Câu lạc bộ Dumas - Chương 01 - Phần 1
LỜI DẪN
Ánh đèn flash hắt lên tường bóng cái xác người cứng ngắc treo nơi giá đèn
giữa phòng. Do thợ ảnh xoay quanh cái xác để lấy hình cho nên cái bóng tuần tự
hắt lên những bức tranh, lên các tủ kính đầy đồ sứ, lên giá sách, lên tấm rèm
trên khuôn cửa sổ mở. Bên ngoài trời đang mưa.
Dự thẩm viên[1] lo điều tra là một người trẻ tuổi. Mái tóc
thưa rối bời, khoác áo mưa, bụi nước còn bám đầy trên người và trên đầu y trong
khi y đọc cho nhân viên đánh máy đang ngồi trên sofa, máy chữ đặt trên chiếc
ghế phía trước. Tiếng rì rầm bàn tán của mấy cảnh sát viên đi lại trong phòng
lẫn với tiếng máy chữ gõ nhịp theo giọng đọc đơn điệu của y.
[1] Nguyên văn: magistrate, một chức
quan coi việc thi hành luật pháp và thủ tục hành chính ở tòa án địa phương cấp
thấp.
“... mặc pyjama, khoác áo choàng ngủ. Chết do treo cổ bằng dây lưng áo
choàng. Hai tay bị trói đằng trước bằng cà vạt, chân trái vẫn còn mang một
chiếc giày nhẹ đi trong nhà, chân kia để trần...”
[Chúc
bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Dự thẩm viên đụng vào cái chân mang giày của xác chết khiến cái xác nhè
nhẹ, chầm chậm xoay tròn theo sợi dây lụa căng thẳng từ cổ người chết lên tới
giá đèn trần. Cái thây chuyển động từ trái qua phải rồi ngược lại, cho đến khi
ngừng ở vị trí ban đầu, giống như kim địa bàn đảo quanh cực Bắc. Rồi y xoay
mình bước qua một bên tránh viên cảnh sát mang đồng phục đang tìm dấu vân tay
trên cái thây. Một bình hoa vỡ nằm trên sàn và một quyển sách để mở ở một trang
chi chít những vệt chì đỏ đánh dấu. Đó là cuốn Tử tước Bragelonne cũ thuộc loại rẻ tiền bìa bọc vải. Nghiêng mình
qua vai người cảnh sát, viên ký tòa liếc nhìn dòng chữ được gạch dưới:
[2] Còn có tên là Mười năm sau nữa, tiểu
thuyết của Alexandre Dumas bố, thuộc bộ truyện nhiều tập về lính ngự lâm.
“Bọn chúng lừa dối mình,” hắn thì thầm. “Tất cả đều biết!”
“Ai cũng biết cả,” Porthos ngơ ngác trả lời.
Y cho ghi lại đoạn này và lệnh rằng cuốn sách phải được đưa vào báo cáo.
Đoạn y lại gần một người đàn ông cao lớn đứng hút thuốc bên một trong các cửa
sổ mở toang.
“Anh nghĩ sao?”
Người cao lớn mặc áo khoác da có đính huy hiệu cảnh sát trên miệng túi.
Trước khi trả lời, hắn còn cố rít nốt điếu thuốc rồi chẳng thèm nhìn ném đầu
mẩu ngược qua vai ra cửa sổ.
“Nếu thứ đó màu trắng mà lại ở trong một cái chai thì ắt là sữa,” sau
cùng hắn trả lời, úp úp mở mở, song không úp úp mở mở quá, khiến viên ký toàn
không khỏi mỉm cười.
Không giống người cảnh sát, viên ký tòa đứng
nhìn ra đường phố chìm trong mưa nặng hạt. Ai đó vừa mở cánh cửa phía bên kia
phòng khiến một luồng gió mang theo những hạt mưa tạt vào mặt y.
“Đóng cửa lại,” không buồn quay đầu lại, y ra
lệnh. Rồi y nói với viên cảnh sát, “Đôi khi tội giết người được ngụy trang
thành tự sát.”
“Và ngược lại,” người kia bình thản tiếp.
“Anh nghĩ gì về hai tay và chiếc cà vạt?”
