. Anh ta không
mang theo nhiều hành lý, nhưng anh ta nhất định có ý ở lại lâu dài.”

“Vì Chúa!” bà
Marilla thần người ra nói. “Cháu không định bảo với ta, Gilbert, rằng đã xong
hết rồi đấy chứ. Sao ta không được gọi?”

“Anne không để
chúng cháu quấy bác khi không cần thiết. Chẳng ai được gọi cả cho mãi đến hai
giờ trước đây. Không có ‘lối hiểm nguy’ nào lần này cả.”

“Và… và… Gilbert…
đứa bé này sẽ sống chứ?”

“Chắc chắn. Nó nặng
bốn cân rưỡi và… sao chứ, bác thử nghe mà xem. Phổi nó chẳng có gì không ổn,
phải không nào? Cô ý tá nói tóc nó sẽ màu đỏ. Anne đang giận phát điên lên với
cô ấy, còn cháu thì buồn cười gần chết.”

Đấy là một ngày
tuyệt diệu trong căn nhà nhỏ mơ ước.

“Ước mơ tuyệt vời
nhất trong tất cả đã trở thành hiện thực,” Anne nói, nhợt nhạt và sung sướng vô
ngần. “Ôi, bà Marilla, cháu gần như không dám tin, sau cái ngày khủng khiếp mùa
hè năm ngoái ấy. Từ đó đến nay lúc nào cháu cũng bị đau tim… nhưng giờ cơn đau
ấy biến mất rồi.”

“Đứa bé này sẽ thế
chỗ của Joy,” Marilla nói.

“Ôi, không,
không, không đâu, bác Marilla ạ. Nó không thể… không gì có thể làm
được thế. Nó có chỗ riêng của nó, người đàn ông bé xíu thân thương của cháu.
Nhưng Joy bé bỏng có chỗ của mình, và lúc nào cũng sẽ có. Nếu con bé sống nó đã
được hơn một tuổi rồi. Nó sẽ đang chập chững đi quanh trên đôi chân bé xíu và
lắp bắp một vài từ. Cháu thấy nó rõ lắm, bác Marilla ạ. Ôi, giờ thì cháu biết
thuyền trưởng Jim nói đúng khi ông nói Chúa sẽ xoay xở sao cho con cháu sẽ
không giống như một người xa lạ khi cháu tìm thấy nó ở Cõi trên. Cháu đã học
được điều đó trong năm qua. Cháu đã dõi theo sự phát triển của
nó từng ngày và từng tuần… lúc nào cũng sẽ như thế. Cháu sẽ biết đích xác nó
lớn như thế nào từ năm này sang năm khác… và khi gặp lại nó cháu sẽ nhận ra… nó
sẽ không phải là một người xa lạ. Ôi, bác Marilla, nhìn những
ngón chân xinh xắn, đáng yêu của thằng bé kìa! Chẳng kỳ lạ sao khi chúng lại
hoàn hảo đến vậy?”

“Sẽ còn lạ hơn nếu
chúng không hoàn hảo,” bà Marilla nói gọn lỏn. Giờ khi mọi thứ đã an toàn xong
xuôi, bà Marilla lại là mình.

“Ôi, cháu biết…
nhưng có vẻ như chúng không thể hoàn chỉnh như thế được, bác
biết đấy… ấy vậy mà chúng thật hoàn chỉnh, đến tận những cái móng bé xíu. Và
bàn tay thằng bé…chỉ nhìn đôi bàn tay nó mà xem, bác Marilla!”

“Trông rất là giống
tay,” bà Marilla nhượng bộ.

“Bác xem nó bám lấy
ngón tay cháu này. Cháu tin là nó đã nhận ra cháu rồi. Nó khóc khi cô y tá đưa
nó đi. Ôi Marilla, bác có nghĩ… bác không nghĩ thế chứ… rằng tóc nó sẽ màu đỏ?”

“Ta chả thấy mấy
tóc màu gì hết,” bà Marilla nói. “Ta sẽ không lo lắng về việc đó đâu, nếu ta là
cháu, cho đến khi nhìn rõ.”

“Bác Marilla,
tóc mà… nhìn đám lông nhỏ xíu mềm mại khắp đầu nó mà
xem. Dù sao thì, y tá nói mắt nó sẽ có màu hạt dẻ và trán nó sẽ hệt như trán
Gilbert.”