“Có lúc người ta sợ mình sẽ đổi ý ở phút cuối...
Nếu đó là vụ giết người thì hắn đã bị trói quặt tay ra sau.”
“Có gì khác đâu,” viên ký tòa phản đối. “Sợi
dây mỏng nhưng chắc. Khi mất chỗ đứng, hắn sẽ chẳng còn cơ may nào, ngay cả khi
hai tay vẫn tự do.”
“Cái gì cũng có thể. Ta sẽ biết nhiều hơn khi
khám nghiệm tử thi.”
Viên ký tòa ngoảnh nhìn cái xác. Người cảnh
sát lấy dấu tay đã đứng lên, tay cầm cuốn sổ.
“Cái trò kinh doanh sách báo này thật là kỳ
quái,” y nói.
Người cao lớn nhún vai.
“Tôi đọc không nhiều,” hắn nói, “nhưng Porthos...
chẳng phải là một trong đám ấy sao... Athos, Porthos, Aramis và d’Artagnan.”
Hắn bấm ngón tay đếm, rồi ngừng lại trầm ngâm, “Thật buồn cười. Tôi cứ tự hỏi
vì sao người ta kêu là ba người lính ngự lâm trong khi thực ra họ có bốn người.”
I. “RƯỢU VANG
ANJOU”
Người đọc cần chuẩn bị tinh thần chứng kiến những màn hung hiểm bậc nhất.
E. Sue, NHỮNG BÍ MẬT THÀNH PARIS.
Tên tôi là Boris Balkan, tôi đã từng dịch cuốn Tu viện thành
Parme. Ngoài ra tôi cũng biên tập mấy cuốn tiểu thuyết ăn khách thế kỷ 19,
các bài báo và phê bình của tôi có mặt trên những tờ báo hay phụ trương khắp
châu Âu, tôi còn mở những cua ngắn hạn mùa hè bồi dưỡng người
viết nghiệp dư. Chẳng có gì đáng nói, e là vậy. Đặc biệt là những ngày này, khi
mà sự tự sát tự ngụy trang thành giết người, những cuốn tiểu thuyết do viên bác
sĩ của Roger Ackroyd viết ra, ngoài ra còn có quá nhiều người khăng khăng đòi
xuất bản hai trăm trang sách về những xúc cảm huyền hoặc họ từng thể nghiệm khi
nhìn vào gương.
Nhưng hãy trở lại câu chuyện.
Lần đầu tôi gặp Lucas Corso là khi gã tới tìm tôi, cắp nách bản
thảo Rượu vang Anjou.
Corso là một thứ lính đánh thuê trong thế giới sách, chuyên săn lùng sách cho
người ta. Làm việc đó có nghĩa là phải có tài ăn nói và chịu bẩn tay. Cũng cần
có phản xạ tốt, tính kiên nhẫn, rất nhiều may mắn cùng với trí nhớ phi thường
để biết chính xác ở một xó xỉnh bụi bặm nào đó, trong cửa hàng của một lão già
nào đó có một quyển sách bị bỏ quên mà nay đáng giá cả một gia tài. Khách hàng
của gã ít và chọn lọc: vài mươi nhà buôn sách ở Milan, Paris, London, Barcelona
và Lausanne, thuộc loại chuyên bán hàng qua catalô, chỉ bỏ tiền làm những món
chắc ăn và không bao giờ có trong tay quá năm chục đầu sách mỗi lần. Những ông
trùm buôn sách cổ dùng giấy da dê hoặc da cừu hay loại sách để lề rộng hơn ba
xăngtimet đáng giá hàng ngàn đô la mỗi cuốn. Đám dã cẩu thính mũi với các bản
Kinh thánh Gutenberg[1], bầy cá mập trong các phiên chợ đồ cổ, loài
dơi hút máu trong những buổi đấu giá, những kẻ sẵn lòng đổi cả ông bà mình để
lấy một bản in đầu tiên. Nhưng họ tiếp khách hàng trong những căn phòng có sofa
da nhìn ra Duomo[2] hay hồ Constance,
và chẳng bao giờ để bàn tay - hay lương tâm mình - lấm bùn. Ấy là những khách
hàng của Corso.
[1] Kinh thánh Gutenberg được xem như cuốn
sách in đầu tiên ở châu Âu.