“Và thằng bé có đôi
mắt nhỏ đáng yêu nhất đời, cô bác sĩ thân mến ạ,” bà Susan nói. “Điều đầu tiên
tôi làm là nhìn tai nó. Tóc hay lừa dối còn mũi với mắt thì thay đổi, và ta
chẳng thể nói trước được chúng sẽ ra làm sao, nhưng tai là tai từ đầu đến cuối,
và ta luôn luôn biết mình đang ở đâu với chúng. Nhìn hình dạng của chúng mà
xem… và chúng nằm ngay sát mái đầu quý giá của thằng bé chứ. Cô sẽ không bao
giờ phải xấu hổ về đôi tai của nó, cô bác sĩ thân mến ạ.”

Anne hồi phục nhanh
chóng và hạnh phúc. Mọi người đến và tôn thờ thằng bé, cũng như con người đã
cúi đầu trước ngai vàng của những đứa bé mới sinh từ rất lâu trước khi những
Nhà Thông thái từ phương Đông quỳ xuống thần phục Chúa Hài Đồng trong máng cỏ
Bethlehem. Leslie, từ từ tìm được mình giữa hoàn cảnh sống mới, cứ lượn lờ bên
thằng bé, như một đức Mẹ xinh đẹp đội mũ miện vàng. Cô Cornelia chăm bẵm nó rất
khéo léo như bất cứ người mẹ nào ở Israel. Thuyền trưởng Jim bế sinh linh bé
nhỏ trong đôi tay nâu to bè và dịu dàng nhìn nó, với đôi mắt nhìn thấy những
đứa con không bao giờ được sinh ra dành cho ông.

“Các cháu sẽ gọi nó
là gì?” cô Cornelia hỏi.

“Anne đã chọn được
tên rồi ạ,” Gilbert trả lời.

“James Matthew…
theo tên của hai người đàn ông tốt nhất cháu từng được biết… kể luôn cả anh nữa
đấy,” Anne nói với một cái nhìn hoạt bát về phía Gilbert.

Gilbert mỉm cười.

“Anh chưa bao giờ
biết rõ về bác Matthew; hồi đấy bác ấy rụt rè đến nỗi bọn con trai bọn anh
không thể làm quen với bác ấy được… nhưng anh rất đồng ý với em rằng thuyền
trưởng Jim là một trong những linh hồn quý hiếm nhất và tốt đẹp nhất mà Chúa
từng bao bọc bằng đất sét. Ông vui mừng vô kể vì chúng ta đặt tên ông cho con
của mình. Có vẻ như ông không có ai khác cùng tên.”

“Ừ, James Matthew
là một cái tên ăn chắc mặc bền và sẽ không phai khi giặt,” cô Cornelia nói. “Ta
lấy làm mừng là cháu không đè nó xuống bằng một cái tên lãng mạn khoa trương
nào đó mà nó sẽ lấy làm xấu hổ khi đến lượt nó lên chức ông. Bà William Drew ở
Glen đặt tên con mình là Bertie Shakespeare. Kết hợp hay hớm ghê chứ nhỉ? Mà ta
cũng mừng vì các cháu không gặp quá nhiều rắc rối khi chọn một cái tên. Vài
người gặp những phen kinh khủng. Khi đứa con trai đầu lòng nhà Stanley Flagg ra
đời có quá nhiều vụ giành giật xem thằng bé nên được đặt theo tên ai đến nỗi
thằng bé tội nghiệp phải mất hai năm không có tên. Rồi một đứa con trai nữa nối
tiếp và thế là xong… ‘Thằng Lớn’ và ‘Thằng Nhỏ’. Cuối cùng họ gọi chúng là
Thằng Lớn Peter và Thằng Nhỏ Isaac, theo tên hai ông, và làm lễ rửa tội cho cả
hai đứa cùng nhau. Và đứa nào cũng cố xem mình có hét át được thằng kia không.
Mấy đứa biết nhà MacNab gốc Cao nguyên Scotland ở đằng sau Glen không? Họ có
mười hai đứa con trai, thằng cả và thằng út cùng được gọi là Neil… Neil Lớn và
Neil Bé trong cùng một gia đình. Ờ, ta đoán là họ hết tên để đặt.”

“Cháu đã đọc được ở
đâu đó,” Anne cười lớn, “rằng đứa bé đầu lòng là một bài thơ còn đứa thứ mười
là một bài văn xuôi chán ngắt. Có lẽ bà MacNab nghĩ đứa thứ mười hai chỉ là một
câu chuyện cũ kể lại.”