[2] Duomo: tiếng Ý nghĩa là “giáo đường”. Tòa giáo đường nổi tiếng nhất
là Duomo di Milan theo phong cách gô tích, được xây dựng trong vòng năm thế kỷ
và là giáo đường lớn thứ tư trên thế giới.
Gã tháo cái túi vải buồm sờn rách trên vai đặt xuống sàn, nhìn chằm chặp
vào chân dung Rafael Sabatini[3] trong khung ảnh trên bàn, bên
cạnh cây bút máy tôi vẫn dùng để chữa bài và bản in thử. Tôi thấy vui vui, bởi
hầu hết khách đến đều chẳng mấy để ý tới Sabatini, coi ông như một người họ
hàng lớn tuổi. Tôi đợi phản ứng của Corso. Gã ngồi xuống rồi nở nụ cười nửa
miệng, vẻ mặt trẻ trung, như một con thỏ hoạt hình tông vào ngõ cụt. Kiểu nhìn
lôi kéo người nghe ngay lập tức. Đến lúc nào đó tôi nhận ra rằng gã có thể cười
như một con sói hung ác, và gã biết chọn kiểu cười phù hợp với hoàn cảnh. Nhưng
đó là chuyện khá lâu sau này. Hiện giờ gã có vẻ đáng tin cậy, vậy nên tôi quyết
định thử tung ra một viên đá dò đường.
[3] Rafael Sabatini (1875-1950): nhà văn Anh - Ý nổi tiếng với những tiểu
thuyết phiêu lưu lãng mạn. Tác phẩm tiêu biểu: Thuyền trưởng Blood, Scaramouche, The Sea Hawk.
“Từ lúc mới ra đời anh ta đã được nụ cười ban phước,” Tôi xổ ra
một câu trích dẫn, trỏ bức chân dung: “... và với cảm giác là thế giới
điên rồ...”
Corso chậm rãi và thận trọng gật đầu. Tôi cảm giác mình rất có thể thành
đồng lõa với gã, mặc dù toàn bộ câu chuyện mãi về sau mới xảy ra, tới giờ tôi
vẫn cảm thấy thế. Gã moi từ trong một cái gói bí mật ra điếu thuốc lá không đầu
lọc cũng nhàu nát như cái áo khoác cũ kỹ và cái quần nhung tăm gã mặc. Vân vê
điếu thuốc trên tay, gã nhìn tôi qua cặp kính gọng thép nằm cẩu thả trên mũi
phía trước mái tóc rối bời cắt ngang trán đã ngả xám. Bàn tay kia thọc vào một
trong mấy túi áo như đang ngầm giữ một khẩu súng, cái túi to tướng bị biến dạng
bởi những quyển sách, catalô, giấy tờ và, như tôi biết sau này, một chai đầy
rượu gin Bols.
“... và đây là toàn bộ di sản thừa kế của ông ta.” Gã dễ dàng
hoàn thành tất đoạn trích, sau đó sửa lại thế ngồi trên chiếc ghế dựa và lại
mỉm cười. “Nhưng nói thực, tôi thích Thuyền trưởng Blood hơn.”
Tôi lạnh lùng giơ cao chiếc bút máy. “Ông lầm rồi. Scaramouche với
Sabatini cũng giống như Ba người lính ngự lâm đối với Dumas.”
Tôi thoáng khom người trước bức chân dung. “‘Từ lúc mới ra đời anh ra đã
được nụ cười ban phước...’ Trong toàn bộ các câu chuyện phiêu lưu mạo
hiểm không kiếm đâu ra đoạn mở đầu nào hay như thế.”
“Có lẽ đúng thế,” Corso thừa nhận sau một thoáng suy nghĩ. Rồi gã đặt tập
bản thảo viết tay cất trong một cái kẹp giấy - có túi nhựa bảo vệ từng trang
một - lên bàn. “Quả là trùng hợp khi ông đề cập tới Dumas.”
Gã xoay kẹp giấy lại đẩy về phía trước để tôi có thể đọc được nội dung.
Bản thảo bằng tiếng Pháp, viết trên một mặt giấy. Có hai loại giấy đều đã phai màu
theo thời gian: một loại trắng, một loại nữa màu xanh dương nhạt kẻ ô sáng màu.
Kiểu chữ trên mỗi loại giấy không giống nhau - trên giấy trắng chữ nhỏ và sắc
nét hơn. Kiểu chữ viết trên giấy xanh bằng mực đen cũng xuất hiện trên giấy
trắng nhưng chỉ ở phần chú giải. Tất cả mười lăm tờ, trong đó mười một tờ màu
xanh.
“Đáng chú ý đấy.” Tôi ngẩng nhìn Corso, gã cũng đang nhìn tôi, ánh mắt
lặng lẽ di chuyển từ tệp giấy sang tôi, rồi ngược lại. “Ông tìm được nó ở đâu?”
Gã gãi lông mày, hẳn đang tính xem có nên cung cấp những chi tiết như vậy
để đổi lấy những thông tin gã cần hay không. Kết quả là một vẻ mặt thứ ba xuất
hiện, lần này là một con thỏ thơ ngây. Quả là chuyên nghiệp.
“Quanh đây. Qua khách hàng của một khách hàng.”
“Hiểu rồi.”
Gã ngừng một chút, vẻ thận trọng. Thận trọng là dấu hiệu của sự cẩn thận
và dè dặt, nhưng cũng là dấu hiệu của sự khôn ngoan. Cả hai chúng tôi đều biết
điều đó.
“Dĩ nhiên,” gã thêm. “Tôi sẽ cho ông những cái tên nếu ông cần.”
Tôi trả lời rằng chuyện đó cũng không cần thiết, điều này có vẻ khiến gã
an tâm hơn. Gã sửa lại cặp kính trước khi hỏi ý kiến của tôi về bản thảo. Không
trả lời ngay, tôi liếc lại trang đầu tiên. Tựa đề được viết hoa nét đậm: LE VIN
D’ANJOU.
Tôi đọc to mấy dòng đầu tiên: “Après de
nouvelles Presque désespérées du roi, le bruit de sa convalescence commencait à
se répandre dans le camp... Sau những tin tức hầu như tuyệt vọng về nhà vua,
lời đồn về sự hồi phục của ngài bắt đầu lan truyền trong doanh trại...” Tôi
không ngăn được nụ cười.
Corso tỏ vẻ tán thành, yêu cầu tôi cho ý kiến.
“Không nghi ngờ gì,” tôi đáp, “đây là Rượu
vang Anjou, chương thứ bốn mươi mấy gì đó trong Ba người lính
ngự lâm của Alexandre Dumas bố. Hình như thế.”
“Bốn mươi hai,” Corso khẳng định. “Chương bốn
mươi hai.”
“Đây là thứ thiệt chứ? Bản thảo gốc của Dumas à?”
“Đó là lý do tôi có mặt ở đây. Tôi muốn ông cho
tôi biết.”
Tôi khẽ nhún vai tỏ vẻ không hào hứng gì.
“Sao lại là tôi?”
Đó là một câu hỏi vu vơ chỉ có tác dụng hoãn
binh, dường như không được nhũn nhặn lắm, bởi gã có vẻ mất kiên nhẫn.
“Ông là chuyên gia,” gã đáp lại khô khốc. “Với tư
cách nhà phê bình văn học có ảnh hưởng nhất xứ Tây Ban Nha, ông biết mọi thứ
cần biết về các cuốn tiểu thuyết nổi tiếng thế kỷ mười chín.”
“Ông quên mất Stendhal.”
“Không hề. Tôi đọc cuốn Tu viện thành
Parme do ông dịch rồi.”
“Thật ư. Rất vinh hạnh.”
“Đừng như thế. Tôi thích bản dịch của Consuelo Berges hơn.”
Chúng tôi cùng cười. Tôi tiếp tục thấy gã dễ thương, và bắt đầu hình dung
được con người gã.
“Ông có biết cuốn sách nào của tôi không?” tôi hỏi.
“Vài cuốn. Lupin, Raffles, Rocambole,
Holmes chẳng hạn. Những nghiên cứu của ông về Vanlle-Inclan, Baroja và
Galdos, cũng như cuốn Dumas: Cái bóng người khổng lồ. Cả bài tiểu
luận của ông về Bá tước Monte Cristo.”