“À, nhà đông con
thì nói thế,” cô Cornelia nói, với một tiếng thở dài. “Ta là con độc nhất trong
suốt tám năm và ta thực tình mong có anh chị em. Mẹ bảo ta hãy cầu xin một đứa…
và ta cầu nguyện mới ác chứ, tin ta đi. Ờ, một ngày nọ dì
Nellie đến nói với ta, ‘Này Cornelia, có một em trai dành cho con trên lầu
trong phòng má con đó. Con có thể đi lên mà gặp em.’ Ta háo hức và vui sướng
đến nỗi ta cứ gọi là bay lên gác. Và bà Flagg già giơ đứa bé lên cho ta nhìn.
Chúa ơi, Anne thân mến ạ, ta chưa bao giờ thất vọng như thế trong đời. Cháu
thấy đấy, ta xin một người anh hơn mình hai tuổi cơ.”

“Phải mất bao lâu
cô mới vượt qua được nỗi thất vọng của mình?” Anne hỏi, giữa tràng cười.

“À, ta căm Ông Trời
một thời gian kha khá đấy, suốt mấy tuần liền ta thậm chí còn không thèm nhìn
đứa bé. Chẳng ai biết vì sao, vì ta không hề nói. Rồi thằng bé bắt đầu dễ
thương thật là dễ thương, và giơ đôi bàn tay nhỏ xíu ra với ta và ta bắt đầu
thinh thích nó. Nhưng ta không thật sự chấp nhận thằng bé cho tới ngày một đứa
bạn cùng trường đến xem nó và nói nó nghĩ thằng bé thật quá sức nhỏ con so với
tuổi. Ta cứ gọi là nổi giận đùng đùng, và ta lao vào con bé kia, nói với nó
rằng nó nhìn một đứa trẻ mà cũng không biết, rằng thằng bé nhà ta là đứa bé
đáng yêu nhất thế giới. Và sau đó ta cứ là thần tượng thằng bé. Mẹ mất trước
khi nó tròn ba tuổi và ta là chị kiêm mẹ của nó. Thằng nhỏ tội nghiệp, nó không
bao giờ khỏe mạnh, và nó mất khi mới hơn hai mươi tuổi. Có vẻ như ta sẵn sàng
từ bỏ mọi thứ trên đời, Anne ạ, chỉ để nó được sống.”

Cô Cornelia thở
dài. Gilbert đã đi xuống và Leslie, nãy giờ lầm bầm hát ru thằng bé James
Matthew bên cửa sổ áp mái, đã đặt nó nằm ngủ trong nôi và đi ra. Ngay khi cô an
toàn ra khỏi tầm nghe, cô Cornelia cúi xuống nói bằng giọng thì thầm đầy vẻ âm
mưu:

“Anne cưng, ta vừa
nhận được một lá thư từ Owen Ford hôm qua. Ngay lúc này hắn đang ở Vancouver,
nhưng hắn muốn biết liệu ta có thể cho hắn ở trọ sau đây một tháng không. Cháu
biết như thế nghĩa là gì rồi đấy. Ờ, ta hy vọng chúng ta đang làm đúng.”

“Chúng ta chẳng có
liên quan gì đến chuyện đó hết… chúng ta đâu thể cản được anh ấy xuống Bốn Làn
Gió nếu anh ấy thích chứ,” Anne nhanh chóng nói. Cô không thích cảm giác “làm
mai” mà những lời thầm thì của cô Cornelia mang lại; và rồi cô yếu đuối đầu
hàng.

“Đừng để Leslie
biết anh ấy sắp đến cho đến khi anh ấy có mặt ở đây,” cô nói. “Nếu cô ấy biết
cháu cảm giác chắc chắn cô ấy sẽ bỏ đi ngay lập tức. Cô ấy định dù gì thì mùa
thu cũng sẽ đi… hôm nọ cô ấy bảo cháu thế. Cô ấy sắp đến Montreal để học nghề y
tá và xem làm được gì thì làm với cuộc đời mình.”

“Ôi Anne thân mến
ạ,” cô Cornelia nói, gật đầu vẻ thông thái, “Chuyện thế nào thì sẽ ra thế ấy
thôi. Cô cháu ta đã làm phần của mình và ta phải để phần còn lại vào tay những
đấng ở cao hơn.”

Báo cáo nội dung xấu