“Ông đã đọc tất cả những thứ đó ư?”
“Không. Tôi làm về sách không có nghĩa là tôi
phải đọc chúng.”
Gã nói dối. Hoặc ít nhất là đang cường điệu.
Người này thật chu đáo: trước khi tới gặp tôi, gã đã coi hết mọi thứ có thể có
trong tay về tôi. Gã thuộc loại độc giả ép mình đọc ngấu nghiến bất kỳ ấn phẩm
nào từ lúc còn trẻ trung và ngây thơ - mặc dù tuổi trẻ của Corso rất khó đi
cùng với từ “ngây thơ”.
“Tôi hiểu,” tôi trả lời, cũng chỉ để cho có.
Gã thoáng cau mày, phân vân không biết có phải
mình quên mất điều gì đó không. Rồi gã bỏ kính ra, hà hơi lên mắt kính và bắt
đầu lau sạch bằng cái khăn tay nhàu nát moi từ cái túi áo choàng không đáy. Cái
áo choàng ngoại cỡ khiến gã nom có vẻ gầy yếu, song, với vẻ điềm đạm cùng bộ
răng của loài gặm nhấm, kỳ thực Corso rắn chắc như một khối bê tông. Khuôn mặt
sắc nét và rõ ràng, đầy góc cạnh, cặp mắt lanh lợi luôn luôn tỏ vẻ ngây thơ
thường trực, ngây thơ song nguy hiểm cho bất cứ người nào lọt vào tầm ngắm. Đôi
khi, đặc biệt là lúc yên lặng, gã có vẻ chậm chạp và vụng về hơn thực tế. Trông
gã yếu ớt và không đủ sức tự vệ: bồi bàn cho gã thêm đồ uống, đàn ông cho thuốc
lá, còn đàn bà lập tức chấp nhận gã. Đến khi chuyện xảy ra rồi thì đã quá muộn,
gã cao chạy xa bay sau khi ghi thêm một bàn thắng.
Corso giơ kính trỏ tập bản thảo, “Trở lại với
Dumas. Chắc hẳn một người từng viết năm trăm trang về ông ta thì phải cảm thấy
gì đó quen thuộc khi đối mặt với bản thảo gốc của ông ta chứ.”
Sùng kính như vị linh mục nâng chiếc áo tế thiêng
liêng, tôi đặt bàn tay lên những trang giấy trong túi nhựa bảo vệ.
“Tôi e là sẽ khiến ông thất vọng, nhưng tôi không
cảm thấy gì cả.”
Cả hai đều cười, Corso có cái cười kỳ dị, gần như
đang thì thầm, giống như ai đó không chắc chắn có phải mình và người đối thoại
đang cười cùng một chuyện hay không. Một nụ cười vẹo vọ, xa xăm ẩn ước vẻ xấc xược,
kiểu cười để lại tàn dư trong không khí sau khi chấm dứt. Ngay cả khi chủ nhân
của nó đã bỏ đi.
“Ta hãy đi lần lượt từng bước,” tôi tiếp tục. “Bản
thảo này thuộc về ông?”
“Tôi đã nói không phải. Một khách hàng của tôi
kiếm được, anh ta lấy làm lạ là cho đến giờ không ai biết gì về bản thảo gốc
hoàn chỉnh chương này của bộ Ba người lính ngự lâm... Anh ta muốn
nó được một chuyên gia xác nhận, đó chính là việc tôi đang làm.”
“Thật lạ là ông lại có thời gian làm việc lặt vặt
như thế.” Đó là sự thực. Tôi đã nghe nói về Corso trước cuộc gặp này. “Ý tôi
là, dù sao bây giờ Dumas...”
Tôi bỏ lửng câu nói và cười với vẻ chua xót của
người cùng cảnh ngộ. Nhưng Corso không hề bị lôi cuốn và vẫn đề phòng. “Một
người bạn của khách hàng chỗ tôi,” gã thẳng thừng. “Đó là do sở thích cá nhân.”
“Tôi biết, nhưng không chắc tôi giúp gì được cho
ông. Tôi đã xem qua một số bản thảo gốc, và đây có thể là đồ thực. Nhưng chứng
thực nó lại là vấn đề khác. Để làm việc đó ông cần một nhà giám định chữ viết
giỏi... Tôi biết một người như thế ở Paris tên là Achille Replinger. Anh ta có
một cửa hàng chuyên về bản thảo chép tay và tư liệu lịch sử ở gần Saint Germain
des Prés. Đó là một chuyên gia về các nhà văn Pháp thế kỷ mười chín, một người
thú vị và là bạn tốt của tôi.” Tôi trỏ một cái khung treo trên tường. “Anh ta
đã bán cho tôi bức thư kia của Balzac nhiều năm trước với giá cắt cổ.”
Tôi lấy cuốn sổ, chép lại địa chỉ bên một tấm các
đưa cho Corso. Gã nhét nó vào cái ví da nhàu nát chứa giấy tờ đủ loại. Sau đó
moi từ túi áo khoác ra tập giấy ghi chép và một cây bút chì với cục tẩy bị gặm
nham nhở ở đuôi, y như cây bút của một thằng nhóc học trò.
“Có thể hỏi ông mấy câu không?” gã hỏi.
“Tất nhiên.”
“Ông biết có bản chép tay một chương hoàn chỉnh
nào của Ba người lính ngự lâm không?”
Tôi lắc đầu rồi đậy nắp cây bút Mont Blanc lại.
“Không. Bộ truyện này ra theo kỳ trên tờ Le
Siècle trong khoảng từ tháng Ba đến tháng Bảy năm 1844... Sau khi thợ
sắp chữ làm xong, bản gốc liền bị vứt bỏ. Tuy nhiên cũng còn vài đoạn sót lại.
Ông có thể tìm thấy chúng trong phần phụ lục cuốn sách xuất bản năm 1968 của
nhà Garnier.”
“Bốn tháng không phải là quá lâu.” Corso gặm
chuôi bút chì với vẻ suy tư. “Dumas viết nhanh thật.”
“Thời ấy họ thế hết, Stendhal viết Tu
viện thành Parme chỉ trong bảy tuần lễ. Và trong mọi trường hợp Dumas
đều có người cộng tác. Một người tên là Auguste Maquet làm cho ông trong Ba
người lính ngự lâm. Hai người làm việc với nhau trong cuốn tiếp theo, Hai
mươi năm sau, rồi kết thúc loạt truyện với cuốn Tử tước Bragelonne.
Họ còn tiếp tục hợp tác trong Bá tước Monte Cristo và một vài
cuốn khác. Tôi nghĩ là ông biết chuyện đó.”
“Tất nhiên. Mọi người đều biết.”
“Chắc ông muốn nói những ngày trước.” Tôi thận
trọng đọc lướt qua bản thảo. “Đã qua rồi cái thời mà tên tuổi Dumas khiến số
bản in tăng vọt và làm giàu cho các nhà xuất bản. Hầu hết các tiểu thuyết của
ông ra theo kỳ và kết thúc với hai chữ ‘Còn tiếp...’ Độc giả
ruột nóng như lửa đốt đến tận kỳ tiếp. Nhưng hẳn nhiên ông biết cả.”
“Đừng bận lòng. Tiếp đi.”
“Còn gì để nói tiếp đây? Trong những truyện nhiều
kỳ cổ điển, công thức thành công thật giản dị: Người hùng nam hay nữ có những
phẩm chất hay tính cách khiến cho độc giả đồng cảm với họ. Nếu chuyện đó bây
giờ chỉ còn trong các phim truyền hình nhiều tập, hãy hình dung tác động của nó
đối với tầng lớp trung lưu luôn khát khao các trò kích động và giải khuây,
chẳng cần phân biệt thị hiếu này thị hiếu kia, chẳng cần biết hay hay dở, ở cái
thời không có ti vi hay radio... Dumas là một thiên tài, ông ấy hiểu điều này.
Giống như nhà giả kim thuật trong phòng thí nghiệm, ông thêm vào một chút thứ
này, một chút thứ nọ, và bằng tài năng của mình tạo ra một thứ ma túy hấp dẫn
vô số con nghiện.” Tôi vỗ ngực, không khỏi có chút hãnh diện. “Thậm chí càng
ngày càng nhiều.”